Hình minh họa
Trước khi buổi học bắt đầu, các sinh viên lần lượt giới thiệu về mình, từ
đâu đến, tại sao lại chọn ngành sư phạm, … rồi đến lượt các giáo viên. Tôi chăm
chú lắng nghe những sinh viên nữ trong lứa tuổi khoảng từ 35-45 giới thiệu về
họ. Đây là những người muốn thay đổi số phận và cuộc sống, muốn học để tìm cho
bản thân một ngành nghề. Một trong số họ làm nghề quét dọn lao công và quyết
định bỏ nghề để đi học ngành sư phạm cho cấp trung học môn Toán và Vật lý. Mọi
người đều òa lên khi nghe nói về Toán, và cô ta đã nói là nhiều người cho cô là
ngu ngốc (idiot) khi theo học môn Toán. Tôi tin là cô ta sẽ học và sẽ là giáo
viên môn Toán sau này, nếu như cô ta có khiếu về Toán, có ý chí và nghị lực.
Truyền thống chọn ngành nghề, môn học theo giới tính đã từ lâu ăn sâu bám rể vào
đầu óc mọi người. Theo tôi thì những ngành nghề như Công nghệ Thông tin (ICTs),
Toán, Vật lý không chỉ để dành cho nam giới mà thôi. Thế nên tôi luôn khuyến
khích những học sinh nữ nên chọn ngành Công nghệ Thông tin để học, để chứng tỏ
là phụ nữ có thể vươn lên trong bất kỳ lĩnh vực nào.
Tôi là người giới thiệu về mình sau cùng. Khi tôi nói “I am Vietnamese (tôi
là người Việt Nam)…”, một vị giáo sư đã cắt lời “Now You are Australian” (Bây
giờ cô đã là người Úc)… “Well, I am Australian now, but I came from Vietnam in
…” (À, bây giờ tôi là người Úc, nhưng tôi đến từ Việt Nam năm…). Bà giáo sư
thường hay nhấn mạnh tôi là người Úc trước đám đông, trước sinh viên Úc và
thường hay kể lại cuộc đời gian nan khổ cực của tôi để trở thành một cô giáo
trường TAFE college, và bây giờ là trợ giảng và cũng là project manager cho một
dự án nghiên cứu về mental models (dịch nôm na là tâm thức) trong việc học của
sinh viên. Có lẽ lý do bà giáo sư nhấn mạnh tôi là người Úc chỉ vì tôi làm
trưởng ban nghiên cứu (project manager) cho một đề án nghiên cứu hơn gần cả
ngàn sinh viên Úc theo học các ngành khác nhau như giáo dục học, kinh tế thương
mại, nghệ thuật, kỹ thuật… Thế nên bà muốn tôi được kính nể, một sự đồng tình
của dân bản xứ. Bà giáo sư e rằng sẽ có một vài người nào đó lên tiếng phản đối
là tại sao lại để cho một tên Việt Nam da vàng mũi tẹt đi làm những cái nghiên
cứu về tư duy (cognition, metacognition, mental modes) của người Úc.
“I am Aussie”, “I am Australian”. Tôi cảm nhận rõ rệt được sự khác nhau khi
tôi là người Úc và khi tôi là người Việt. Là người Việt Nam ở Việt Nam, xin
được giấy thông hành đi chơi ở các nước. Là người Úc, sống tại Úc, với một nền
tự do dân chủ, tôi hoàn toàn có tự do về đời sống cá nhân, không e dè ngần ngại
khi nói chuyện như ở Việt nam. Tôi là người Úc trong cung cách làm việc, nhưng
mặt mũi, vóc dáng của tôi hoàn toàn là người Việt Nam, suy nghĩ của tôi trên
một số quan điểm nào đó vẫn còn thuần suy nghĩ Việt Nam. Là người Úc mà tôi có
thể dễ dàng kiếm việc làm vì rất nhiều công việc hiện nay chỉ dành cho người
Úc. Nói gì thì nói, thích tôi là người Úc trong con mắt cộng đồng của dân Úc,
nhưng thực chất, tôi vẫn là người Việt da vàng mũi tẹt. Và tôi tự hào mình là
người Úc gốc Việt Nam, tự tin vào bản thân, trọng chữ tín.
Tôi là người Úc nhưng nhưng đầu tôi luôn nhớ về Việt nam. Tôi viết nghiên
cứu bằng tiếng Anh nhưng lại thích trải lòng mình qua những đêm thao thức viết
tiếng Việt. Tôi sống ở Úc, một thời gian tương đối dài. Tôi học và làm, làm và
học trong thời gian đó, không ngừng. Tôi chỉ nói tóm tắt về công việc làm của
tôi trong thời gian sống ở Úc này, nhưng bà giáo sư đã tiếp lời kể lại câu
chuyện thời gian tôi làm ruộng khổ cực tại Việt Nam, việc Cha tôi làm việc cho
chế độ miền Nam Việt Nam và thế rồi tôi không được bước vào ngưỡng cửa đại học
khi tốt nghiệp cấp 3, phải đến khi qua khi qua Úc khi tuổi đời trung niên tôi
mới có thể nộp đơn xin học để rồi có cái bằng đại học.
À, bà giáo sư biết được đây là phần gây ấn tượng cho các sinh viên, nhất là
các sinh viên nữ giới trung niên. Vì họ sẽ nhìn tôi như là một kiểu mẫu, nếu
tôi đã thành công ở nước Úc này sau hơn mười mấy năm rời học đường, thì họ cũng
sẽ thành công nếu như họ có ý chí quyết tâm. Và quả đúng như vậy, khi chỉ còn
riêng tôi trong phòng với sinh viên, nhiều sinh viên nữ đã nói chuyện với tôi
về mơ ước của họ.
Lòng tôi dấy lên một nỗi buồn về thân phận những người phụ nữ ở Việt Nam đã
cùng hoàn cảnh với tôi trước đây nhưng không có cơ hội như tôi. Ước gì, họ cũng
may mắn như tôi, có cơ hội vươn lên trong cuộc sống.
Trang Nguyen