Khi chuyến xe buýt tới trạm ngừng gần rạp hát Quốc Thanh,
tôi xuống, rồi đi bộ đến nhà cô Trinh ở cách đây chừng hơn trăm thước.
Buổi chiều thứ bảy thật vui, đường phố ồn ào, nhộn nhịp và
nghe giục giã trong tiếng còi xe kêu lên inh ỏi. Tuy vậy, tôi vẫn cảm thấy có
gì hơi buồn, lặng lẽ, đơn độc mỗi khi trở về Sài Gòn. Ở Biên Hòa, tôi mới về
lúc sáng, mục đích vào Chợ Lớn thăm Tuấn bạn học cũ nay sắp sửa khăn gói vào
quân trường. Gặp lại nhau, chúng tôi thật vui mừng, rồi trước khi làm một vòng
dạo phố hai đứa kéo nhau qua quán ông Tàu ở trước mặt nhà ngồi uống cà phê, trò
chuyện. Tuấn nói tôi thay đổi nhiều, khuôn mặt đen sạm, hơi già đi. Tôi cũng nhận
ra vậy, nhưng trong đó, tôi hết sức an lòng với cuộc sống hiện tại của mình.
Tôi làm hai công việc, chính ở bên ngành Thủy Lâm, phụ là dạy giờ môn Toán cho
trường tư thục của linh mục Phương. Trường trung học này mới mở, chỉ có sáu lớp.
Với hai công việc làm, nhưng đồng lương kiếm ra được không khá gì lắm, vì còn độc
thân nên tôi tạm đủ với các thứ chi tiêu về tiền thuê nhà, giặt ủi, cơm nước,
cà phê, thuốc lá, có nhậu nhẹt đôi chút cho vui, đến đôi ba tháng tôi mới gởi
chút ít tiền cho mẹ và mấy em tôi. Gia đình tôi hiện ở Huế, chỉ có anh Huân và
tôi ở xa. Anh Huân đã vào quân đội, làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến Sài Gòn,
nhưng với chức vụ phóng viên anh đi công tác luôn. Và, cứ mỗi lần ra các tỉnh
miền Trung, anh lại được dịp ghé thăm gia đình thay cho những chuyến đi phép.
Còn tôi, đã hai năm nay chưa về thăm nhà.
Học cùng lớp, nhưng Tuấn kém tôi một tuổi. Tuấn rất vui, có duyên trong cách chuyện trò và quen cũng khá nhiều bạn gái. Còn trong lứa bạn học, Tuấn thân tôi nhất. Vào Sài Gòn, Tuấn sẽ ở chơi hết tuần lễ này sau đó lên đường ra Nha Trang. Thời gian huấn nhục, rồi học quân sự và Anh Ngữ ở ngoài đó chừng sáu tháng Tuấn sẽ đi Hoa Kỳ học lái máy bay để trở thành phi công.
Ngồi ở quán cà phê, chúng tôi cứ mãi nói chuyện đời. Khi đã
đến tuổi trưởng thành, có lẽ, đường đời là muôn vạn nẻo mà hướng mình đi có thể
đã chọn đúng, hoặc sai. Với Tuấn, hướng đi về binh nghiệp, tương lai là phi
công làm tôi vui trong ý tưởng về người bạn mình là một chàng trai quanh năm sống
phiêu bạt, bao la giữa mây trời. Còn tôi, nghĩ lại mình bằng cuộc sống thực sự
rất tầm thường, hẳn còn tạm bợ. Tôi chỉ là một công chức cấp nhỏ trong ngành thủy
lâm. Tôi làm việc ở Biên Hòa, cách Sài Gòn không xa nên lên về cũng dễ nếu thường
xuyên muốn đi vào cuối tuần. Nơi tôi ở trọ không nằm trong thị xã mà thuộc vùng
ngoại ô, nhà ở cách con đường chạy từ phi trường ra quốc lộ chừng vài chục mét,
mặt sân trước rộng và đằng sau có căn gác. Gần đấy, có khu chợ nhỏ, cách vài
căn có một cửa hiệu vừa bán sách, vừa cho thuê truyện đủ
loại. Tôi cũng ham đọc tiểu thuyết nên thường ghé thuê, lần hồi truyện kiếm hiệp
của Kim Dung tôi đọc hết các bộ Lộc Đỉnh Ký, Cô Gái Đồ Long, Tiếu Ngạo Giang Hồ,
Lục Mạch Thần Kiếm. Người ta luận những nhân vật Kim Dung qua triết lý về con
