Nhà văn Hồ Biểu Chánh (1885-1958)
Năm 21 tuổi tôi ghi danh học chương trình Việt Ngữ mới được
thành lập tại giáo xứ Lavang ở Houston mặc dù lúc đó tôi đã rành tiếng Việt
nhưng vẫn tò mò muốn học hỏi thêm. Chương trình được chia ra làm hai phần –
lịch sử và văn hóa. Người thầy dậy lớp văn hóa chính là Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm,
và từ đó tôi có được một người thầy cho đến ngày hôm nay. Cuối năm 2019 khi
Thầy nói muốn tôi viết một bài thuyết trình về Hồ Biểu Chánh thì tôi coi đây
như là một cơ hội để tìm hiểu thêm về một con người mà mình đã ngưỡng mộ từ hồi
còn là niên thiếu. Tại sao tôi yêu mến ông một cách đặc biệt như vậy mặc dù tôi
là một người đã sống gần 40 năm trên đất Mỹ, đã hấp thụ nền văn hóa Mỹ còn ông
là một nhà văn miệt vườn cách đây 100 năm với giọng văn chương bình dân, những
cốt truyện, triết lý sống mà có lẽ so với bây giờ thì có thể chê là quá
cải-lương hoặc sến? Vì tôi cảm nghiệm rằng Hồ Biểu Chánh đã phải sống trong một
khoảng thời gian mà trời đất thay đổi, ông đứng trước hai nguồn văn hóa cũ và
mới, ảnh hưởng của Trung Quốc và ảnh hưởng của Pháp và tìm cách dung hòa nó,
học cái hay của người ta để áp dụng cho chính mình cũng giống như tôi phải lớn
lên giữa hai nền văn hóa của Việt Nam truyền thống và xứ sở nơi tôi cư ngự.
Đứng trước một cuộc đổi đời như vậy những người có ý chí như Hồ Biểu Chánh sẽ
tìm hướng đi riêng cho họ trong khi những người khác thì chỉ biết an phận, xuôi
theo thời thế. Tuy nhiên khi chọn hướng đi riêng cho mình thì cũng sẽ gặp những
lời dèm pha, chỉ trích, chê bai từ những phe phái không đồng chí hướng với
mình. Chính vì vậy mà Hồ Biểu Chánh xứng đáng được làm gương cho những người
thế hệ sinh trưởng ở hải ngoại như tôi phải biết tạo hướng đi riêng cho chính
mình, hấp thụ cái hay của người để thăng tiến bản thân chứ không thể sống thụ
động, xuôi theo thời thế.
Khi tôi khởi sự nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh thì đã có rất
nhiều tài liệu viết về Hồ Biểu Chánh. Trên trang mạng tổng hợp về Hồ Biểu Chánh
(www.hobieuchanh.com)
tôi đếm được 75 bài viết về con người cũng như văn chương của ông. Không ai có
thể phủ nhận công lao và vai trò của Hồ Biểu Chánh trong việc khai phá nền văn
chương hiện đại Việt Nam. Ông là một người có biệt tài kể chuyện. Văn phong của
ông không bay bướm, chải chuốt, nhưng bình dị như kể chuyện. Đọc truyện của ông
dễ bị xúc động vì lòng cao cả, nhân hậu của những nhân vật chính và những bất
hạnh mà họ phải gánh chịu. Những người viết trước đã phân tách con người, sự
nghiệp, văn phong, và cả những nhân vật trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Tôi sẽ không lập lại những tư tưởng và nhận xét đó ở đây. Tôi nghĩ đa số quí vị
có mặt trong buổi hội thảo ngày hôm nay cũng biết ít nhiều về Hồ Biểu Chánh và
đến tham dự buổi hội thảo này để bày tỏ lòng quí mến đó và hồi tưởng lại kỷ
niệm với Hồ Biểu Chánh. Tôi chỉ xin chia sẻ cảm nghĩ của cá nhân tôi qua cái
nhìn của một thế hệ trẻ lưu dân, sinh ở Việt Nam nhưng trưởng thành ở Mỹ. Những
gì tôi cảm phục được hơn Hồ Biểu Chánh và so sánh bối cảnh xã hội của ông 100
năm về trước và môi trường mà tôi đang sinh sống trong hiện tại.
100 năm trước đây, Nam Kỳ Lục Tỉnh là một thuộc địa của
Pháp không giống như Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai nơi vẫn còn được giữ một chút tự
trị trên lý thuyết dưới quyền bảo hộ của Pháp. Tất cả mọi hành chánh ở trong
miền Nam được tổ chức như một tỉnh ở bên Pháp. Mặc dù vậy xã hội miền Nam thời
đó vẫn còn mang nặng ảnh hưởng của nền văn hóa Nho giáo đã thành nề nếp từ xưa.
Nhưng dần dần những người muốn tiến thân đều phải theo học chương trình Pháp.
