03 September 2020

GIA TÀI CỦA NỘI - Thủy Như

Mỗi thứ bảy, vợ chồng tôi thường chở các con đi ăn sáng với ông bà nội của chúng nó. Nếu bận buổi sáng, thì chúng tôi về ăn tối với ông bà. Thời buổi dịch bệnh Vũ hán, chúng tôi phải bỏ thông lệ này vì ba mẹ anh đã ngoài 80 sẽ nguy hiểm hơn khi mắc bệnh này. Cứ mỗi hai tuần, tôi nấu một món ăn khi đến thăm ba mẹ anh. Chúng tôi nói chuyện với nhau trong vườn trước nhà, đeo khẩu trang và giữ khoảng cách 6 feet. Mỗi tuần chúng tôi và các con Facetime nói chuyện với ông bà.

Một cuối tuần khi anh đến cắt tóc cho ba anh, anh trở về với mấy thùng đầy ắp đồ đạc lỉnh kỉnh. Anh giải thích, “ Ba chắc là chán ngồi trong nhà nên dọn dẹp garage. Những đồ này là của ông nội để lại. Ba biểu đem về nhà mình.” Lúc còn độc thân thường hay sưu tập gốc gác của gia đình trước khi đến Mỹ. Vả lại, anh là con trưởng nam. Chắc vậy nên ba anh giao cho những thùng đồ đó. Anh gọi các con đến để xem những món đồ của ông nội anh để lại. Tấm gia ấn anh đã giúp tìm người chạm khắc. Những bài báo và thư từ của ông bà nội lúc sinh tồn. Mấy cái chậu nhỏ với nhiều hình dáng, kích cỡ và có in nổi chim hoa lá trang trí bên ngoài. Những chậu này chắc là ngày xưa ông nội trồng cây kiểng bonsai. Những dụng cụ nhà bếp làm bằng tre và gỗ, có những cái dường như chưa dùng lần nào. Một cái ghế gỗ nhỏ (stepping stool) thật vừa vặn cho nhà bếp của tôi. Anh nói, “Có thể cái ghế này được đóng ở trại Manzanar.”

Anh vui vẻ reo lên khi mở thùng kế tiếp. “À! Các con có biết đây là cái gì không?” Hai thằng con trai tôi thi nhau đoán lung tung. Anh hào hứng chỉ cho hai thằng nhỏ, “Đây là cái khoan tay để đục lỗ trên gỗ. Giữ nó đứng như thế này. Gắn cái mũi khoan vào đây. Xoay cái thanh này cho đến khi mũi khoan xuyên qua bên kia.” Thằng con lớn tôi bảo, “Hay thật! Nhưng mà xoay bao lâu thì mới đục một cái lỗ?”. Anh trả lời con: “Lâu lắm! Nhưng đó có thể là những dụng cụ đắc tiền thời ông nội của ba con trẻ. Các con nhớ là những dụng cụ làm đồ mộc bằng điện của ba chỉ mới có cách đây không lâu. Anh giải thích thêm với tôi, “Thật là ngạc nhiên khi thấy những thứ này. Anh không nhớ thấy ông nội dùng những thứ này lúc ông còn sống. Có thể đây là thùng đồ nghề để ông nội đóng những vật dụng lúc còn ở trong trại Manzanar và lúc mới trở về lại Los Angeles.”

Cũng như những người Nhật khác, hai bên nội ngoại của ba anh đều phải vào trại tập trung Manzanar vào năm 1942 sau khi Nhật thả bom Trân Châu cảng ở Hawaii. Họ phải bỏ nhà cửa và cơ sở làm ăn, mỗi người với hai vali vật dụng tư nhân lên xe chính phủ đến các trại tập trung. Khi họ được ra khỏi trại vào năm 1945, họ dường như trắng tay. Gia đình ông nội anh may mắn được những người hàng xóm tốt bụng trông coi nhà cửa nên khi về Los Angeles còn có chỗ để ở. Tuy vậy, nhà cửa không người ở trong ba năm bị hư hại rất nhiều. Ông nội đã học cách đóng tủ, bàn ghế để dùng trong trại tập trung nên khi trở về với những dụng cụ thợ mộc trong tay ông sửa sang lại nhà cửa và mở tiệm bán trái cây trở lại.