người, nhưng tôi đọc, không tìm ra ý tưởng đó, chỉ thấy truyện hấp dẫn và cốt đọc
giải trí. Về các loại tiểu thuyết, truyện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn vẫn cho tôi
những mối rung cảm chân tình mặc dù, văn chương hiện đại có lối viết tân kỳ
trong một quan niệm nhân sinh mới, nhưng khó hiểu (mà tôi nghĩ rằng, mình chưa
đủ khả năng tiếp thu). Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn thật dễ đọc đối với tôi,
ngoài ra, tình cảm cổ điển trong tôi vẫn còn giữ lại biết bao nhiêu hình ảnh dịu
hiền, trong sáng như tình yêu học trò, và qua những ngày tháng trên gương mặt đẹp
đẽ ấy, đôi lúc hồi tưởng mình cảm thấy được an ủi, cho dù đó chỉ là tình yêu mơ
mộng, đơn phương, hoặc nếu trong đó có một chút tình ý bằng câu chào hay nụ cười,
chừng đó cũng thật là quí hiếm, gần như trọn vẹn một tấm lòng muôn thuở. Tôi hết
sức cố gắng học, vậy mà không thành công. Sự thất bại thi cử đã làm tôi buồn
chán. Tôi chỉ mong kiếm mảnh bằng Tú Tài phần II là đủ, thế nhưng, tôi cứ lận đận
không làm sao qua nổi. Tôi đã thi rớt sáu khóa liền, và đang cố học thi năm này
nữa, nếu còn rớt là buông xuôi luôn. Tôi đậu Tú Tài I ban Toán, nhưng qua
chương trình Tú Tài II quá nặng đủ các môn nên ba năm rồi, hết các ban chọn
thi, không ban nào tôi đạt được kết quả. Thông thường, ở lớp tự học người ta chọn
ban C dễ hơn, nhưng tôi lại kém về hai ngoại ngữ. Ban A, Vạn Vật học không vào,
còn ban B, tôi chỉ có được cái Toán là khá, còn Lý Hóa rất tầm thường nên không
lần nào lấy được điểm trung bình. Khi tôi xin cha Phương vào dạy học ở trường
tư của cha mở, đáng lý, tôi phải có Tú Tài toàn cha mới nhận, nhưng nhờ là chỗ
quen biết và cùng người đồng hương ngoài Trung nên cha tạm nhận cho tôi. Tuy
nhiên, dạy các lớp nhỏ Thất, Lục về Toán, tôi không phải khó khăn lắm trong phần
giảng giáo khoa cũng như giải bài tập.
Tôi ở chơi với Tuấn trọn buổi sáng, qua đến chiều. Sau khi rời
khỏi quán cà phê hai đứa xuống Sài Gòn dạo phố, vào các hiệu sách, coi ciné, về
nhà nghỉ trưa ăn cơm, vừa mới cách đây nửa giờ chúng tôi mới bắt tay từ giã.
Khi tôi lên xe buýt từ trạm Chợ Lớn xuống Sài Gòn, tôi có cảm
giác, trong cuộc gặp gỡ này Tuấn đã cho tôi một chút an ủi nhỏ.
Lên tới tiệm bán tạp hóa Minh Sang, tôi rẽ vào con hẻm và đi
bộ qua năm căn nhà trên lối đi tráng xi măng, rồi dừng trước nhà cô Trinh. Cửa
đóng, tôi bước lên bậc thềm bấm chuông. Không chờ lâu, đứng ngoài tôi nghe có
người chạy ra mở cửa.
- Ủa, anh mới về?
- Anh về lúc sáng, ghé thăm người bạn.
Liên chờ tôi đi vào rồi mới cài then cửa. Tôi đi bên cạnh
Liên, từ nhà trên nhìn xuống tôi thấy cô Trinh đang ngồi têm trầu. Tới gần, tôi
lên tiếng chào và kéo ghế ngồi.
- Chú đi làm chưa về?
- Hôm nay chú bận họp ở Sở.
Tôi ngồi nói chuyện với cô Trinh, vắng Liên. Nhưng một lúc
sau, Liên xuống cầm hai lá thư đưa cho tôi. Liên nói:
- Thư tới đã ba hôm, em cất giữ.
- Cám ơn em.
Sau khi têm trầu bỏ lên dĩa xong, cô Trinh lấy một miếng ăn.
Trên miệng cô lúc nào cũng thấy đỏ tươi. Cô đã ở tuổi 50, nhưng trông còn trẻ lắm.