Ông Trần Trinh Trạch, cha của Công Tử Bạc Liêu, kể rằng ngày xưa nhà của ông
rất nghèo, năm 12-13 tuổi ông phải đi làm mướn cho một người điền chủ có quốc
tịch Pháp, người chủ gửi ông ta đi học ở trường chánh phủ thay thế cho con trai
của mình vì họ không thích học tiếng Pháp. Nhờ được học tiếng Pháp mà ông Trạch
được làm viên chức của chính phủ thoát khỏi số phận nghèo hèn và sau này được
coi như là một trong bốn người giàu nhất ở miền Nam. Trong khi ở ngoài miền
Trung và Bắc các sĩ tử mới bắt đầu theo phong trào Duy Tân, “cắt búi tóc tó,
vất bút lông cầm bút sắt” thì ở trong Nam, Hồ Biểu Chánh đã theo học từ trường
trung học Mỹ Tho cho đến trường Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn và đỗ được bằng
thành chung khởi đầu cho sự nghiệp công danh từ ký lục cho đến quận trưởng của
ông. Điều này cho thấy Hồ Biểu Chánh có cái nhìn xa, biết nhận thức thời thế để
tiến thân. Lúc còn trẻ, ông học chữ Hán để dịch các tiểu thuyết Trung Hoa đang
thịnh hành lúc bấy giờ. Nhưng ông đã sớm nhận thấy văn xuôi theo thể tiểu
thuyết Tây Phương dễ hấp thụ người đọc và có thể lan rộng trong quần chúng nên
ông đã chuyển sang sáng tác theo thể loại này.
Trong tập ký ức đánh máy của ông, Hồ Biểu Chánh có ghi lại
những tác phẩm mà ông đã viết ra bởi cảm tác phẩm của Pháp. Trong số này thì
tôi xin kể ra ba tác phẩm được ra đời sớm nhất. “Cay Đắng Mùi Đời” năm 1923 cảm
tác bởi “Sans Famille” của Hector Malot xuất bản năm 1878, “Chúa Tàu Kim Qui”
cùng năm 1923 cảm tác bởi “Le Comte de Monte Cristo” của Alexandre Dumas hoàn
tất năm 1844, và “Chút Phận Linh Đinh” năm 1928 cảm tác từ “En Famille” cũng do
Hector Malot viết năm 1893. Chỉ riêng cuốn “Sans Famille” thì bản dịch cũ nhất
là do Huỳnh Lý dịch với tựa đề “Không Gia Đình” in tại Hà Nội năm 1951 và Hà
Mai Anh thắng giải nhất Dịch Thuật 1970 với tác phẩm “Vô Gia Đình”. Điều này
cho thấy Hồ Biểu Chánh đã dùng kiến thức Pháp ngữ của mình để đọc các tiểu
thuyết Pháp từ văn bản gốc không phải qua truyện dịch vì lúc đó chưa có ai dịch
truyện Pháp để xuất bản. Tuy nhiên ông cũng chỉ đọc để lấy cảm hứng và dùng rất
nhiều công sức để tìm những cái hay trong tiểu thuyết tây phương và chuyển đạt
để cho thích hợp với môi trường và độc giả Việt Nam. Cũng trong tập ký ức của
ông, Hồ Biểu Chánh cho biết ông đã dành năm năm để suy nghĩ trong việc dàn dựng
truyện “Chúa Tàu Kim Qui” nhưng một khi ông đã khởi sự viết thì chỉ sau ba
tháng là viết xong cuốn tiểu thuyết này. Thêm một điều đáng phục là Hồ Biểu
Chánh không khởi nghiệp sáng tác của mình bằng tiểu thuyết văn xuôi. Tác phẩm đầu
tay của ông là “U Tình Lục” với 1790 câu thơ lục bát xuất bản năm 1913 vẫn còn
mang nặng thể loại truyện thơ thời đó giống như Truyện Kiều. Nhưng ông ta đã
nhận thấy rằng nền văn hóa cũ mang ảnh hưởng của Trung Hoa không còn thích hợp
với thời đại mới và khéo léo chuyển sang sáng tác thể loại tiểu thuyết mới mô
phỏng theo tây phương nhưng vẫn giữ hương vị đặc thù miền Nam.
Trong các tác phẩm mô phỏng của Hồ Biểu Chánh tôi xin dùng
truyện “Chúa Tàu Kim Qui” để so sánh giữa nguyên bản và tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh. Tôi chọn tác phẩm này vì nhiều người ở Mỹ biết Alexander Dumas hơn là
Hector Marlot. Hồi nhỏ tôi có được đọc “Vô Gia Đình” của Hector Marlot và thích
lắm. Qua đến Mỹ chẳng bao giờ nghe ai nhắc đến Hector Marlot nhưng lại có nhiều
phim dựa trên truyện của Alexander Dumas. Alexander Dumas là một tác giả rất
nổi tiếng và được ưu chuộng vào giữa thế kỷ 19. Ông viết nhiều theo kiểu
feuilleton, chia ra thành từng tập nối tiếp nhau đăng ở trên báo. Do đó truyện
“Le Comte de Monte Cristo” rất dài, nhiều tình tiết, và có nhiều vòng xoắn cốt
truyện (plot twist) để người đọc không chán và háo hức muốn đọc tập tới. Vì để
đăng báo dài hạn nó trở nên gần như là nhiều câu truyện gộp lại thành một.
