Tựu là bạn thân thiết với tôi trót mấy mươi năm. Đời gai nhọn
biết bao điều đáng kinh hãi. Đôi khi tôi hỏi Tựu, Ông sợ gì nhất. Lần
nào cũng vậy, sợ cái lưỡi.
Tựu có một cái lưỡi rất đẹp. Màu đỏ tươi, người ấy là sức khỏe
tốt. Lưỡi rất dài, có thể là người giàu lý luận. Có thể thôi. Hữu dụng của lý lẽ,
chắc ăn là từ não. Trái tim có thể giúp đỡ thêm cho não giàu cái chân, thiện –
để giảm thiếu cái ăn nói trơn tru, giảo hoạt để hại/ lừa người. Lưỡi của Tựu mỏng,
đầu lưỡi rất nhọn, người có lưỡi ấy thường phát âm ngoại ngữ rất chuẩn.
Cách xử thế của Tựu cũng khá đặc biệt. “Bằng mọi giá, luôn tách ngoài, sống cách biệt cái hiện tại mình bắt buộc phải có mặt”.
Hành trình của chúng tôi từ lúc, tạm là đủ lớn khôn, thời thế
đã dàn dựng sẵn một vở trường kịch. Chúng tôi bị bắt buộc luôn phải có mặt trên
sân khấu, nhưng luôn là những vai phụ không đáng kể. Đôi khi làm thay những vật
dụng. May mắn là đồ trang trí, bọn lính hầu. Một thằng áo đỏ, như cái hình nộm,
đứng ở góc sân khấu, bất động, một hình tượng máu. Một gã ôm một tấm bảng hiệu
đứng đó, thay vì một cây cột được đóng đinh để treo. Bất động, không tiếng nói,
vì mày-là-bối-cảnh. Chung chung, chúng tôi là vô danh; nhưng diễn biến, chúng
tôi là thành phần.
**
Về dòng tộc, họ hàng Tựu, có nhiều vị xuất thân khoa bảng,
thời Nho học. Thân phụ làm quan tri huyện, tuổi “cụ” bấy giờ hãy còn trẻ, thời
chính phủ Trần Trọng Kim, 1945. Ngồi huyện đường chưa tới sáu tháng, quan đã tự
bỏ phủ đường, về vườn. Việc từ quan khi triều đình vua quan nhà Nguyễn hãy còn
đó, quân đội Nhựt Bổn thay quân Pháp “Làm cha xứ này” hãy còn oai phong có mặt
khắp nơi, là một câu hỏi lớn trong dân chúng. Chỉ một đôi vị quan lại cùng tâm
trạng mới hiểu nỗi khó khăn của nhau, “Quân du kích đã ồn ào lắm rồi, cuộc vận
động bạo lực vũ trang đã bắt đầu trong quần chúng”. Nghĩa là cuộc thanh trừng
đã bắt đầu, một xã hội máu đã lộ diện. Tình yêu nam nữ, nghĩa đồng bào đã bị tổn
thương. Mặt trận Việt Minh đã có mặt.
**
Cuộc kháng chiến chống Pháp, 1946, bùng ra, mọi người bận rộn
chuyện sống với Bên-này hoặc Bên-kia. Trong cái lò cừ nóng bỏng, mọi người treo
sinh mệnh của mình trước mỗi thái độ – tham dự hay đoạn tuyệt – Tựu rời bỏ tất
cả, khoác áo nhà tu.
Đi tu vào thời ấy không phải dễ dàng. Toàn quốc đang nằm dưới
sự cai trị của Việt Minh. Họ đang là một danh nghĩa, một đại diện cho Toàn quốc
kháng chiến chống lại sự “Trở lại Đông Dương để tiếp tực nền đô hộ của thực dân
Pháp”.
Thuở ban đầu, với một tình yêu nước nồng nàn, trai tráng phải
lên đường nhập ngũ. Mới là Mùa-Xuân-đầu-tiên của nền Độc lập. Quân đội Việt Nam
thời sơ khai, trang bị thiếu thốn súng đạn. Lính tráng tập trận bằng súng gỗ;
kiếm sắt, mô phỏng theo loại kiếm của binh lính Nhật, từ các lò rèn thủ công lạc
hậu nơi các vùng nông thôn. Nhiều chỉ huy trưởng phải mang thị uy bên mình khẩu
súng lục bằng gỗ, lựu đạn gỗ sơn màu đen.