Người Nhật làm lại cuộc đời trên đất Mỹ với niềm kiêu hãnh của mình. Họ đã chứng tỏ rằng họ là những người Mỹ thực thụ. Họ chả ồn ào xuống đường biểu tình đòi công lý khi họ bị cấm vào những khu da trắng hay không được mua nhà cửa. Họ cho con cái học hành tới nơi tới chốn và chính họ chăm chỉ làm ăn. Họ khích lệ con cái tham gia vào các lớp lãnh đạo ngay từ khi còn trong trường học. Cô hai của anh học lớp bảy sau khi ra khỏi trại tập trung. Bốn năm sau, cô là người Nhật đầu tiên làm chủ tịch của hội học sinh ở trường trung học Roosevelt, một trường lớn ở Los Angeles thời bấy giờ. Sau đó cô vào học ở UCLA. Những người Nhật như cô đã vận động hành lang với quốc hội và tổng thống đòi công lý về việc họ bị giam giữ trong các trại tập trung trong thế chiến thứ hai. Người Nhật đã đóng góp rất nhiều tài chính cho các chính trị gia trong các kỳ bầu cử. Kết quả là đến năm 1988 tổng thống Reagan nhân danh nước Mỹ chính thức xin lỗi những người Nhật bị giam trong những trại tập trung. Ông cũng ký một quỹ để bồi thường mỗi người Nhật bị giam trong trại với số tiền hai chục ngàn đô. Trong khoảng 80,000 người còn sống đến năm 1988, có khoảng 60,000 người nhận số tiền này. Nhiều người Nhật không nhận tiền bồi thường vì cho rằng tiền bạc không thể trả cho họ những gì đã mất.

Anh nói với các con, “Bạo động không làm người ta nể mình ngay cả khi mình đạt được điều mình đòi hỏi. Học vấn có thể làm được cả hai. Có thể lâu hơn. Như cái khoan tay này có thể đục lỗ xuyên qua thanh gỗ mà không làm bể thanh gỗ. Cái khoan này cũng có thể đục xuyên qua được cả sắt mà không làm móp méo thanh sắt. Đó là cách của người Nhật lấy lại danh dự. Họ mất một thế hệ nhưng họ đã lấy lại được danh dự và đòi được công lý trong sự nể phục của nước Mỹ mà không làm tổn thương một ai cả.”

Hai cậu con im lặng lắng nghe. Cậu nhỏ tôi tự nhiên hỏi, “Thế ông nội của mẹ có để lại gì không?” Phải mất một phút tôi mới tìm được câu trả lời cho nó. “Ông nội của mẹ để lại một rương giấy tờ chứng minh những ruộng đất ông có từ thời Pháp còn chiếm đóng Việt nam. Ông tin rằng có ngày ông sẽ đem ra để đòi lại những ruộng đất đó. Ông mất và gia đình mẹ sang Mỹ. Chắc là giấy tờ đó không làm gì được. Nhưng ông có để lại những câu chuyện.” Tôi đã nhiều lần kể chuyện cho các con nghe về thời thơ ấu nhọc nhằn và khốn khó của mình. Kể nhiều đến nỗi mỗi lần chúng nó có được món quà nào thích thú, cậu nhỏ của tôi thường nói, “Hồi xưa, mẹ nằm mơ cũng không thấy được món quà này!” Lần này tôi kể cho tụi nó nghe về ông nội của tôi.

Trí nhớ của tôi về ông nội bắt đầu khi ba tôi đi tù cộng sản. Ông bấy giờ đã gần 80 tuổi vậy mà vẫn gánh dao, rựa, lưỡi cuốc và lưỡi liềm đem về trên quê đổi gạo. Tôi có theo ông đi về quê một lần. Ông bó chặt những dụng cụ mà người ta đặt mua vào đòn gánh. Cái bọc nhỏ đựng đá đánh lửa, lò xo nhỏ xíu cho máy đánh lửa và một ít bột ngọt đã chia thành những gói nhỏ. Tôi đi bộ với ông lên ga Tam kỳ để đi xe lửa ra đến ga An Mỹ. Tôi hay gọi nó là ga Ăn Mỳ vì lúc bấy giờ bảng viết trên ga không có không dấu và lúc xuống tàu ông dắt tôi vào ăn một tô mì quảng. Ăn xong, ông cháu vội vàng đi bộ về nhà người bà con ở Thành mỹ trước khi trời tối. Ông cao lớn, gánh nặng nên bước nhanh. Tôi, con bé vừa lên chín, phải chạy theo mới kịp bước ông. Trời đã tối loạng choạng làm tôi hơi lo khi băng ngang cánh đồng trống không một bóng người. Tôi hỏi, “Ông ơi, gần tới chưa?” Gần tới rồi. Thấy cây rơm đằng tê không? Tới đó là tới rồi đó.” Tôi nghe ông nói mà mừng vì chân đã mỏi rời. Ông nói thế nhưng tôi phải đi qua tới mấy đống rơm mới tới nhà bác Xuân khi cả nhà đã tắt đèn đi ngủ.