Truyện này nếu in khổ nhỏ thì lên đến 1000 trang, khổ giấy lớn thì cũng phải
gần 500 trang. Trong khi đó truyện “Chúa Tàu Kim Qui” in trên khổ nhỏ thì chỉ
gần 100 trang có nghĩa Hồ Biểu Chánh rút ngắn truyện của mình chỉ bằng 1/10
nguyên bản của Alexander Dumas. Hồ Biểu Chánh cho biết rằng ông đã tốn năm năm
để dàn truyện của mình. Nếu Hồ Biểu Chánh chỉ phóng tác dựa trên truyện của
Dumas thì chắc truyện của ông sẽ rất dài và nhiều tình tiết giống như nguyên
bản. Nhưng Hồ Biểu Chánh đã nghĩ ra được một cốt truyện rất xúc tích, ít nhân
vật và địa phương để dễ theo dõi. Truyện của Hồ Biểu Chánh và Alexander Dumas
chỉ giống nhau ở chỗ là nhân vật chánh bị vu cáo oan, trốn tù, tìm được kho
tàng và trả thù những người đã làm hại mình. Ngoài ra thì hai tác phẩm mang hai
sắc thái hoàn toàn khác nhau.
Nhân vật chính trong truyện của Hồ Biểu Chánh là “Chúa
Tàu”. Anh ta là một người hiền lành, luôn nghĩ đến chuyện làm việc nghĩa giúp
người hơn là báo oán. Việc báo oán cho bố mẹ là một điều anh ta bắt buộc phải
làm giống như là bổn phận của người con đối với cha mẹ mình. Trước đó anh đã
nghĩ đến chuyện tự tử nhưng khi nghĩ lại nếu mình chết đi thì không ai báo oán
cha mẹ dùm cho mình nên phải cố gắng sống để báo oán cho bố mẹ mình. Ngược lại,
nhân vật chính của Alexander Dumas là “Bá Tước” đã trừng phạt những kẻ làm hại
mình chỉ để trả thù cho chính mình. Kết cuộc, Chúa Tàu đã tha tất cả mà chỉ
trừng phạt có một người trong khi đó Bá Tước đã trừng phạt tất cả mà chỉ tha có
một người. Ngoài nhân vật chính, những nhân vật phụ ở trong truyện của Hồ Biểu
Chánh cũng có tấm lòng nhân đạo, trung tín, và ngay thẳng. Ở trong truyện của
Dumas, vị hôn thê của Bá Tước đã lấy kẻ thù của ông làm chồng sau khi ông bị
bắt giam. Ngược lại Cô Tư Chuyên tuy mới chỉ là người có hứa hẹn với Chúa Tàu
nhưng Cô đã quyết định không lập gia đình, chịu sống trong nghèo khổ để được
giữ trọn tình chung thủy với người yêu đang bị tù tội. Đó là những điểm khác
biệt những nhận vật Việt và nhân vật Pháp. Thêm nữa Hồ Biểu Chánh dùng những
ngôn ngữ đặc thù Nam Bộ mà khi đọc sẽ đem lại một hình ảnh thôn quê Việt Nam
khác với cảnh xa hoa, nhộn nhịp trong truyện của Alexander Dumas . Thí dụ khi
ông kể cô Thu Thủy “chúm chím cười” là tôi đã hình dung ra một cô gái miền Nam
trong bộ áo bà ba, mặt mày dễ thương vui vẻ. Thêm một chi tiết ở trong truyện
“Chúa Tàu Kim Qui” mà không có ở trong truyện “Bá Tước” là mọi người rất là mít
ướt, đụng một chút là khóc, vui buồn gì cũng khóc, trai gái, già trẻ gì cũng
khóc hết. Cô Thu Thủy thấy Chúa Tàu khóc thì cũng khóc theo, con trai của Kỉnh
Chi là con nít mà thấy bố mình khóc cũng khóc theo. Có lẽ thời đó người ta coi
việc khóc lóc như là một cách bày lộ tình cảm nên không ai cảm thấy ngại ngùng
trước cảnh này. Truyện của Alexander Dumas là viết cho người Pháp nên cho dù có
dịch ra tiếng Việt vẫn khó hình dung ra được so với truyện của Hồ Biểu Chánh.
Cả hai truyện của Hồ Biểu Chánh và Alexander Dumas đều chia
sẻ chung những đề tài như hy vọng, công lý, báo thù, khoan dung và tha thứ.
Nhưng Hồ Biểu Chánh qua cách dàn truyện, những nhân vật của ông và luôn cả
những lời bình luận mà ông viết ở trong sách, ta nhận thấy những đề tài trên
một cách dễ dàng và sự phân biệt giữa thiện và ác. Alexander Dumas kết thúc câu
truyện bằng câu “tất cả sự khôn ngoan của con người chỉ tóm tắt trong mấy chữ:
hy vọng và đợi chờ”. Trong khi đó Hồ Biểu Chánh kết thúc câu truyện bằng hai
câu thơ “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chi tranh lai tảo dữ lai trì.” có
nghĩa là việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn
mà thôi, rõ ràng có quan niệm khác biệt với triết lý của Alexander Dumas.