Lúc ấy quân đội Pháp đã có xe thiết giáp, súng đại liên, đại
pháo, có máy bay oanh tạc. Nếu so sánh lực lượng giữa hai bên thì quá khập khiễng.
Một bên, quân lực được chia bài bản từng quân binh chủng, Không quân, Hải quân,
Lục quân, Pháo binh, Thiết giáp, Nhảy dù… Một bên thì dân quân còn cầm gậy tầm
vông, áo vải thô, đi chân trần. Đường nông thôn, dân chúng phải đào hầm chông,
mong quân Pháp đi sụp lỗ chông nhọn, như ông già bà cả không may sụp lỗ cống.
Khắp nơi trong vùng Việt Minh kiểm soát đã răm rắp tuân theo lệnh “tiêu thổ
kháng chiến”. Cách giải quyết tình thế theo thế yếu về quân lực của mình.
Nghĩa là, luôn luôn phải nghĩa là, ai nấy tự chất rơm rạ, có thể phải đốt cái
nhà của mình trước khi bỏ của chạy lấy người. Đào đường ngang dọc trên quan lộ
Bắc-Nam, phá cầu cống hầu ngăn chặn phần nào sức tiến chiếm của quân Pháp. Nhà
thờ, chùa chiền phần lớn bị đập phá. Cả trường học cũng hoang phế. Bọn trai trẻ
mạnh khỏe đã ra chiến trường, bọn sứt mẻ còn lại phải sớm tối tăng gia sản xuất;
xa dần sách vở.
Tư bản là kẻ thù của vô sản. Kẻ vô học thì thù ghét chữ
nghĩa. Một thời, “giai cấp tiên phong của Kách mệnh 1945” vừa nhú ra, những
sắc phong của triều đình, những sách vở chữ Hán, văn hóa thánh hiền đã thực sự
lâm nạn. Chữ nghĩa quốc ngữ của các nhà văn, nhà học giả tân văn, cũng bị đốt hủy
ráo. Những Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác bị giết. Những Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái
Hưng bị triệt để săn đuổi, loại trừ.
Chính quyền ấy, kể từ Mùa Xuân năm 1946, đã áp đặt một nền
chính trị mới, một chế độ lạ hoắc, tính từ nhiều nghìn năm qua, trong hệ thống
hành chánh, chính trị tổ tiên đã có. Đối với ngoài, là “Đả thực dân”, bên trong
là “Bài phong kiến”. Trên cái chiêu bài ấy nhân rộng, là chống cả tấm lòng thờ
phụng ông bà, bài trừ tôn giáo. Có năm bão tố hạn hán, lúa mùa mất sạch, dân
chúng lại thấy xuất hiện nhiều băng-rôn khẩu hiệu, những cái “Chống” lạ đời, “Chống
thằng giặc trời phá hại mùa màng”. Nói chung là bài trừ, triệt phá cái gốc
gác, cái nền móng, cái văn hóa đạo lý đã vững chải đã trải qua nghìn năm.
Thành phần quan lại cũ, hào phú, là cần phải bị đánh phá,
triệt tiêu. Vì chúng nằm trong tầm nghi ngờ là Việt gian bán nước, là bọn luôn
mong ngóng ngày thực dân Pháp trở lại, ngày phong kiến sống dậy. Lũy tre làng vẫn
xanh như thưở. Trái cà quả cam cũng là sự thật. Nhưng lạ lùng lắm. Người khoác
áo tu hành, đường Chúa, lối Phật, rặt được cho là bọn phi lao động, sống bám
vào áo cơm của dân lành. Người không may bị bệnh tâm thần, thật sự là kẻ điên,
thay vì dành cho họ một tình thương chia sẻ, lại quy/ xem là tên gián điệp cho
bọn Pháp, chỉ giả ngây để che mắt mọi người.
