Năm đó chàng độ hăm lăm hăm sáu tuổi. Không chừng đến ba
mươi cũng nên. Chàng không nhớ rõ: vào khoảng từ hăm sáu tới ba mươi. Một đêm đầu
tháng chạp mẹ chàng trở bệnh. Hai giờ sáng, chàng lấy tờ báo chiều hôm trước ra
tìm bác sĩ trực.
— Đường Võ Di Nguy, số chừng ấy, khoảng nào nhỉ? Số lẻ, phía
bên nào nhỉ?
Cả nhà không ai nghĩ ra. Một danh từ, một con số, không có
gì đặc sắc cả, không ai để ý đến, không ai có một ý niệm gì hết.
Khi chiếc tắc-xi ngừng, chàng nhận thấy phòng mạch này cũng có vẻ quen quen, chàng đã đi ngang qua nhiều lần.
Thủy đỡ mẹ xuống xe. Chàng bấm chuông gọi. Đây là lần đầu
chàng đến phòng mạch ban đêm. Trước nhà, dưới ô-văng, có một ngọn đèn đặt trong
hộp kính mờ, bên ngoài vẽ dấu chữ thập đỏ. Ánh sáng lãnh đạm, buồn hiu. Năm ba
con vật li ti có cánh bay lởn vởn. Một con thằn lằn rình trên vách, gần đấy.
Làm sao biết có người thức nghe tiếng gọi của chàng vừa rồi?
Chàng ngần ngại, rồi bấm chuông lần nữa. Một ngọn đèn khác,
cũng bóng đục, nhỏ bằng quả bóng bàn, bật sáng ngay phía trên cửa sổ. Bên trong
đã trả lời.
Lát sau người y tá mở cửa, mời vào. Lại chờ đến năm phút nữa
là ít. Phía trong phòng việc của bác sĩ, người y tá đi lại, mở đèn, khua động.
Bên ngoài, chàng nhìn vơ vẩn từ tấm lịch đến mấy bức tranh cũ trên vách. Vách bẩn,
đã quá lâu không quét vôi lại. Căn phòng có vẻ không được săn sóc.
Viên bác sĩ lặng lẽ làm việc, hỏi rất ít, nói rất ít, dáng
điệu mang nặng giấc ngủ. Ông chích cho mẹ chàng một mũi kim, pha trộn bằng hai
thứ thuốc. Ông ta nói với cô y tá vắn tắt, thấp giọng một cách biếng nhác, thiếu
cố gắng. Nhiều lần ông phác một dấu hiệu nhỏ thay cho lời nói. Họ hiểu với
nhau. Không phải viên bác sĩ làm việc không cẩn thận. Lúc ngồi viết toa thuốc
cho mẹ chàng, ông ta có lần ngừng lại để nghĩ ngợi, đắn đo. Ngón tay trỏ của
bàn tay trái, một ngón tay to lớn đè lên cánh mũi, ấn xuống, buông ra, rồi ấn
xuống. Mẹ chàng bận bịu với các khuy áo trong áo ngoài phải cài lại. Thủy và
chàng theo dõi ngón tay băn khoăn của bác sĩ trong giây phút trở thành nghiêm
trọng. Cô y tá nhìn nét mặt chàng, chia xẻ sự lo lắng.
Có lẽ vì sự lo lắng ấy, vì một ngón tay đã ấn trên một cánh
mũi đồ sộ của viên bác sĩ, cũng có lẽ vì là một cuộc khám bệnh hai giờ sáng, vì
là một con bệnh hiếm hoi, cho nên mẹ chàng được cô y tá đưa ra tận lề đường.
Khi chiếc tắc-xi rồ máy, gài số, sắp chạy, chàng nghe cô ta đập gọi ngoài hông
xe. Chàng vội mở cửa ra, để được chỉ cho thấy một chéo áo dài của mẹ chàng bị kẹt
vào cửa xe, ló ra bên ngoài. Chàng nói cảm ơn, cô y tá quay vào không kịp nghe.
Sáng hôm sau chàng lại trở lại phòng mạch. Cô y tá ngồi một
mình ở phòng khách, lom khom dũa móng tay. Vóc người rắn chắc, tròn trịa, đẹp.
