Buổi sáng sớm, hai tín hữu một nam một nữ đến
viếng chùa. Có lẽ họ dạo cảnh bên ngoài cũng khá lâu rồi mới vào trong, thầy
Đàm nghe họ nói với nhau những lời phê bình, so sánh giữa hai đám bông hồng ở
trước và sau chùa. Thấy thầy, chừng như biết chắc là người ở đây, họ cúi đầu
chào ra vẻ kính trọng và xin phép được vào chánh điện lễ Phật.
Người đàn bà có vẻ sành sỏi việc cúng vái. Cứ xem dáng điệu chị nghiêng nghiêng châm đầu nhúm nhang thơm vào ngọn nến đang cháy, xong rụt lại đưa tay trái quạt nhẹ nhẹ, phân ra làm hai phần đưa cho người đàn ông một nửa, thầy Đàm biết không cần nói thêm một lời chỉ dẫn nào nữa.
Lễ xong, thầy mời họ ra phòng ngoài uống
chén trà nóng. “Nhà chùa thì không có còn gì quý hơn là chén trà nóng đãi
khách.” Họ im lặng đi theo sau.
Khỏi dãy hành lang sáng mờ mờ, thầy Đàm nói
nhưng không quay lại:
“Hai vị là khách phương xa tới đây chắc?
Tôi ở đây cả năm, đi tới đi lui cũng nhiều nhưng chưa gặp hai vị lần nào.”
“Dạ thưa thầy” – người đàn bà nhanh nhẹn –
“vợ chồng tụi tui mới từ Wyoming qua chưa được một tuần lễ. Nghe nói ở đây có
chùa, muốn tới liền mà hổm rày, bận công việc nhà cửa.”
Người đàn ông nói tiếp lời:
“Xe cộ cũng không có thành ra phải nấn ná
hoài.”
“Dạ, bên này không có xe thiệt là kẹt!”
Người đàn bà kéo chiếc ghế trong góc ra cho
chồng và một chiếc khác cho mình, chậm rãi ngồi xuống:
“Vợ chồng tụi tui qua Mỹ mới có nửa năm
nay, ở trên kia, đi đâu thì có xe của hội nhà thờ chở, thiệt cũng ngại.”
Thầy Đàm chưa ngồi vội, nghiêng người sắp lại
ba chén trà thành hình chữ phẩm, rót lưng lửng vào mỗi chén. Xong thầy đẩy chén
bên trái về phía người đàn ông, thầy nghĩ:
“Mình xử đúng pháp mà không biết ông này có
hiểu cho mình không.”
Thầy Đàm băn khoăn cũng đúng. Chén bên trái
là chén thầy rót sau cùng. Theo phép lịch sự của ông bà để lại, rót rượu thì
rót cho khách trước nhưng rót trà thì rót cho khách sau bởi vì hương trà chìm
sâu xuống đáy bình, chả là người ta muốn thật tình đãi khách bằng những cái tốt
đẹp nhất mình có được vậy mà.
Dường như người đàn ông không để ý, chỉ với
tay kéo chén trà về trước mặt và xoay vòng vòng:
“Nghe nói ở đây có sư trụ trì, sao tôi
không thấy sư vậy thầy?”
“Dạ, mời hai vị dùng trà.” Thầy Đàm ngồi hẳn
xuống ghế. “Sư đi San Diego ba bốn ngày rồi, chắc phải đến cuối tuần mới về. Hiện
thời thì tôi trụ trì.”
Người đàn ông gật gù, nhưng thầy Đàm vừa
nói xong là biết ngay mình nói bậy nên liếc mắt nhìn ra cửa sổ. “Đâu phải ai
cũng có quyền trụ trì! Mình nói vậy chẳng hóa ra mình lạm dụng hay sao. Tiếng
trụ trì này phải được dùng cho người có phẩm hạnh, đạo đức. Trụ Pháp Vương gia,
trì Như Lai tạng… An trụ để bảo trì pháp Phật. Người trụ trì được hiểu là vị chủ
pháp, đàng này mình chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu…”
Thầy Đàm lựa lời nói trớ đi ngay:
“Tôi ở đây cũng được gần một năm. Ngày ngày
làm đủ thứ công việc cho chùa và nghe sư dạy dỗ.”
“Thầy có đương đi làm không?” người đàn bà
hỏi.
“Dạ không, tôi còn hưởng trợ cấp xã hội.
Ban đêm thì học nghề mấy tiếng đồng hồ.”
Người đàn bà nhìn ra cửa sổ:
“Ở đây yên tịnh ghê há thầy! Ai chọn chỗ
này thiệt cũng có con mắt.”