Trong cái xóm làng vừa thân thiết tình đồng bào vừa bị bao
vây bởi hòn bom trái đạn, lại không khí chính trị bao la những oai bức như vậy,
sự xuất hiện của một Tựu-Nhà-sư là cả một hình bóng lẻ loi, và xa lạ. Một kẻ bị
quy tội hoang tưởng, rất bị nghi ngờ là một kẻ phản động.
Sống nơi đây, là triệt để gia nhập. Không đứng ngoài để
hoài mơ một đời khác. Thực tế là một trần trụi. Chẳng sương khói nào hão huyền,
trang trí cho một hy vọng.
**
Bấy giờ, lúc “Vừng hồng Kách mệnh đã tưới máu ngay đỉnh đầu”,
bà con Tựu đã hiểu ra cái lẽ tồn vong. Mong được mở một cánh cửa khác cho đời
là cần thiết. Giấc mơ tách thoát, giấc mộng lìa bầy đàn, là thường trực trong
tâm dạ mỗi con người, sống trong vùng Kháng chiến.
Sẽ có một cuộc đời, nếu qua được bên kia sông.
Mặt trời đã lên Bên-Kia.
Đêm đêm dân chúng hậu phương bên này chiến tuyến, thấy bên
kia sông, nơi cho là “Vùng địch chiếm”, phố thị những vùng ánh điện mơ màng hắt
lên trời đêm. Sông thì rộng. Vì an ninh chỗ giới tuyến, không một chiếc đò
ngang. Trăng khuya lơ lửng. Cây cầu bắt ngang sông chia cắt Vùng-ta và vùng-địch-chiếm,
đã ăn mìn tiêu thổ kháng chiến, chỉ là một cái xác sụp gãy, buồn bã dòng nước
trôi.
Vào một thời, mỗi vùng mỗi tỉnh của Việt Nam là “đất da
beo”. Quân Pháp và quân đội Quốc gia ở vùng các đô thị, thị trấn. Việt Minh kiểm
soát vùng thôn quê và rừng núi. Việt Minh gọi Vùng Quốc gia là Vùng địch đóng,
Vùng bị tạm chiếm.
Bên này cây cầu giới tuyến, có kẻ, trong tiếng thở dài khuya
khoắt, lén nhìn vừng sáng bên kia sông. “Tôi ở bên này sông, bên kia vùng địch
đóng” Bên ấy, có thể là nơi có hơi thở dễ dàng hơn; người lớn có niềm tin,
trẻ em có trường học; ông già bà cả kẻ bệnh đau, có được cái bệnh viện đàng
hoàng, thuốc men, sự chăm sóc y tế đầy đủ.
Thế là có cái ước mơ thoát ly.
Thế là mong trở lại đầu nguồn Tự do.
Con suối sẽ trong.
Con sông sẽ rộng những bến bãi bình yên.
**
Tựu “về thành”. Gọi là “dinh tê”. Trở lại vùng Quốc gia. Tựu
vào trường, khi tuổi đã lớn. Đỗ cử nhơn, ra làm giáo sư. Thuở ấy, bằng cấp còn
it ỏi. Một vị cử nhân văn chương, là ở cao tầng lắm.
Nhưng, lúc đời sống ổn định, “bình minh đã sáng ngời”, thì
tâm thần Tựu lại mất ổn định. Cuộc nội chiến Bắc Nam, thực sự khởi chiến là năm
1960, cũng là mùa Xuân, với Tựu trong hiện tình là một điều khó giải mã. Chắc
chắn phải tìm ra một chân lý, nhưng tương tàn giữa anh em ruột thịt là một đọa
đày phi nghĩa.
Trong thân thể Việt Nam có những bàn tay dâng hương mong
cuộc hòa bình, lại có những đầu não mong muốn mỗi con người bàn tay phải đẫm
máu trong danh xưng anh hùng.
Tựu từng là một sinh viên xuất sắc, một thầy giáo uyên bác,
nhờ một đời sống từng trải, đọc rất nhiều sách triết học, kinh sách các tôn
giáo. Cái thuận chiều, là Tựu phải đóng góp rất nhiều cho văn học, nghiên cứu,
hoặc dịch thuật, anh lại chọn một thái độ sống khá lạ lẫm. Chọn một Cái Bơ vơ.