Thời của Hồ Biểu Chánh, chế độ thực dân Pháp đã đặt ra một
guồng máy chính trị để bảo tồn quyền hành của họ và làm lợi cho chính họ trước
tiên. Họ sẽ không làm gì cho người Việt Nam nếu nó không đem lại ích lợi cho
họ. Do đó họ sẽ cấm cản mọi tiến bộ có thể làm khó khăn, đe dọa đến quyền hành
của họ. Ở trong một xã hội mà mọi nỗ lực phát triển bị kìm chế thì chỉ có nghĩa
là theo chính sách “ngu dân”. Người Pháp đã áp dụng chính sách ngu dân để dễ bề
cai trị và bóc lột người mình. Hồ Biểu Chánh đã phải sống và làm việc cho Pháp
trong hoàn cảnh này. Tuy nhiên trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, tôi chưa
từng thấy ông lên án chính quyền Pháp trực tiếp hay gián tiếp. Ông không đổ lỗi
cho ai, cho hoàn cảnh nào mà ông chỉ chủ trương thiện căn ở trong tâm của con
người. Mỗi người có trách nhiệm riêng cho hành động của mình. Ở trong tác phẩm
văn xuôi đầu tiên của ông “Ai Làm Được” sáng tác năm 1912, nhân vật nữ là Bạch
Tuyết muốn làm hại người mẹ ghẻ đã giết mẹ cô để trả thù cho mẹ mình. Tuy nhiên
ông ngoại của cô đã khuyên cô không nên trả thù mà còn nói rằng “người quấy để
cho trời hại, mình chẳng nên kết oán mà tổn đức.” Điều này cho thấy ông khuyến
khích người ta ăn ở hiền lành tích đức không nên gây oán hờn mặc dù người khác
có xúc phạm đến mình nhưng hãy để cho đấng tối cao phán xét hành động của họ.
Chỉ như vậy thì ngăn chặng lại được phản ứng dây chuyền thù oán gây thêm thù
oán mà thôi. Hồ Biểu Chánh tin rằng tiền và lòng ham mê tiền là nguyên nhân
chính khiến cho người ta sa ngã và sống trái đạo làm người. Trong tác phẩm
“Tiền Bạc, Bạc Tiền” viết năm 1925, vợ chồng Bá Kỳ vì ham mê một chút chức
tước, địa vị mà bị khánh tận gia sản đã như vậy mà vợ Bá Kỳ vẫn coi trọng tiền
bạc hơn tài năng, đạo đức. Trong cái hoàn cảnh cá nằm trong chậu của người dân
Việt Nam lúc bấy giờ, Hồ Biểu Chánh đã chọn con đường đúng, đó là chú trọng
thăng tiến bản thân của mình trước, sống theo đạo nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau,
không gây oán thù, theo quan niệm “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão”.
Đã có nhiều người phân tách lối viết văn tả thực phản ảnh
đời sống của người dân miền Nam của Hồ Biểu Chánh nên tôi không cần phải nói
nhiều ở đây. Người ta có thể dùng văn chương của Hồ Biểu Chánh như một tài liệu
tham khảo ghi lại cách sử dụng những từ xưa của người dân miền Nam. Nhưng đối
với những người sống ở Mỹ như tôi thì điều này không mang nhiều ấn tượng lắm.
Chỉ có những người đã quen dùng những từ ngữ mà lâu ngày thấy mất thì mới lưu
luyến đến nó. Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian để thích hợp với hoàn cảnh mới.
Những chữ nào mà lâu ngày người ta không dùng đến có nghĩa là nó không còn được
ứng dụng nữa mà đã có những từ mới thay thế nó. Tuy nhiên, khi đọc truyện của
Hồ Biểu Chánh, tôi hay để ý những chi tiết mà ông ta đã tỉ mỉ ghi lại. Nhờ
những chi tiết này mà tôi hình dung ra được bối cảnh lịch sử của thời đó. Ngày
xưa khi tôi đọc “Kim Bình Mai” của Tiếu Tiếu Sinh, người ta kể mua một đứa con
gái hoặc một phụ nữ về làm người hầu chỉ hết có 6 – 7 lạng bạc trong khi đó Tây
Môn Khánh bỏ ra cả vạn bạc để lo liệu chức tước cho mình. Điều này cho thấy
trong xã hội Trung Hoa thời đó, mạng sống của những người nghèo không đáng là
bao. Hồ Biểu Chánh kể trong truyện “Ai Làm Được” một cô con gái ở dưới quê lên
Sài Gòn sống, đi mượn bốn đồng mua gạo và lòng heo về nấu cháo mang đi bán dạo,
mỗi ngày kiếm được 3 – 5 cắc để sống. Trong khi đó khi Chí Đại khi đi mướn
trạng sư để tố cáo mẹ vợ đã mưu toan giết vợ mình thì luật sư đòi 600 đồng để
kiện dùm. Như vậy, cô bán cháo lòng đi làm trong vòng 4 năm chưa bằng tiền công
của luật sư trong một vụ thưa kiện. Điều này cho thấy sự chênh lệnh quá lớn ở
trong xã hội và người dân nghèo luôn bị bị yếu thế vì không có tiền bạc để bảo
vệ mình. Ngày hôm nay đọc văn chương của Hồ Biểu Chánh vẫn còn thấy mới mẻ vì
những gì ông viết 100 năm về trước vẫn còn hiện diện ở trong xã hội thời đại
này. Ở trong xã hội Mỹ cũng vẫn có những sự chênh lệch trong lợi tức, quyền lợi
cá nhân. Vẫn có những người quá giàu và có những người quá nghèo không khác gì
xã hội Việt Nam thời Pháp.