Và, tôi thấy cô têm trầu, cũng như cách ăn trầu thật khéo. Hai lá thư của
Thanh, em gái tôi gởi, một cho anh Huân, một cho tôi. Anh Huân hiện đang công
tác vùng I, anh rời Sài Gòn tuần lễ trước. Và chỗ nhà cô Trinh là chỗ anh cũng
thường ghé thăm. Trong họ hàng thân, cô Trinh rất thương hai anh em tôi, và lần
nào đến, cô hay bảo chúng tôi ở lại ăn cơm hoặc vui mấy hội đánh bài.
Tôi mở lá thư Thanh gởi cho tôi ra đọc. Bên ngoài mái hiên
trống, buổi chiều chỉ còn vài đám nắng nhỏ. Nơi chỗ tôi ngồi trông qua vòm hiên
thấy rõ cả bầu trời. Tôi đọc thư Thanh viết, mỗi dòng thêm một chú ý, quan tâm.
Sau những lời hỏi thăm sức khỏe, Thanh báo tin cho tôi biết em sắp sửa lấy chồng,
hôn lễ cử hành vào tháng ba năm tới. Tin Thanh lấy chồng tôi đã hay biết qua mấy
lá thư của ba tôi. Tôi chưa gặp vị hôn phu của em gái mình, nhưng với những điều
ba tôi nhận xét về con rể, tôi nghĩ anh ta là người tốt. Tôi cũng mong, Thanh lấy
chồng sẽ hạnh phúc. Tôi đã biết tin về đám cưới của Thanh, nhưng lúc này đây, đọc
thư người em gái tự dưng tôi buồn nhớ, mỗi một giây cố gắng tìm trở lại những
gì đó hẳn còn trong kỷ niệm. Gia đình ba mẹ tôi đông con, khá chật vật. Ba tôi
chỉ là công chức hành chánh cấp thấp, làm việc ở thư viện Đại Học. Mẹ tôi chỉ
lo việc nội trợ. Các em tôi còn nhỏ, đi học. Anh Huân và tôi, chỉ tạm lo đủ cho
mình trong mưu sinh. Gia đình tôi không có nếp khoa bảng, nên việc học ai cũng
dang dở. Thanh, em gái tôi nay đi làm công việc ở tòa tỉnh, thư ký đánh máy.
Tôi nhìn thấy sự tầm thường của gia đình mình, và khi hay tin Thanh lấy chồng,
tôi ao ước em tôi được gặp người tốt và sống hạnh phúc với những ngày tháng về
sau này.
Tôi có cảm tưởng ngồi đây như không còn ai, chỉ riêng mình
khi đọc thư và đã để tâm hồn buông thả nhớ đến những kỷ niệm trong gia đình, về
anh em chúng tôi lúc còn nhỏ, và về một căn nhà ngày xưa ở Quảng Trị, tất cả, bỗng
nhiên nó làm bồi hồi trong tôi một nỗi ngậm ngùi, vì chợt nhớ những tiếng còi của
đoàn tàu vang vọng lên từ mỗi buổi sáng sớm ra đi, mỗi buổi chiều trở về, dừng
lại bên tháp nước của nhà ga.
Rồi tự dưng tôi cảm thấy hạnh phúc, mỉm cười. Cầm lá thư
trên tay, tôi nói với cô Trinh .
- Em Thanh con sắp lấy chồng rồi cô.
- Ủa, mau vậy à.
- Dạ.
- Còn bao lâu nữa ?
- Qua Tết, đến giữa tháng hai ta.
- Con có về không ?
- Dạ, chưa biết. Nếu xin phép được, con về.
- Nhớ tới đó, nhắc cô hay.
- Chắc ba con sẽ gởi thiệp báo hỷ cho cô chú.
- Cô thật mừng.
- Cám ơn cô.
Và tôi tiếp thêm đôi lời, lúc nhìn vào vẻ mặt phúc hậu của
cô.
- Chú cô rất là tốt với gia đình con. Anh em con được nhờ
chú cô giúp đỡ và lúc nào cũng cảm thấy rất gần với gia đình cô hơn hết.
Bằng một giọng ân cần, cô nói:
- Cô rất muốn về thăm quê, nhưng rồi bao nhiêu lần hẹn mà
chưa đi được.
Tôi tiếp lời theo ý nghĩ chưa nói hết của mình:
- Mặc dù cô không là ruột thịt với ba con, nhưng cô quá gần
gũi.
- Cô đã xa làng quê đến nay là hơn hai mươi lăm năm.