Thầy Đàm không đáp lời có lẽ vì cảm thấy
khó quá, chỉ gật đầu. “Ở xứ này, chọn một chỗ để làm chùa có khác gì chọn một
chỗ để ở. Làm thế nào tìm chỗ rộng rãi, rẻ tiền, có chỗ đậu xe kha khá cho bá
tánh tới nhiều là tốt.” Người đàn ông tặc lưỡi:
“Nói cho ngay, mình qua tới đây mà còn cố gắng
lập được chùa chiền là cả một vấn đề rồi phải không thầy? Ở bên tui ở lúc trước,
không nghe ai nói tới chớ đừng kể là thấy. Thiệt là quí!”
“Tại hai vị không biết, chớ hồi trước chùa
chỉ là một cái nhà ở và dành ra một chỗ để thờ Phật. Sau thấy có tín hữu tới
làm lễ hơi nhiều nên chủ nhà dời qua chỗ khác ở và mời sư về đây trụ trì. Mỗi
người một ít, vận động Phật tử đóng góp trả tiền thuê. Hồi đó, còn xập xệ lắm.”
“Phải từ từ chớ thầy. Còn lâu lắm mới khá
hơn được. Thầy thấy không?”
Thầy Đàm cảm thấy người đàn ông nãy giờ chỉ
nói toàn theo kiểu vuốt đuôi, thầy quay qua người đàn bà:
“Ở đây cũng đang có phong trào góp của Phật
tử để còn mua hẳn một chỗ, sửa sang lại cho đúng cảnh chùa. Hai vị chút nữa ra
coi mấy tờ thông bạch để biết rõ dự án lập chùa như thế nào.”
Thầy Đàm chợt xô ghế đứng dậy đi về phía kệ
sách, thầy lấy một cuốn giấy được dán băng keo vòng lại. Đi trở lại bàn, vừa gỡ
vừa nói:
“Hai vị coi, đồ án của chùa đã được chuẩn bị
xong xuôi cả năm nay, mà thật thì cũng còn chờ thêm thời gian để Phật tử đóng
góp.”
Thầy Đàm trao hẳn tấm đồ án cho người đàn
bà. Người đàn ông kéo ghế tới gần vợ, hai cái đầu châu vào. Một chốc tiếng người
đàn ông chầm chậm.
“Chậc! Kể thì cũng công phu lắm. Mà sao thầy
không nói họ làm thành nhiều bản thế này phổ biến rộng ra cho Phật tử nức lòng
đóng góp nhiều vô.”
“Có, có chứ,” thầy Đàm sốt sắng. “Nhà chùa
có thâu hình này để vào các bích chương phát cho Phật tử nhiều rồi, lâu rồi!”
Hai vợ chồng lại ngắm nghía tấm đồ án. Họ
thầm thì với nhau những câu phê bình, thầy Đàm không nghe được hết. Thầy dựa
lưng vào ghế nhìn lên trần. Hồi lâu, người đàn ông nói lớn:
“Thế nào thì mình cũng kiếm được một cây bồ
đề trồng sau chùa thầy há! Được vậy mới quí.”
Thầy Đàm chưa nghĩ được phải nên nói gì thì
người đàn bà nguýt chồng:
“Anh này, chưa cất được chùa mà lo tới chuyện
trồng cây này cây nọ.”
“À, à, chùa là phải có cây bồ đề chứ,” thầy
Đàm đỡ lời. “Nhưng đó là việc sau này mới làm. Hai vị cũng thấy đó, mình có đất
tốt, lo gì lúa trổ muộn, người xưa có nói như vậy mà.”
Nói thì nói, nhưng thầy Đàm cảm thấy mình hết
hứng khi phải ngồi nói chuyện với hai người này, nhất là người đàn ông. Thầy
nghĩ: “Cái điệu này, mình giữ ý giữ tứ mất công quá. Xem chừng người ta tới
chùa cho vui vậy thôi.” Thầy liếc về phía người đàn bà đang chăm chú nhìn vào tấm
đồ án, bỗng chợt dịu lòng lại. “Sư dạy, người có tâm với đạo phải giữ ý niệm thật
chính. Thời buổi này, ai tới chùa thì truớc hết đã có ý thành, mình giữ tâm
chính mà tiếp. Chưa làm được việc để tín hữu quí trọng cái huyền diệu của Phật
pháp cũng nên cố làm được việc để tín hữu thấy được sự rực rỡ trang nghiêm của
chốn thiền tự.” Thầy nói:
“Tôi nghe sư dạy, đạo với đời cách xa nhau
như trời với đất nhưng thật ra là một. Phật tử mình qua tới đây rồi cũng còn cố
làm việc đạo. Cất chùa, thật ra là làm việc đạo, mà để cho đời đó. Sư dạy, miễn
làm sao đừng để việc đạo và việc đời giao tiếp nhau bằng cái lợi thì tâm được
an mà Phật pháp hưng thịnh luôn.”