Hiện tại thế hệ chúng tôi được sống trong một xã hội tự do,
văn minh không như thời của Hồ Biểu Chánh phải sống trong sự đô hộ của thực dân
Pháp. Chúng tôi được tự do ngôn luận, phát huy khả năng của mình. Nhưng chúng
tôi cũng phải sống trong một hoàn cảnh đất trời thay đổi như Hồ Biểu Chánh. Ông
phải đối đầu với làn sóng văn hóa Tây Phương mà người Pháp muốn truyền vào
thuộc địa của mình để xóa đi nền văn hóa bản xứ và đóng dấu sự hiện diện của họ
trên đất nước Việt Nam. Chúng tôi phải sống trong một xã hội mới và chấp nhận
một nền văn hóa mới để hòa nhập với xã hội của mình. Hồ Biểu Chánh đã học tiếng
Pháp, đọc các tác phẩm Pháp và sáng tác theo thể loại của tiểu thuyết Pháp.
Những người thuộc thế hệ tôi cũng phải học tiếng Anh, đọc các tác phẩm bằng
tiếng Anh, và sáng tác theo phong cách của người Mỹ. Tôi thấy đa số các nhà văn
người Mỹ gốc Việt hay viết về đề tài chiến tranh Việt Nam. Có lẽ điều này dễ
hiểu vì đa số các độc giả Mỹ chỉ thích đọc những gì liên quan đến chiến tranh
Việt Nam vì cuộc chiến này là sợi dây định mệnh ràng buộc họ với nhóm người di
dân này. Nếu không viết về chiến tranh Việt Nam thì họ không đọc. Kể cả một nhà
văn trẻ Mỹ gốc Việt đang được độc giả Mỹ ưu chuộng là anh Ocean Vương (Vương
Quốc Vinh). Trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh là “On Earth We’re Briefly
Gorgeous” (Trên trái đất, chúng ta chỉ đẹp trong giây lát) xuất bản tháng 6 năm
2019 anh ta cũng đem cuộc chiến tranh Việt Nam vào trong truyện mặc dù anh ta
sinh ra 13 năm sau cuộc chiến.
Ở Mỹ, những người Mỹ gốc Việt cũng bỡ ngỡ khi phải giao
tiếp với hai nguồn văn hóa Mỹ Việt giống như cha ông ngày xưa của mình bỡ ngỡ
khi phải giao tiếp với văn hóa Pháp từ văn chương Hán Nôm cổ, ảnh hưởng của
Trung Hoa nên Hồ Biểu Chánh dùng truyện phóng tác giống như một nhịp cầu cho
người mình đỡ bỡ ngỡ. Như vậy bây giờ mình cũng có thể dùng văn chương Mỹ giống
như một nhịp cầu để tạo nên một văn hóa mang sắc thái Việt Nam ở Mỹ dù rằng
bước ban đầu vẫn còn phải dựa dẫm ở văn chương Mỹ cho thế hệ sau này đỡ bỡ ngỡ
giống như thời của Hồ Biểu Chánh. Ocean Vương có bằng thạc sĩ học thuật (Master
of Fine Arts) có nghĩa anh đã được huấn luyện về văn chương Mỹ. Ocean Vuong
viết bằng tiếng Anh, nhưng câu truyện của anh vẫn mang nặng âm giai Việt Nam
cũng giống như Hồ Biểu Chánh dùng cốt truyện Pháp nhưng hoàn toàn mang tính
chất Việt Nam. Anh Vinh là một trong những tác giả Mỹ gốc Việt đầu tiên viết về
công việc đã được xã hội Mỹ rập khuôn là kỹ nghệ của người Việt Nam đó là nghề
đi làm nail. Mẹ của nhân vật chính là một người đàn bà bị ám ảnh bởi cuộc chiến
ở Việt Nam. Bà đi làm nail để nuôi con. Đứa con trai duy nhất của bà có một mối
sự quan hệ đồng tính luyến ái với một thanh niên Mỹ trắng mà nó sợ không muốn
cho mẹ mình biết. Trong truyện, Ocean Vương ghi lại những quan hệ, nhưng mẫu
đối thoại giữa hai mẹ con, cuộc sống đi làm nail của bà. Đọc cách nói chuyện
của bà là biết ngay đây là người di dân Việt Nam. Đó là cái hay của anh Vinh đã
ghi nhận được cái ngôn ngữ ba rọi đặc thù này của người Việt Nam ở Mỹ. Chính
người Mỹ cũng cảm mến lối văn tả thực của Ocean Vương vì anh vẽ cho họ thấy
được hình ảnh của những người tị nạn, di dân Việt Nam cũng có đầy đủ những nhân
tính giống như họ. Biết đâu thêm ba bốn đời nữa, hậu duệ của tôi khi đọc cuốn
tiểu thuyết này sẽ hình dung ra được cuộc sống của thế hệ đầu tiên của người di
dân Việt Nam cũng giống như tôi hình dung ra sinh hoạt của người miền Nam ngày
xưa khi đọc truyện Hồ Biểu Chánh.
“Rồi đến một ngày nào đó, qua ba đời, bốn đời, đám con
cháu này sẽ quên mất tiếng nói, phong tục tổ tiên. Qua năm đời, sáu đời, kể cả
những đường nét Đại Việt trên gương mặt chúng sẽ bị hòa lẫn cùng người Cao Ly…“
– Bạch Mã tướng quân – Thất Hoàng tử Lý Long Tường.