Nước da không được sáng, hai cánh tay phơi trần ngoài tay áo blouse có nhiều
lông, không phải thứ lông tơ yếu ớt mà là những sợi lông đen khá dài. Nhìn vào
mặt, chàng nhận thấy lông mày của người con gái cũng mạnh mẽ, rậm rạp. Hình như
trong dòng dõi cô ta có pha một chút máu Ấn-độ? Có lẽ vì vậy nên cô ta có cái
mũi tuyệt khéo, sống mũi cao hơn mũi phần nhiều người Việt Nam.
Cô ta vội hỏi: “Cụ không bớt đau sao ông?” — “Bớt. Có khá.
Nhưng có một thứ thuốc trong toa tìm mua không được. Tôi tới xin bác sĩ đổi cho
thứ khác.” — “Ông chờ tí. Bác sĩ chưa đến.” — “Trực một đêm, mỏi mệt. Cô đến sớm
nhỉ.” Người con gái mỉm cười, cúi xuống móng tay. Một bà giúp việc, độ trên bốn
mươi, mặc tạp-dề xanh, từ phía sau đi ra trước nhà, băng ngang qua phòng khách.
Một lát rồi lại trở vào, băng qua phòng khách, đi luôn vô một phòng nào ở sau.
“Cụ được sáu mươi chưa...?” Chàng đáp: “Có lẽ chưa tới đâu
cô, tôi không nhớ rõ.” — “Trông cụ có vẻ yếu đuối... Cô đi theo đỡ cụ đêm hôm
đó là...” — “Cô đoán coi là gì với tôi?” Người con gái nhếch cười nhưng không
nói gì, vẫn cúi xuống móng tay, chờ đợi. Chàng hỏi: “Cô trông nó giống tôi
không?” — “Nếu không giống tôi đã không hỏi.” — “Đàn bà con gái ý tứ thật. Bọn
tôi, cứ... thắc mắc là hỏi liền!” Hai người cười với nhau; chàng cười xòa, còn
người con gái thì hưởng ứng lặng lẽ.
Cô ta hỏi tiếp: “Em kề?” — “Kể như kề. Nó có con chị, mất từ
nhỏ. Chắc nó cũng một tuổi với cô.” — “Cô ấy năm nay bao nhiêu?” — “Mười chín.”
Một chiếc xe chở gạch vừa chạy ngang qua trước nhà, cô y tá không nghe được tiếng
chàng nói. Cô ta ngẩng đầu, hơi nghiêng mặt về phía chàng, nhướn mắt lên, nhướn
riêng con mắt phía chàng, làm cho vòng mi bên ấy vươn cao lên, cong vòng. Cử chỉ
thay thế một câu hỏi tỏ ý bảo chàng lặp lại câu nói vừa rồi. Cô ta tự cho phép
một sự thân mật bất ngờ. Con gái khi phải đi bước trước, họ cũng đi một cách
tài tình, kín đáo.
Một lát sau, khi viên bác sĩ đến, thì chàng đã kể cho cô gái
biết chàng đang theo học ở đâu, tuần trước chàng tập nhu đạo bị trẹo xương như
thế nào, và cô ta đã kịp nói cho chàng biết cô sắp thôi làm việc ở phòng mạch
này, cô không phải là y tá, không biết thuốc men gì cả v.v...
Chàng hỏi bác sĩ xong, trở ra, phòng mạch vẫn chưa có thêm
người khách nào. Cô y tá đứng vịn tay lên cửa nhìn theo chàng. Gọi được xe,
chàng giơ tay chào, cô ta yên lặng cười, không làm dấu gì để đáp lại, nhưng tiếp
tục cái nhìn săn sóc cho đến khi xe chạy.
