03 September 2020

TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT HAY NGƯỜI ÚC - Trang Nguyen

Hình minh họa

Tôi phải thu thập giấy chấp thuận (consent form) và những dữ kiện của sinh viên năm thứ nhất ngành giáo dục trong giờ giảng với hai nhà nghiên cứu của trường đại học, bởi vì những dữ kiện về ai là người tham gia vào cuộc nghiên cứu sẽ được giữ bí mật và chỉ một mình tôi là người duy nhất biết điều đó thôi. Lớp toàn sinh viên nữ. Theo truyền thống chọn lựa nghề nghiệp, ngành giáo dục hầu như dành cho sinh viên nữ, nam chiếm chỉ ít hơn một phần ba. Số trung niên theo học cũng tương đối, những người đã lập gia đình và có con, nay con đã lớn thì đi học lại. Nhiều người trước giờ chỉ làm công việc dựa trên sức lao động, nay đã quá ngán ngẫm với công việc này nên quyết định đi học lại. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa những người phụ nữ ở các nước phương Tây và phụ nữ Việt nam.

Ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp xong bằng phổ thông cấp 3, các học sinh nữ hoặc sẽ ghi danh thi đại học, trung cấp, hoặc tìm cho mình một ngành nghề, hoặc lập gia đình. Những phụ nữ đã chọn cho mình một ngành nghề thì sẽ sống chết mãi với ngành nghề đó, hay là sẽ chuyển sang một ngành nghề khác, chứ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện ghi danh học đại học để thay đổi cuộc đời như tại các nước phương Tây này. Tuy nhiên cũng có một số rất ít người dám can đảm ghi danh học đại học với ý nghĩ sẽ làm thay đổi số phận của mình. ”Can đảm” vì họ sẽ phải đương đầu với những câu hỏi móc méo, sự trêu ghẹo của một số người không tin vào nền học vấn, hoặc nói rõ hơn là sự nghi ngờ của một số người cho rằng với cái lứa tuổi trên 26 là không còn là tuổi học nữa. Những người phụ nữ đã có bằng cấp, đã đi làm và học tiếp thêm bằng thứ hai thì dễ dàng chấp nhận, thậm chí còn thán phục. Nhưng không ai nghĩ đến chuyện khuyến khích một người phụ nữ trung niên, những người phụ nữ làm công việc bằng sức lao động ghi danh học đại học cả, chứ đừng nói gì đến chuyện thành lập những dịch vụ như giữ trẻ ngay trong trưỡng đại học để giúp đỡ họ như những trường đai học ở Mỹ, Úc, và các nước văn minh khác.

Trước khi buổi học bắt đầu, các sinh viên lần lượt giới thiệu về mình, từ đâu đến, tại sao lại chọn ngành sư phạm, … rồi đến lượt các giáo viên. Tôi chăm chú lắng nghe những sinh viên nữ trong lứa tuổi khoảng từ 35-45 giới thiệu về họ. Đây là những người muốn thay đổi số phận và cuộc sống, muốn học để tìm cho bản thân một ngành nghề. Một trong số họ làm nghề quét dọn lao công và quyết định bỏ nghề để đi học ngành sư phạm cho cấp trung học môn Toán và Vật lý. Mọi người đều òa lên khi nghe nói về Toán, và cô ta đã nói là nhiều người cho cô là ngu ngốc (idiot) khi theo học môn Toán. Tôi tin là cô ta sẽ học và sẽ là giáo viên môn Toán sau này, nếu như cô ta có khiếu về Toán, có ý chí và nghị lực. Truyền thống chọn ngành nghề, môn học theo giới tính đã từ lâu ăn sâu bám rể vào đầu óc mọi người. Theo tôi thì những ngành nghề như Công nghệ Thông tin (ICTs), Toán, Vật lý không chỉ để dành cho nam giới mà thôi. Thế nên tôi luôn khuyến khích những học sinh nữ nên chọn ngành Công nghệ Thông tin để học, để chứng tỏ là phụ nữ có thể vươn lên trong bất kỳ lĩnh vực nào.