Nhưng với mức độ di dân từ Việt Nam đến Mỹ qua việc bảo
lãnh gia đình, các du học sinh lập gia đình và ở lại, người Việt Nam tại hải
ngoại sẽ không phải chịu cảnh mất gốc như các tông thất nhà Lý khi qua lánh nạn
tại Cao Ly. Người Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục duy trì truyền thống Việt do những
người di dân mới đem theo. Người ta sẽ vẫn tổ chức hội chợ Tết Nguyên Đán, vẫn
sẽ có những tiết mục múa lân, đốt pháo, lì xì. Tuy nhiên điều này không có
nghĩa là những người Mỹ gốc Việt nào cũng giống như nhau, cũng cùng một trình
độ văn hóa Việt Nam. Trong cộng đồng này sẽ có những thành phần khác nhau. Sẽ
có những thế hệ đã sống và sinh trưởng ở Mỹ lâu năm nên không còn tha thiết đến
văn hóa Việt Nam khác với những người mới định cư còn mang nặng tâm hồn Việt.
Sẽ có những cuộc hôn nhân giữa người cũ và người mới mang lại một sự hỗn hợp
giữa hai văn hóa. Quan niệm và thói quen của người ở Mỹ lâu đời nó sẽ khác với
người mới qua từ Việt Nam. Điều gì có thể làm cho những thành phần khác biệt
này liên kết với nhau để giữ một nét văn hóa Việt Nam chung? Hồ Biểu Chánh là
người quảng bá những giá trị gia đình, luân lý của xã hội Việt Nam cổ truyền.
Có lẽ trước làn sóng văn hóa Tây Phương, ông vẫn chủ trương triết lý sống theo
đạo nghĩa, khuyên nhủ người ta sống không đua đòi, không coi trọng tiền bạc
trên tất cả để đối phó với chủ nghĩa tự do cá nhân và tiêu thụ của thời đại
mới. Trong xã hội Mỹ ngày này, người ta cũng than phiền về những tác hại của
chủ nghĩa tự do cá nhân và tiêu thụ. Người ta không còn biết đến ai khác ngoại
trừ chính mình. Chúng ta có thể đem những giá trị gia đình, cái đạo làm người
của Hồ Biểu Chánh vào trong văn hóa Việt Nam ở hải ngoại. Một đạo lý có thể
được áp dụng không kể người sống ở Mỹ lâu hay mới ở Việt sang để làm giảm bớt
ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do cá nhân và tiêu thụ hiện tại. Người Việt Nam ở
hải ngoại có thể hấp thụ những văn hóa khác biệt của văn minh thời đại nhưng
chúng ta vẫn còn có thể nhận diện nhau qua một triết lý sống và đạo làm người
đặc thù của người Việt Nam đã có từ khi lập quốc và nền tảng của văn hóa Việt
Nam.
Ở Mỹ hai cháu nội của Hồ Biểu Chánh đã xuất bản một cuốn
sách với tựa đề “The Nobility of Our Hearts: From Bến Súc to Sài Gòn to Austin”
vào đầu năm 2019 và do ông Lâm Văn Bé viết lời tựa. Việc hậu duệ của Hồ Biểu
Chánh viết truyện bằng tiếng Anh và ông Lâm Văn Bé viết lời giới thiệu cũng
bằng tiếng Anh thì quả thật thời thế đã thay đổi. Tên của cuốn sách có thể dịch
là “sự cao thượng của trái tim” và phát xuất từ lời dặn dò của Ông Ba với con
gái mình là Bà Cẩm Hồng, nhân vật chính của câu chuyện. “Chúng ta không thuộc
dòng dõi quý tộc, không phải là những người quan lại, mà chỉ là thường dân. Tuy
nhiên chúng ta vẫn có thể trở thành quý phái với tấm lòng cao thượng khi chúng
ta sống với những đức tính hiền lành, ích lợi cho người khác, ngay thẳng, kiêm
nhường, công bằng và bác ái.” Tuy ý chính của tác giả muốn kể câu chuyện về
cuộc đời của mẹ mình là Bà Cẩm Hồng, nhưng họ đã dành một sự kính trọng và
ngưỡng mộ đặc biệt khi kể về cuộc đời và triết lý sống của người cha, ông Hồ
Văn Kỳ Trân, và Hồ Biểu Chánh là ông nội của họ. Triết lý sống của Hồ Biểu
Chánh được thể hiện nơi người con trai cả là ông Hồ Văn Kỳ Trân. Ông Kỳ Trân đã
giáo dục con cái trong tinh thần này. Những người con của ông hãnh diện khi kể
lại câu truyện của gia đình họ trải qua hơn một nữa thế kỷ bắt đầu từ Bến Súc
trong thời Pháp thuộc cho đến khi tị nạn tại Mỹ và định cư ở thành phố Austin.
Qua bao thăng trầm của thời đại, gia đình của họ đã chủ trương sống với tinh
thần hiền lành, ngay thẳng, khiêm nhường, công bằng, bác ái mà họ đã thụ nhậ
được từ cha ông họ. Họ đã đem cái đạo làm người này theo với họ bất cứ nơi nào
họ sinh sống, từ Việt Nam cho đến Mỹ để có được “sự cao thượng của trái tim”.