Chẳng hiểu sao ông lại chọn ở đêm lại nhà bác Xuân, một ngôi nhà có vẻ nhỏ và lụp xụp hơn so với hai nhà của người em là bác Nhật và bác Hảo ở kế bên. Chị Ả vội dọn dẹp cho ông cháu tôi một cái giường ở nhà trên để ngủ. Lội bộ một quãng đường quá dài, tôi ngủ mê mệt. Tôi thức giấc khi nghe có tiếng người nói chuyện lao xao bên ngoài. Đó là bác Nhật và bác Hảo nghe ông tôi ghé qua đêm nên qua chào ông. Tôi vẫn nhớ món trứng vịt chiên vàng do chị Ả, con bác Xuân đã nấu cho ông cháu tôi ăn sáng trước khi lên đường đến Tây lộc. Từ đó đến nay tôi vẫn chưa gặp lại chị lần nào để cảm ơn lòng hiếu khách và sự tiếp đãi rộng rãi của chị và bác Xuân trong những năm tháng nghèo khó lúc đó.

Đi với ông một lần mà tôi nhớ cả đời cái cảm giác mỏi mệt đến đừ người của chuyến đi bộ về quê hôm ấy. Thế mà ông vẫn đi bán như vậy mỗi tháng hai ba lần mà tôi không nhớ ông than van hay bịnh tật gì cả. Hồi đó ông hút thuốc, do ông tự xắt ra từ lá thuốc giang sương vào buổi tối. Tôi nhớ nhiều người đã ho sặc sụa khi hút thử thuốc của ông. Ai cũng bảo thuốc rất nặng, hút vào là say nghiêng trời đất. Ấy vậy mà khi nghe có người nói hút thuốc có hại cho sức khoẻ, ông đã bỏ ngay lập tức. Mỗi lần ông về Tây lộc, ông đều ở nhà bác Tiến. Một lần khi ở quê về, ông kể giọng tức tối. Nửa đêm du kích đập cửa đòi ông trình giấy tờ. Ông nói, “ Tui già gần 80 tuổi có mần chi được mà trình giấy tờ. Ở làng này ai cũng biết tui. Ông bí thư xã, chủ tịch xã đều biết tui từ lúc họ còn nhỏ. Nếu các anh muốn, ngày mai tui sẽ tới nhà ông bí thư xã ngủ lại. Các anh tới đó mà xét giấy.” Nói là làm. Qua ngày hôm sau, ông mang quang gánh qua nhà ông bí thư ngủ lại. Ông bí thư vội vàng đáp, “Mấy đứa đó làm bậy quá! Con biết chú mà! Hễ chú về Tây lộc, chú cứ về ở nhà chị Tiến.” Thế là từ đó chẳng có ai xét hỏi ông giấy tờ gì cả. Đó là lần duy nhất tôi thấy ông nói nhiều về chuyến về quê của ông.

Trong một lần họp mặt họ hàng ở Mỹ, một người bà con kể chuyện về ông nội. Hôm đó ông gánh gạo đổi được trong chuyến bán hàng về lại Tam kỳ. Khi lội ngang qua suối Phú thị, có hai thanh niên chặn ông lại đòi ông đưa tiền. Ông chậm rãi bảo, “Mấy cậu chờ tui qua bờ kia, tui để gánh xuống cho khỏi ướt rồi tui đưa cho mấy cậu.”. Vừa đến bờ, ông rút đòn gánh phang trúng huyệt một thanh niên làm anh này té xuống, tê người không nhúc nhích. Ông quay sang tóm cổ thanh niên kia đang đứng sững sờ và nhấc bổng lên. Ông bóp huyệt cổ làm hắn tái người không thở được. Thấy hắn chắp tay vái lạy, ông thả hắn xuống. Tên thanh niên kia cũng chờ dậy được và cả hai cùng bỏ chạy.

Điều đáng nói là sau đó một trong hai thanh niên này đã đến xin lỗi ông. Có nguời bà con nghe chuyện nên kể lại. Họ kể thêm rằng trước khi Việt minh chiếm đóng Tây lộc, ông là lý trưởng trong làng. Các anh em của ông đều học võ để bảo vệ nhà cửa. Chị em chúng tôi trong nhà chẳng bao giờ nghe ông kể chuyện này hay chuyện ông đánh hai thanh niên kia. Khi tôi kể cho con nghe những chuyện này, chúng hỏi, “Thế ông có dạy võ cho cậu Bình không?” Tôi đáp, “Không bao giờ. Ông chỉ dắt cậu Bình đi ăn cháo lòng sau mỗi chuyến đi bán của ông.” Bình là cháu đích tôn của ông. Ông vẫn thường bảo, tất cả ruộng đất ở trong rương giấy tờ của ông là của Bình. Ông mất lúc 86 tuổi. Gia đình tôi vào Nam, rồi sang Mỹ. Rương giấy tờ ruộng đất Tây lộc của ông để lại Tam kỳ. Chỉ có những câu chuyện của ông được kể lại cho con cháu, những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Đó là gia tài của ông nội tôi để lại.

Thủy Như
Tháng 8 – 2020