Có lần mình hỏi chồng: Lý do (bây giờ người ta hay gọi là “động
cơ”) nào để anh quyết định tham gia đấu tranh?
Lão trả lời: Vì 3 cô gái điếm người Việt ở Campuchia.
Thú thật, khi ấy mình rất bất ngờ, có phần hụt hẫng và bối rối. Tưởng câu trả lời phải to tát, lý tưởng, chính trị ghê lắm chứ. Lão cũng biết khi trả lời như thế sẽ khiến người đối diện tỏ ra khó hiểu. Từ khó hiểu sẽ dẫn đến thái độ tò mò. Câu chuyện về thân phận ba cô gái điếm được chồng mình kể lại, quả là bi thương. Chồng mình bảo “Vì chứng kiến những phận đời vỡ nát ấy mà anh muốn góp phần nhỏ bé vào cuộc đổi thay đất nước. Hy vọng đất nước mình khá hơn, có dân chủ, có tự do để không còn những cô gái VN phải sang xứ người làm điếm. Không còn cảnh người Việt phải sống tha hương, chịu mọi khổ sở, thiệt thòi, hoặc chết thảm nơi xứ người nữa. Đơn giản thế thôi”.
Ba cô gái ấy tên là Hương, Trầm và Yến, nhưng cũng có thể đó
chỉ là những cái tên giả. Cả ba người đều có cha là những người lính từng phục
vụ trong quân đội VNCH. Sau năm 1975, vì gia cảnh éo le nên họ phải phiêu dạt
sang Campuchia làm gái. Họ gặp nhau và kết nghĩa chị em. Cô Hương bằng tuổi anh
Tú, sinh năm 1968. Vài năm sau ngày SG bị “giải phóng”, gia đình cô Hương cả thảy
4 người lên tàu vượt biên. Chuyến tàu gặp cướp biển và Hương đã chứng kiến cảnh
mẹ mình bị hãm hiếp, ba và anh trai bị cướp biển dùng báng súng đập vào đầu cho
đến chết rồi quăng xác xuống biển. Nhắc đến cuộc đời ba cô gái, có lúc hai vợ
chồng hỏi nhau “Không biết trong ba người, ai có số phận khốn khổ, nghiệt ngã
nhất?”.
Yến sinh năm 1972 quê Mộc Hóa, Long An. Vì hoàn cảnh gia
đình nghèo khó, năm 13 tuổi Yến đã phải theo mẹ đi “tải hàng lậu” thuê cho người
ta từ biên giới Campuchia về Việt Nam. Ba Yến là một cựu quân nhân VNCH. Sau
tháng 4/1975, ông bị bắt đi tù cải tạo. Khoảng một năm sau ông được thả. Ra tù,
ba của Yến tham gia vào một tổ chức chống cộng và bị bắt năm 1979. Anh Tú nói rằng
không biết ông tham gia tổ chức nào, bị kết án mấy năm nhưng đã ở tù 6 năm, từ
1979 đến 1985 thì mãn án, theo lời kể của Hương và Trầm. Một năm sau khi ra tù,
ông qua đời vào tháng 4/1986. Kể từ khi ba qua đời, mẹ Yến ngày càng suy sụp
tinh thần, có lúc hóa điên. Một mình Yến tiếp tục công việc tải hàng lậu cho
người ta để nuôi mẹ, nuôi thân. Một buổi chiều tháng 2/1987, sau khi đi làm về
Yến không thấy mẹ đâu. Linh tính báo cho cô biết điều không lành xảy ra. Cả đêm
Yến đi tìm mẹ nhưng không gặp. Sáng hôm sau, người quen báo tin đã tìm thấy mẹ cô
nằm chết bên mộ của ba.