Làm một Kẻ Lạ. Chênh vênh và lạnh lùng. Một nửa, của tiên ông phiêu lãng; nửa
kia là một phù thủy. Lung linh. Mơ hoặc. Tựu bạn lữ với cây cỏ trời mây khi
ngao du đó đây. Sau, tìm tới thú vật. Muốn biến chim chóc khỉ vượn chia sẻ bớt
tâm tư của con người. Nghĩa là chúng phải biết nói tiếng người. Nói thay cho
người. Lại giả dụ ngựa biết bay. Con trâu con ngựa cũng mong đào thoát. Huyền
thoại đã từng nói ngựa bay bổng lên trời, Tựu tin điều có thật. Phải có một cái
thế gian huyền hoặc nhẹ nhõm, chẳng phải cái trần tục chém giết, bụi bặm, bận rộn
nhỏ nhen này.
Tựu có pháp thuật dạy chim biết nói.
Bọn chim cũng cơ khổ lắm vì kỹ thuật luyện/ dạy cam go của Tựu.
Có con chim đau đớn rên rỉ, vì cái lưỡi bị tu sửa, bào cho mỏng, vót cho nhọn đầu
lưỡi. Nhiều đêm Tựu tâm sự, an ủi con két con nhồng, “Gắng mà sống. Bọn bây
đau, chỉ đau cái thể xác mà thôi”.
Đến nhà Tựu chơi, thật là vui. Một hôm tôi tới thăm Tựu. Tựu
biết xưa nay thay vì rót trà mời khách, thì phải rót tôi ly rượu hay khui chai
bia. Nhà trong thành phố, dù vậy, Tựu trồng mấy bụi trúc, khoảng sân rộng, trước
nhà. Trúc vàng, và nắng rất vàng. Ngần ấy bóng với lá thôi nhưng ta cứ tưởng
mình đang ở trong rừng, vì, bọn nhồng, két trò chuyện với nhau. Như chúng đang
diễn một vở kịch.
– Khách tới nhà sao không chào.
– Ông ấy quen lắm chào chi.
– Quen cũng phải chào chứ
– Đù má mày chào đi, tao đéo chào.
– Vì sao đéo chào?
– Vì là điều tao muốn.
Tiếng nói người từ cổ chim. Nó lơ lớ, cứng, rất vụng về.
Nhưng nghe ra, ta khó thể cười cợt. Lại rất ngậm ngùi. Rất xót xa những những
cái lưỡi loài vật biết nói. Tựu đoan quyết, “Chim chóc nói tiếng người,
lương thiện hơn con người nói”. Đấy là ta tin vào cái tính thật, của tự
nhiên; cái phong thái thanh cao của thiên nhiên; và sợi dây thiêng, đã nối kết
thế giới Vật và Người.
**
Nhưng không hợp thời rồi Tựu ơi. Khi lũ chim nhà Tựu đối đáp
sành sỏi, thảo luận với nhau nghĩa lý như một bọn nhà văn trong quán rượu; thì
thời thế đã đổi thay. Mây xám từ nay đã hoài hoài trên bầu trời. Khí độc đã từng
giờ trong gió. Và cái di hại sẽ đời đời trong mọi kiếp người. Đúng cái khắc
giây chín mùi của sự nhục nhã, vị Đại tướng Tổng thống thân yêu của chúng ta đã
ban lịnh toàn quân, toàn dân phải buông súng đầu hàng… “những chàng du kích”.
Những nhạc sĩ không còn da đầu, chỉ những xương lòi máu, đã
kịch liệt ca ngợi mùa xuân ấy, “Mùa Xuân đẹp nhất tên Người”
Tiếng hát của bọn thiếu niên vỗ đều theo tiếng trống, trong
phố thị.
Tiếng biển Đông về khuya khoắt im vắng, giúp người ra khơi.
Tiếng sóng rất êm đềm Lời truy điệu.
Và, tiếng hát cũng rất ngây thơ, trong lành tiễn đưa những
Tương lai niên thiếu vào huyệt mộ.
**
Rồi cái sử lịch ấy, cái nước non ấy, đất tổ của chúng tôi trở
nên một Cõi man dã. Một đất nước lạ lẫm, hiu hắt và lẻ loi trong nhân loại. Nơi
ấy, nơi Đất tổ của chúng tôi, một đế chế mới được thiết lập. Con người được
nhìn ngắm, quản lý, như gỗ rừng và súc vật.