Về nhà, chàng bắt đầu tẩn mẩn để ý đến vài vấn đề: phòng mạch
này không phải là nhà ở, chỉ là một căn phố nhỏ thuê để tiếp khách, viên bác sĩ
đến đó để khám bệnh rồi về, vậy những đêm trực chỉ có một ông với một cô y tá,
họ ở lại như thế nào? cô ta là gì đối với viên bác sĩ? một cô em họ, một cháu
gái? một người giúp việc? điều này có liên quan gì tới quyết định thôi việc của
cô ta? Và chàng với cô ta sao gần nhau dễ dàng, giản dị quá, việc hai người sẽ
thân nhau không có gì tự nhiên hơn, như không sao tránh được.
Nhưng không phải mỗi lúc người ta mỗi có dịp đi tới phòng mạch
bác sĩ.
Một hay hai tháng sau, mua đôi giày ở một tiệm gần đấy,
chàng sực nhớ, ghé vào xem thì quả phòng mạch đã có cô y tá khác.
Từ đấy căn phố nhỏ có chữ thập đỏ trên hộp kính mờ ấy trở lại
lặn vào đám đông vô danh của nhà cửa đô thị. Chàng đi qua đi lại không chú ý đến
nó, không nhớ gì về nó nữa. Nó lại trở về gia nhập vào những cái nhàm chán của
cuộc sống thường nhật. Không ai có thể lưu ý đến từng ngôi nhà bên đường đô
thành. Đường Võ Di Nguy, số lẻ, phía nào nhỉ? Cả nhà chàng lại không ai nhớ ra.
Có lần, độ chừng một năm sau đó, ở ngã bảy Chợ Lớn, đường bị
kẹt vì một đám ma lớn kéo đi chậm chạp, chàng dừng xe ở đường này trông thấy ở
đường kia một người con gái mặc chiếc áo vàng, tay xách chiếc giỏ mây, đi bên cạnh
một người con gái khác, vừa đi vừa nói cười, cả hai tiến sâu vào một ngõ hẻm.
Trông như họ đi chợ vừa về. Chiếc giỏ có vẻ nặng, cô gái hơi nghiêng người
nhưng bước đi vẫn nhanh. Chàng nhận ngay ra cô y tá năm trước, và đột nhiên nhận
rõ mối cảm tình của mình đối với cô ta. Chàng nghĩ đến một chi tiết chưa bao giờ
nhớ tới, từ hồi ấy đến giờ: lúc viên bác sĩ vào phòng mạch, cô ngừng câu chuyện
đang nói với chàng, đứng lên, chợt bắt gặp mắt chàng đang nhìn vào cánh tay cô,
cô ta nhoẻn cười lấy bàn tay kia xoa mấy vòng lên cánh tay bị nhìn. Nhiều sợi
lông rối lại, rồi bung ra. Cô ta ngượng vì những sợi lông ấy, hay hãnh diện vì
chúng? Chàng nghĩ: cô không nên ngượng nghịu, hãy cứ để yên thế, chúng nó kích
thích.
Những cuộc gặp gỡ như thế không soi sáng, không giải thích
gì thêm cho nhau. Chúng chồng xếp lên nhau, không liên hệ.
Bây giờ là ba mươi năm sau. Cuộc sống thường nhật càng đầy dẫy
những cái vô danh mù mịt, lu lít, nối nhau kế tiếp lướt qua đời chàng, không một
khua động. Một buổi sáng, bỗng nhiên chàng nhớ đến cô y tá đêm nọ ở phòng mạch
một bác sĩ trực.