Bây giờ người ta có thể đọc truyện Hồ Biểu Chánh và chê
rằng cốt truyện đơn giản, tác giả quảng bá luân lý một cách trực tiếp ở trong
chuyện, nhân vật không sâu sắc, tốt xấu phân chia rõ rệt giống như các thể loại
văn nghệ bình dân. Tuy nhiên Hồ Biểu Chánh là một người tiên phong trong văn
chương hiện đại Việt Nam. Những người viết sau này có những đàn anh đã đi trước
họ để mở đường. Họ có các nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Sáng Tạo để làm thước đo, làm
chuẩn. Nhưng Hồ Biểu Chánh không có ai để làm mẫu, để hợp tác. Chung quanh ông,
người ta vẫn dịch tiểu thuyết Trung Hoa để tiêu thụ song song với những tác
phẩm văn vần, truyện Nôm khuyết danh. Ông là một trong những người đầu tiên
khai phá ra khỏi nền văn chương cũ đó, nhảy từ thơ Lục Vân Tiên sang tiểu
thuyết văn xuôi theo Tây phương. Tiểu thuyết của ông đã gây một ấn tượng lớn
trong những độc giả thời bấy giờ. Xin xem một đoạn văn kể lại phản ứng của một
độc giả lớn tuổi khi nghe truyện của ông:
Mỗi tối, tôi đọc cho bà nghe 5 trang được nửa cái bánh
giò, 10 trang được nguyên một cái. Thỉnh thoảng bà gắt om lên, làm như tôi là
tác giả “tại sao lão Lưu Bị hơi một tị là khóc mếu, lão Tào Tháo thế mà hay,
không gian thế thì làm sao lấy thiên hạ, thế ông Tôn Tẫn trốn đâu?” Chỉ có
“Ngọn cỏ gió đùa”, “Vì đâu nên nỗi” của ông Hồ Biểu Chánh là bà lặng im, thút
tha thút thít. Bà hiếm khi khóc mếu. (Trích từ Ba
Sinh Hương Lửa của Trần Thị Vĩnh Tường).
Tuy ông có công mở đầu nền văn chương hiện đại nhưng tên
tuổi của ông sau một thời gian bị lu mờ trước những hoạt động sôi nổi của nhóm
Tự Lực Văn Đoàn. Nhóm này đã gây ra nhiều tiếng vang, tạo ra những ảnh hưởng
mạnh mẽ trong phong trào canh tân, phá bỏ những tập tục, tư tưởng phong kiến,
cổ hủ nên đạt được nhiều sự hưởng ứng trong xã hội. Trong khi Tự Lực Văn Đoàn
và những nhóm văn sĩ sau này tiếp tục khai phá, phát triển nền văn học Việt Nam
thì Hồ Biểu Chánh vẫn không thay đổi hướng đi của mình. Đọc truyện đầu tiên của
ông là “Ai Làm Được” và truyện cuối cùng là “Vợ Già Chồng Trẻ” in năm 1957 tức là
một khoảng cách 45 năm ta vẫn không thấy có một sự thay đổi nhiều trong lối
viết văn của ông. Có lẽ Hồ Biểu Chánh quan niệm rằng “văn dĩ tải đạo” nên ông
viết văn để quảng bá triết lý sống và ông tin rằng thể loại văn chương bình dân
của ông sẽ dễ được đón nhận bởi những độc giả của ông. Vì ông không chịu thay
đổi nên người ta đã bỏ rơi ông để theo đuổi trào lưu mới. Những tư tưởng của
ông cũng bị cho là không còn hợp thời. Người ta không còn tin rằng “ở hiền gặp
lành” nữa mà là “khôn sống, dại chết”. Cho đến gần đây tên tuổi của ông mới
được nhắc lại trong chương trình giáo khoa và qua những bộ phim dựa vào tiểu
thuyết của ông. Điều này cho thấy rằng những câu truyện của ông vẫn có thể dựng
trong bối cảnh hiện tại vì trong xã hội hiện đại vẫn có những sự chênh lệch,
tranh dành quyền lợi, con người ta làm hại lẫn nhau giống như ở trong xã hội
của Hồ Biểu Chánh. Biết đâu những triết lý về đạo làm người của Hồ Biểu Chánh
nếu đem ra thực hành ngày hôm nay cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho con người giống
như ở trong tiểu thuyết của ông.