Thầy Đàm biết mình đang nói rất thật lòng.
Mà thầy chỉ mong hai người này cũng hiểu là mình đang nói thật lòng. Người đàn
ông vừa nghe chuyện trong khi tay thì lật từng trang tờ báo của hội Phật tử, rõ
ràng ông ta nghe một nửa mà đọc báo một nửa. Thầy quay qua người đàn bà:
“Hai vị thấy đó, chỉ việc bảo vệ Phật pháp ở
xứ này đã khó rồi, nói tới chuyện phát triển thiệt tình đâu phải dễ gì.”
“Cái khó là làm sao nói cho họ hiểu và tự
chọn cách tiếp tay với bao nhiêu người mà lòng được vui,” thầy Đàm nghĩ, rồi cảm
thấy mình mất tự nhiên, không phải chỉ có lần này mà luôn luôn như vậy mỗi khi
thầy lựa lời nói tới việc kêu gọi Phật tử đóng góp tiền bạc xây cất chùa. Thầy
biết, qua tới đây rồi, đi trước hay đi sau gì cũng vậy, nhu cầu của cuộc sống
nó đi theo hoàn cảnh. Hồi đó, ở căn chòi nhỏ cập một bờ kinh mới đào, thầy biết
rằng nửa lít gạo Nàng Thơm đối với mình thật sự là một ước mơ, một ước mơ khó
có được. Bây giờ, ước mơ của thầy đổi khác đi nhiều, một chiếc xe hơi “mơi mới
một chút” chẳng hạn, mà thật ra, ước mơ này có khó gì? Thầy mím môi nói trong bụng:
“Mình mà còn như vậy, huống chi người ta.”
Người đàn ông bẻ gập tờ báo lại trình ra
trước mặt một trang quảng cáo:
“Cái này có thiệt không thầy? Mua xe mới mà
khỏi cần phải đặt tiền cọc gì hết, tui thấy khó tin lắm.”
Thầy Đàm giật mình, hơi luống cuống. Tự dưng
“thằng cha này” nói ngay tới chuyện mình đang nghĩ.
“Dạ, có đó ông. Ở đây người ta dễ dãi đủ mọi
thứ hết.”
Người đàn bà nhoài người chụp tờ báo,
nghiêng đầu đọc trang quảng cáo. Thầy Đàm đứng dậy rót thêm hai chén trà cho
khách, tặc lưỡi:
“Bên này, cuộc sống dễ thở lắm, muốn gì
cũng có, không phải như bên mình.”
Thầy không dám nói hết những gì mình đang
nghĩ. “Cái có, nhiều đến nỗi thừa đi và người ta phải nai lưng ra trả nợ cho
cái chỗ thừa thải đó.” Thầy vốc ngược chén trà uống cạn:
“Chút nữa hai vị lấy ít tờ bích chương về,
có xóm giềng gần gần thì cho họ coi với.”
Thầy nói như vậy vì biết rằng người đàn ông
đã có ý muốn về từ nãy giờ. Người đàn bà nhỏ giọng:
“Dạ, thưa thầy. Chắc rồi vợ chồng tui cũng
phải đóng góp chút đỉnh gọi là công quả. Thầy cho tui lấy ít chục tờ này.”
“Chi cho nhiều,” người đàn ông tiếp lời.
“Mình còn trở lại đây nữa mà. Lấy vài tờ thôi.”
Thầy Đàm tiễn họ ra tới ngõ thì đi chậm lại.
Buổi sáng vẫn còn, thầy thấy được những cánh hồng chưa khô hẳn. Người đàn bà
cúi người nhặt một cành táo khô nằm giữa đường quẳng vào gốc rào, quay lại:
“Ngày mốt, vợ chồng tui đi làm giấy tờ trợ
cấp xã hội, cũng gần đây, thế nào tụi tui cũng ghé thăm thầy.”
“Dạ cám ơn hai vị. Nếu không tiện thì tuần
sau… sư về, tuần sau sư về.”
Người đàn ông ra tới lề đường, chừng như nhớ
ra là chưa chào lời từ giã thì quay trở vào, gục gặc đầu:
“Thôi, chào thầy nhe. Rảnh rảnh tui ghé
thăm thầy. Chắc cũng nhờ thầy chỉ dẫn nhiều thứ nữa. Ở xứ này, thiệt mình như dốt!”
Thầy Đàm cười tươi, chống tay vào cánh cửa
rào:
“Ông cứ việc tới, tôi biết gì tôi nói ông
nghe. Không sao mà, tui qua trước.”
Người đàn ông vịn vai vợ đi xa rồi, thầy
Đàm cố nói lớn theo:
“Mình là tỵ nạn với nhau mà.”
Võ Hoàng
Đất Lạ, Võ Hoàng & Tưởng Năng Tiến,
Hương Quê phát hành 1984.