- Nếu cô về thăm quê sẽ thấy biết bao là thay đổi.
- Vậy mà, đường làng quê, cảnh quê hồi đó như thế nào, cô nhớ
hết.
- Và như vậy, mỗi lần nhớ, là cô đã thực sự về thăm quê.
Lúc nãy, đưa thư cho tôi ngồi nghe chuyện một lúc, Liên rời
ghế đứng dậy lên gác học bài. Bây giờ, Liên lại xuất hiện trên tay cầm cuốn
sách và cô gái lên tiếng hỏi ngay khi thấy tôi đưa mắt nhìn.
- Anh có bận đi đâu không ?
Tôi biết Liên muốn hỏi bài, nên đáp:
- Không.
Liên cười nói:
- Vậy giảng giúp em bài Toán.
Tôi cầm cuốn sách Hình Học Liên đưa và nhìn đề Toán bài tập
số 25. Tôi đọc đề thật kỹ, và khi tôi chuẩn bị giải bài Toán, cô Trinh rời ghế
hồi nào, trở lại với ly chè đậu xanh để trước mặt tôi.
- Ăn đi con.
- Dạ.
- Hôm qua giỗ bà Mợ, cô trông hai đứa, không có đứa nào tới.
- Con mới về sáng nay.
Liên ngồi bên cạnh tôi. Trên bàn, tôi để cuốn sách qua bên
trái và vẽ hình trên tờ giấy trắng. Tôi vừa đọc đề bài, vừa vẽ, vừa hướng dẫn cách
vẽ cho Liên thấy. Theo đề bài Toán tôi vẽ một vòng tròn, hai đường kính vuông
góc AB và CD. Trên CD lấy hai đoạn CH bằng OE và nối AE cắt vòng tròn tại M.
Bài toán chỉ một câu hỏi chứng minh góc AHM vuông.
Trước khi bắt đầu làm và giảng cho Liên, tôi theo cách thức
ghi những giả thiết và kết luận ở phần bên ngoài hình vẽ. Tôi hiểu được đề bài
Toán sau hai lần đọc kỹ và tìm được ra ngay cách giải mà tôi mường tượng trong
đầu. Trong môn Toán ở bậc Trung học, tôi vốn rất chuyên về Hình Học nên với bất
cứ bài Hình Học ở dạng nào tôi cũng cố gắng tìm cách giải. Và, tôi còn thấy rằng
môn hình học dùng nhiều trí tưởng tượng, nhất là về những hình không
gian.
Sự kiện đầu tiên của bài toán, tôi giả sử rằng tam giác AHM
vuông. Áp dụng định lý Pythagore, bình phương của cạnh huyền bằng tổng bình
phương hai cạnh góc vuông, sau đó, tôi tính ra từng cạnh. Cạnh AH dễ tìm nhất
vì áp dụng ngay định lý về tam giác vuông với các giả thiết đã có sẵn. Nhưng đến
hai cạnh AB và MB thì trở nên phức tạp, muốn tìm được tôi phải qua từng phần nhỏ,
từ tứ giác nội tiếp đến hệ thức lượng vòng tròn, rồi các hệ thức lượng giác áp
dụng trong tam giác thường.
Tôi cố giảng chậm, giảng đến hai lần để cho Liên dễ hiểu.
Và, dù biết mình giảng kỹ nhưng tôi theo dõi vẻ mặt của Liên trong mỗi câu hỏi.
Khi tôi lập hệ thức lượng giác để so sánh hai phương trình, tôi thấy Liên có vẻ
không mấy hiểu phần này nên tôi vẽ ra ngoài thêm một hình khác, rồi giảng chậm
trong phần này một lần nữa.
Bài toán chỉ với một câu chứng minh góc AHM vuông, vậy mà,
tôi đã giải trên giấy từng phần đến gần cả hai trang mới lần tìm ra được các cạnh
để so sánh. Khi tìm ra được rồi, tôi và Liên như cùng vui lên vì thấy kết quả sẽ
đến. Sau đó, áp dụng định lý đảo Pythagore, tôi bình phương hai cạnh góc vuông
và cạnh huyền để đối chiếu xem kết quả có phù hợp không ?
Trong khi tôi thử lại các phép tính, Liên hỏi:
- Chị Thanh sắp lấy chồng hả anh ?
- Ờ, còn mấy tháng nữa.
- Em chưa biết chị.
- Chị Thanh là em kế anh.
Tôi thử các phép tính xong, đưa bản nháp cho Liên. Một giọng
vui, Liên nói:
- Bài toán có một câu, mà giải ra thật dài.