Lần đầu tiên tôi về thăm Việt Nam là năm 1999 sau 19 năm xa
quê hương. Lần chót tôi về là tháng 7 năm 2019 cũng sau 19 năm xa cách. Lần này
tôi về ở nhà của một người cô nằm trong một con hẻm nhỏ ở Sài Gòn. Sáng sớm tôi
bị đánh thức dậy bởi tiếng xe máy từ ngoài đường dội vào, tiếng xe máy ồn ào ở
trong hẻm, tiếng rao hàng lanh lảnh của gã bán bánh mì dạo, của bà xôi gấc xôi
vò, rồi tiếng truyền hình phần tin tức của một nhà nào ở gần đó mở thật lớn như
thể cho cả xóm nghe. Tôi đi du lịch một tuần về đến đầu ngõ đã nghe mấy người
đang ngồi ăn hàng trước hẻm nói với nhau “Việt kiều đi chơi về rồi”. Tôi có cảm
tưởng mọi người ở trong hẻm đó sống với nhau như là một gia đình lớn, họ biết
hết chuyện của nhau, cũng có những sự cạnh tranh, ghen ghét, hiềm tị nhau vì
những chuyện nhỏ mọn, nhưng đồng thời họ cũng chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau giống
như trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Sự thành công của những bộ phim dựa
trên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như “Nợ Đời”, “Con Nhà Nghèo”, “Ngọn Cỏ Gió
Đùa”, “Chúa Tàu Kim Quy”, “Cay Đắng Mùi Đời” cho thấy tuy rằng văn chương của
ông không còn hợp thời nhưng những tình cảnh, diễn biến, tình cảm con người mà
ông đã tạo dựng ra mấy chục năm về trước trong các tác phẩm của ông, nó vẫn còn
trung thực với xã hội Việt Nam hiện tại, nó vẫn còn làm rung cảm tâm hồn khán
giả qua phim ảnh. Trải qua bao thời đại, cho dù người ta không còn tin tưởng
hoàn toàn vào việc “ở hiền gặp lành” nhưng cái triết lý sống theo đạo nghĩa của
Hồ Biểu Chánh vẫn còn tiềm ẩn trong con người Việt Nam mặc dù họ đang phải sống
trong một xã hội vẫn còn nhiều bất công, khó khăn và cám dỗ xui khiến người ta
quay mặt lại với đạo lý. Hy vọng khi quảng bá về con người Hồ Biểu Chánh và các
tác phẩm của ông, chúng ta sẽ khơi dậy lại những bản tính tốt của con người thể
hiện qua tình hàng xóm, tình thương yêu trong gia đình, sống hạnh phúc trong
khả năng của mình mà không làm hại đến ai.
Tôi nghĩ tôi là một thành phần thiểu số được đọc Hồ Biểu
Chánh từ hồi còn trẻ. Đa số những người bạn cùng lứa với tôi và luôn kể những
người bạn trẻ mới từ Việt Nam qua cũng chưa bao giờ nghe đến Hồ Biểu Chánh.
Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì Hồ Biểu Chánh là một trong những
tác giả đầu tiên của nền văn học hiện đại nhưng vì dòng thời gian thay đổi cập
nhật nên các tác phẩm của ông đã nhường chỗ cho những tác phẩm mới sau này cho
đến một thời gian gần đây mới được quan tâm đến. Đối với những người bạn trẻ
của tôi, chúng ta nên chú trọng vào con người Hồ Biểu Chánh hay tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh? Đối với thế hệ Việt Mỹ như chúng tôi, tôi nghĩ nên chọn phổ biến
con người Hồ Biểu Chánh. Trong thời đại mà người biết đọc tiếng Việt thì sẽ đọc
những truyện tiếng Việt đăng ở trên mạng toàn cầu. Những người biết đọc tiếng
Anh thì sẽ đọc những bestsellers của Mỹ, những tác phẩm trong chương trình giáo
khoa. Tất cả đều hấp dẫn hơn giọng văn miệt vườn của Hồ Biểu Chánh nên khó mà
có người kiên nhẫn tìm đọc. Tuy nhiên thế hệ thứ hai ở Mỹ cũng cần có những
thần tượng để làm gương cho họ. Nếu không có những thần tượng người Việt Nam
thì họ sẽ dùng những thần tượng ngoại quốc để bù vào chỗ trống. Người Việt Nam
mình có tinh thần biết ơn nên những người có công chống ngoại xâm, bảo vệ độc
lập cho đất nước như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung đều được tôn thờ và tưởng
nhớ đến bây giờ như những anh hùng dân tộc. Tuy nhiên, giới trẻ Việt Nam cần
những người có những đức tính thực tiễn, được xã hội Mỹ quí trọng như tinh thần
đạo đức, lãnh đạo, tự tin, can đảm, khiêm nhường, kính trọng, siêng năng, và
sáng tạo như vậy thì mới có thể hòa hợp với hai văn hóa. Hồ Biểu Chánh tuy sinh
trưởng cách đây 100 năm nhưng ông vẫn có những đức tính này vì vậy chúng ta vẫn
có thể thuyết phục những người trẻ tự hào về ông tuy rằng họ không đọc các tác
phẩm của ông vì ông dám học hỏi từ văn chương Pháp, nhưng lại phát minh ra một
lối viết mới cho văn học Việt Nam. Ở Mỹ ai cũng mơ rằng mình phát minh ra một
sáng kiến mới để làm giàu nhanh chónh nên việc làm của Hồ Biểu Chánh phản ảnh
tinh thần sáng tạo của thế hệ này. Hiện tại giới trẻ ở Mỹ cũng như Việt Nam dễ
bị lôi cuốn bởi những người có ảnh hưởng trong truyền thông xã hội. Như vậy nếu
chúng ta chọn số nhân vật có những đức tính mà người trẻ bây giờ có thể cảm
thông và cảm phục được, có những thành tích làm cho họ tự hào và dùng những người
có ảnh hưởng, các truyền thông xã hội để quảng bá và lôi cuốn thì có lẽ sẽ có
nhiều hiệu quả hơn trong việc đem văn hóa Việt Nam đến cho giới trẻ ở Mỹ.