Đây đúng là thời kỳ, Tựu nhận ra, là con người không tự do
nói những gì là nguyện vọng chính đáng của mình. Câm lặng, giam mình trong bóng
tối của số phận là việc chẳng nên. Tựu ra sức dạy bọn chim chóc nhồng két nói
nhiều hơn. Và biết lắng nghe nhiều hơn, để nói những gì.
Một đêm, cảnh sát khu vực tới nhà Tựu kiểm tra hộ khẩu – tờ
khai gia đình. Đêm khuya tịch mịch, con thằn lằn cũng im lặng lắng nghe, bao
nhiêu người trong gia đình anh phải trình diện trước viên cảnh sát. Số người có
mặt phải trùng khớp trong tờ kê khai, có đóng con dấu đỏ xác nhận của chính quyền.
Thiếu một cũng không được. Thừa một có thể đi tù.
Bất ngờ lúc gia đình đang bị kiểm tra, con nhồng chỗ hàng
hiên la toáng lên, Giọng của chim khàn đục, như cổ họng bị nghẹn. “Ai muốn ở
đâu thì ở chứ”. Viên cảnh sát sửng sốt nhìn chim. Một con đứng trên bàn. Một
chỗ thành ghế. Một con bay vòng vòng trần nhà. Vài con đang ngoài vườn bay vào.
Chúng như muốn nổi loạn. Viên cảnh sát hỏi Tựu:
– Chim không nhốt trong lồng ư?
Tựu nghiêm chỉnh nói:
– Bọn chim nhà tôi không muốn bị nhốt trong lồng.
– Chúng không bay mất ư?
– Khi có tự do, chim cũng như người, bay đi đâu.
Thấy con nhồng đứng yên trên bàn, viên cảnh sát chộp ngay. Hắn ta bóp mạnh con
vật. Con vật van vái, “Thả tôi ra. Tôi cần tự do. Thả tôi ra…”. Viên cảnh sát
ném mạnh con vật nhỏ xuống sàn nhà. Trong óc phọt ra câu chửi thề nhất định phải
phọt ra, “Đù mẹ, tự do cái mả bà mày”.
Lúc ra về, viên cảnh sát nói với Tựu:
– Lũ chim nhà này có vấn đề. Bọn thù địch, bọn diễn biến dạy
nó nói.
Tựu cứ nuôi chim. Chừng một phần đời có ý nghĩa của Tựu đã trở lại. Kẻ mong đứng
bên lề đã làm một việc từ trung tâm.
Lũ chim nhà Tựu chừng “phấn khởi”. “Nói đi rồi chết. Chửi đi
rồi tật nguyền cũng cam”.
Tựu chơi trò mới. Bắt dàn máy phóng thanh. Liền tù tì sáng
trưa chiều tối trong ba bốn ngày liền, lũ chim chóc trong vườn, ngoài vườn bay
nhảy, trò chuyện, thảo luận đủ mọi việc. Giọng của chúng vang khắp một khu phố.
Người phố thị quá vui. Rất nhiều người thu âm, hòng đưa lên phây- bốc, chát mạng
gì đó. Bản tin thiệt hay. Nhiều người thấy quá đã, hàng xóm tâm sự cùng nhau, “Lũ
chim nhà Tựu chửi ngọng nghịu mà cũng …vấn đề lắm”.”Tội nghiệp mấy cái số phận”.
“Nói, để được chết mà!”.
Nhưng,
Ông Tựu không chết.
Người ta không tuyên án tù, không giết ông Tựu.
Người ta không cắt nước uống từ một nhà nào cả. Việc đó là hạ
sách.
Người ta chỉ cắt tiệt đi, ngay chỗ đầu nguồn cung cấp nước.
Một đêm Tựu được âm thầm mời đi. Hai tháng sau Tựu được thả
về.
Tuy ốm o nhưng Tựu vẫn là một con người bình thường đủ tay chân tai mắt mũi. Chỉ
cái lưỡi bị cắt mất tiêu.
Lũ chim mất nguồn.
Midway, 10-2019
Cung Tích Biền