Năm 16 tuổi, Yến yêu Hùng, con trai của một trong những chủ
buôn lậu mà Yến làm thuê. Hùng lừa Yến sang Nam Vang và bán cô cho một mụ tú bà
người Việt. Yến tìm cách trốn khỏi nhà chứa nhưng bị bắt lại, bị đánh đập tàn
nhẫn. Khoảng 1 năm sau Hùng lại mò đến nhà trọ của Yến ở Nam Vang. Hắn khóc
lóc, van xin và lại thề thốt. Mủi lòng vì thấy Hùng bây giờ đã thành người tàn
tạ (hắn chống nạng vì bị gãy một chân), Yến lại tha thứ và cưu mang Hùng. Vài
tháng sau Yến báo tin cô có bầu, Hùng lại một lần nữa ruồng bỏ, phụ bạc người
yêu. Suốt thời gian Yến mang bầu và sinh con, đều do một tay Hương (đi làm gái)
nuôi nấng. Đến khi thằng Hên lên 1 tuổi, mẹ con Yến và Hương dắt díu nhau lên
Koh Kong. Phận làm gái vẫn đeo đuổi họ. Ở đây, họ gặp Trầm. Vì thương cảm hoàn
cảnh của nhau, ho kết nghĩa chị em, lo cho nhau như người thân ruột thịt.
Yến chết, một cái chết thảm thương và đau đớn. Suốt ba ngày
không thấy Yến về phòng trọ, Trầm và Hương phải bỏ tiền thuê người đi tìm. Để
có thêm tiền chi trả việc tìm bạn, tất nhiên Hương và Trầm phải “làm thêm”, tức
là tiếp khách nhiều hơn ngày thường. Người ta tìm thấy xác của Yến (khi ấy đã
không còn nguyên vẹn do thương tích, do côn trùng bâu kín thân thể) bị vứt ở
chân núi Mô Păng (1). Vì chủ chứa- một mụ đàn bà người Việt có nước da bợt
như xác chết, không cho làm tang ở đấy, thành ra mấy người thợ mộc hàng xóm phải
đi kiếm gỗ, dựng tạm cho cái chòi tại khu đất trống để có chỗ kê quan tài. Đám
tang lèo tèo vài ba người hàng xóm thất nghiệp ngồi dự cho đỡ tủi. Anh Tú kể đoạn
thằng bé Hên 4 tuổi vừa khóc, vừa chửi, vừa kể lể bằng cả ba thứ tiếng Việt,
Khmer và Thái, vừa lấy tay đạp đổ bát nhang và di ảnh của mẹ khiến tôi chảy nước
mắt. Nó cho là mẹ Yến đã lừa nó, không đưa nó về thăm ngoại mà đã vội chui vào
hòm nằm trốn. Rồi một gã người Việt đưa mấy tên lính Campuchia đến phạt vạ vì
dám tổ chức tang lễ ở nơi không được phép. Trầm và Hương lại phải giàn xếp bằng
cách hứa ngủ với mấy thằng lính để “trừ nợ”, để đám tang của Yến được suôn sẻ.
Hôm sau, đưa tro cốt của Yến lên chùa xong, cả hai người chị kết nghĩa của Yến
là Trầm và Hương phải ngủ với mấy tên lính Campuchia như đã hứa.
Hồi tưởng lại chuyện xưa, chồng tôi bùi ngùi: “Năm 1993,
Yến chết thảm ở tuổi 21. Khi sống, Yến không có nổi một ngày vui, vậy mà định mệnh
nỡ lòng nào vẫn ném cho cô một cái chết đầy bi thảm. Với anh, Yến chỉ là một
người quen như bao người quen khác đã đi ngang qua cuộc đời. Và cuộc đời cô
cũng ngắn ngủi hơn những cuộc đời anh đã gặp. Nhưng đến hôm nay, dù đã bao
nhiêu thay đổi, dù đã gần 30 năm trôi qua, anh vẫn không thể quên được mảnh đời
tàn tạ của Yến, không quên được đám tang buồn tủi của Yến ở xứ người”. Nói
chuyện với vợ mà như tự nói với mình vậy.
Kết thúc câu chuyện về ba cô gái điếm, chồng tôi bảo: “Đấy,
giờ em hiểu vì sao anh rất thương và tôn trọng phụ nữ. Cho nên dù em có bắt nạt
anh đến mấy anh cũng nhường. Nhường thôi chứ đừng tưởng là anh sợ nhá”.
Câu chuyện cảm động như thế mà vẫn cài thêm một ý đe vợ vào
được.
Phạm Thanh Nghiên
(Tác giả và chồng đều là cựu tù nhân lương tâm tại Việt
Nam)