Bây giờ mẹ chàng đã qua đời trên mười lăm năm, tóc trên đầu
chàng mười phần bạc đến bảy tám, và rụng mỗi ngày một nhiều, phơi lộ những khoảng
da đầu láng bóng;
Bây giờ, sau khi chàng có một người vợ thứ nhất, người ấy chết
vì một mụt độc sau lưng, đứa con lớn đăng lính, lấy vợ, ở lại ngoài Bắc, không
tin tức, không buồn liên lạc với chàng, đứa con gái kế lấy chồng làm thợ sửa
máy thu thanh, sau khi chàng có người vợ thứ hai, người này gian díu với một thằng
bạn khiến chàng nhúng tay vào một vụ sát nhân, sau khi mãn tù về, ngán ngẩm
chuyện vợ con, xế chiều chàng tình cờ gặp người đàn bà luống tuổi hiện đang ăn ở
với chàng;
Bây giờ, khi hầu hết những hy vọng, dự định về cuộc đời của
chàng đã tan vỡ hết, trong một trăm điều dự tính có chín mươi chín điều sụp đổ,
chàng sinh sống bằng nghề chăm nom vườn hồng ba mươi tám giống hoa của một người
chủ Huê kiều, thỉnh thoảng có dịp hưởng chút hãnh diện nhỏ nhặt khi được thi thố
một vài hiểu biết chuyên môn. Một buổi sáng trời kéo dài một trận mưa lôi thôi
sùi sụt, ngồi buồn với tờ nhật trình cũ ngày hôm trước, bỗng nhiên chàng sực
nghĩ tới những gì loáng thoáng xảy ra giữa chàng với cô y tá nọ, chàng, ngót
sáu mươi tuổi đầu, và cô con gái mười chín.
Giữa khoảng cách từ sự việc loáng thoáng xảy ra đó đến ngày
nay chàng đã ba lần vào dưỡng trí viện (lần sau cùng ở mãi hai năm rưỡi, tưởng
không khỏi điên), chàng đã đền tội bốn năm ngoài Côn Lôn, sáng sáng cùng đoàn
tù nhân khổ sai nối đuôi nhau trên con đường trải nhựa độc nhất trên đảo, lặp lại
muôn lần như một cuộc hành trình duy nhất suốt năm này qua năm nọ từ lao xá đến
rừng, để chiều đến lại nối đuôi thả bộ mười cây số trở về chỗ nằm của mình,
chàng đã tự tử hụt một lần, suýt chết vì bệnh lao phổi một lần v.v..., và ngày
nay, một buổi sáng trời mưa, trong không gian kéo dài một điệu hát nhão nhòe
nhão nhoẹt từ một máy thu thanh nào phát ra, chàng bỗng nhớ đến sự việc nhỏ nhặt,
loáng thoáng ấy.
Ngày nay sáu mươi tuổi già, đầu tóc mười phần bạc đến bảy
tám, ngồi một mình với tờ nhật trình cũ và tách cà-phê ba đồng nhấm nghe chua
chua, chàng chợt thấy lại sự việc cũ; giống như một hôm, trưa nắng, một người đứng
trên miệng giếng cúi nhìn xuống lòng giếng quang tĩnh chợt trông thấy cả đáy
cát trắng, thấy một mẩu dây dừa, một chiếc gàu rách đứt dây nằm đó từ năm nào,
thấy chiếc gương con bỏ túi của chị Hai bị tuột rơi hồi chị còn giúp việc trong
nhà (bây giờ chị đã có chồng có con, đi làm ăn phương xa), và lẫn lộn giữa những
thứ ấy là một món đồ chơi bằng nhựa (một chiếc máy bay? một chiếc xe hơi?)
chính ta đánh rơi năm xưa. Hóa ra những cái ấy vẫn còn, còn cả, được giữ ở một
nơi nào đó, giữ hầu như y nguyên mà vô dụng. Để một buổi trưa quang tĩnh, ta
tha hồ nheo mắt nhìn, ngắm nghía.
Chàng ngồi với tách cà-phê chua và nguội; bên kia đường,
trong một gian nhà cửa đóng, từ bên trong lọt ra qua các khe lá sách ánh đèn
vàng cạch của một bóng điện độ bốn chục nến thắp suốt ngày. Cái ánh đèn bất động
và ngoan cố ấy... À, đó cũng là ánh đèn chàng bắt gặp buổi sáng năm xưa, trong
lúc ngồi nói chuyện với cô gái (vốn không phải là y tá) ở phòng mạch, mắt thỉnh
thoảng nhìn sang căn nhà sát bên cạnh. Có lẽ đó là ngọn đèn chong trong kho chứa
hàng của một tiệm Tàu.
Trời, một ngọn đèn vàng cạch tầm thường, khuất lấp trong cái
thường nhật vô danh như thế, vẫn sáng đâu đó nơi chàng suốt ba mươi năm.
12 – 1966
Võ
Phiến