Tôi là người giới thiệu về mình sau cùng. Khi tôi nói “I am Vietnamese (tôi là người Việt Nam)…”, một vị giáo sư đã cắt lời “Now You are Australian” (Bây giờ cô đã là người Úc)… “Well, I am Australian now, but I came from Vietnam in …” (À, bây giờ tôi là người Úc, nhưng tôi đến từ Việt Nam năm…). Bà giáo sư thường hay nhấn mạnh tôi là người Úc trước đám đông, trước sinh viên Úc và thường hay kể lại cuộc đời gian nan khổ cực của tôi để trở thành một cô giáo trường TAFE college, và bây giờ là trợ giảng và cũng là project manager cho một dự án nghiên cứu về mental models (dịch nôm na là tâm thức) trong việc học của sinh viên. Có lẽ lý do bà giáo sư nhấn mạnh tôi là người Úc chỉ vì tôi làm trưởng ban nghiên cứu (project manager) cho một đề án nghiên cứu hơn gần cả ngàn sinh viên Úc theo học các ngành khác nhau như giáo dục học, kinh tế thương mại, nghệ thuật, kỹ thuật… Thế nên bà muốn tôi được kính nể, một sự đồng tình của dân bản xứ. Bà giáo sư e rằng sẽ có một vài người nào đó lên tiếng phản đối là tại sao lại để cho một tên Việt Nam da vàng mũi tẹt đi làm những cái nghiên cứu về tư duy (cognition, metacognition, mental modes) của người Úc.

“I am Aussie”, “I am Australian”. Tôi cảm nhận rõ rệt được sự khác nhau khi tôi là người Úc và khi tôi là người Việt. Là người Việt Nam ở Việt Nam, xin được giấy thông hành đi chơi ở các nước. Là người Úc, sống tại Úc, với một nền tự do dân chủ, tôi hoàn toàn có tự do về đời sống cá nhân, không e dè ngần ngại khi nói chuyện như ở Việt nam. Tôi là người Úc trong cung cách làm việc, nhưng mặt mũi, vóc dáng của tôi hoàn toàn là người Việt Nam, suy nghĩ của tôi trên một số quan điểm nào đó vẫn còn thuần suy nghĩ Việt Nam. Là người Úc mà tôi có thể dễ dàng kiếm việc làm vì rất nhiều công việc hiện nay chỉ dành cho người Úc. Nói gì thì nói, thích tôi là người Úc trong con mắt cộng đồng của dân Úc, nhưng thực chất, tôi vẫn là người Việt da vàng mũi tẹt. Và tôi tự hào mình là người Úc gốc Việt Nam, tự tin vào bản thân, trọng chữ tín.

Tôi là người Úc nhưng nhưng đầu tôi luôn nhớ về Việt nam. Tôi viết nghiên cứu bằng tiếng Anh nhưng lại thích trải lòng mình qua những đêm thao thức viết tiếng Việt. Tôi sống ở Úc, một thời gian tương đối dài. Tôi học và làm, làm và học trong thời gian đó, không ngừng. Tôi chỉ nói tóm tắt về công việc làm của tôi trong thời gian sống ở Úc này, nhưng bà giáo sư đã tiếp lời kể lại câu chuyện thời gian tôi làm ruộng khổ cực tại Việt Nam, việc Cha tôi làm việc cho chế độ miền Nam Việt Nam và thế rồi tôi không được bước vào ngưỡng cửa đại học khi tốt nghiệp cấp 3, phải đến khi qua khi qua Úc khi tuổi đời trung niên tôi mới có thể nộp đơn xin học để rồi có cái bằng đại học.

À, bà giáo sư biết được đây là phần gây ấn tượng cho các sinh viên, nhất là các sinh viên nữ giới trung niên. Vì họ sẽ nhìn tôi như là một kiểu mẫu, nếu tôi đã thành công ở nước Úc này sau hơn mười mấy năm rời học đường, thì họ cũng sẽ thành công nếu như họ có ý chí quyết tâm. Và quả đúng như vậy, khi chỉ còn riêng tôi trong phòng với sinh viên, nhiều sinh viên nữ đã nói chuyện với tôi về mơ ước của họ.

Lòng tôi dấy lên một nỗi buồn về thân phận những người phụ nữ ở Việt Nam đã cùng hoàn cảnh với tôi trước đây nhưng không có cơ hội như tôi. Ước gì, họ cũng may mắn như tôi, có cơ hội vươn lên trong cuộc sống.

Trang Nguyen