Tôi hỏi lại:
- Em hiểu hết không ?
- Dạ hiểu .
Tôi tiếp lời:
- Bài toán này em phải đi từng phần, và hình vẽ của bài toán
phải đầy đủ.
- Bài này khó quá, Liên nói.
- Thường Toán Hình học lớp Đệ Tam dùng nhiều cách suy luận.
Lúc này, Liên cầm những tờ giấy tôi giải ra bài Toán coi
chăm chú để có gì hỏi tôi trước khi viết vào cuốn tập làm bài ở lớp. Tôi lặng
im, trong giây nhỏ đó vừa nhìn Liên tôi lại nghĩ nhiều đến Thanh.
- Ăn chè đi con.
- Dạ.
Tôi cầm muỗng, múc chè ăn từng miếng nhỏ. Tôi chờ đợi Liên sẽ
hỏi tôi. Coi xong, cô vụt đứng lên nói:
- Em hiểu rồi, em có thể làm lại được.
Lúc ăn, tôi có suy nghĩ đến bài Toán nên khi Liên đứng dậy
vui mừng vì hiểu bài, tôi nói:
-Thực ra bài này có cách giải đơn giản hơn là dùng hàm số
vòng tròn, nhưng em chưa học đến nên anh không giảng theo cách đó.
- Anh giảng theo cách này, em dễ hiểu hơn.
Tiếng chuông đồng hồ treo tường chợt đánh lên làm tôi cảm thấy
thời gian mình đến thăm đã lâu và tự nhiên trống trải. Chú Minh chồng cô Trinh
đi làm vẫn chưa về.
Buổi chiều đã tàn nắng. Tôi đứng dậy xin kiếu từ. Cô Trinh
ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, con đi đâu? Ở lại đây chờ chú về ăn cơm.
- Con đến nhà người bạn có chút việc cần vì ngày mai con trở
lên Biên Hòa sớm.
- Tối nay con ở lại đâu ?
- Có lẽ nhà anh bạn
- Sao không về đây.
- Gặp bạn, con ở lại một tối chơi cho vui, tôi cười đáp lời.
Tôi muốn đi cũng làm cho Liên ngạc nhiên. Cô muốn tôi ở lại
nhưng tôi cười hẹn lần về khác. Và từ cầu thang, Liên bước xuống tiễn tôi ra cửa.
- Cám ơn anh giảng giúp em bài toán.
- Có gì đâu .
Rồi tôi hỏi Liên:
- Các môn khác em học được không?
- Cũng tạm được.
- Lớp Đệ Tam là lớp căn bản để chuẩn bị thi, em nhớ học kỹ.
- Dạ.
Tôi cười chào cô em gái và bước xuống bực thềm. Lúc đó,
trông sang nhà bên cạnh thấy Lan, cô gái bạn của Liên hay sang nhà chơi và tôi
cũng thường hay gặp mỗi lần ghé.
- Lâu quá em không gặp anh .
- Ở trên đó anh bận đi làm.
- Anh mới về?
- Về lúc sáng nay.
- Giờ anh lên Biên Hòa?
- Không, đến sáng mai anh mới đi .
Tôi chào Lan rồi dời bước. Khi chợt ngoái đầu lại, thấy nàng
dõi mắt nhìn theo tôi. Nhưng rồi, tôi lặng bước, và từ ngõ hẻm ra đường tôi
thoáng đi tìm những gì mà tôi cảm thấy mất mát.
Khi tới khu chợ Thái Bình tôi băng qua bên đường và đến chờ ở
trạm xe buýt bên trên rạp hát Khải Hoàn. Đứng ở đó một mình chờ xe, tôi đưa mắt
nhìn buổi chiều trên một góc phố Sài Gòn với cảnh tượng huyên náo, và nó đã làm
xáo trộn nỗi buồn vui trong lòng tôi. Từ một thoáng đó, nếu muốn trở ngược lại
với thời gian tôi có thể đi bộ thong thả, vừa thong dong mơ mộng ngày trở về,
hoặc tìm đến một nơi chốn nào mình đã ở đó ngày trước.
Nhưng tôi không định đi lang thang với buổi chiều để tìm lấy
một ảo giác hoặc có cho đấy là giấc mơ êm đềm, cũng không. Tôi lên xe buýt khi
chuyến xe vừa ngừng ở trạm.
Nhà Vinh ở trong một con hẻm gần đối diện khu chợ Vườn Chuối.
Không đến mười lăm phút ngồi trên xe trống vắng khách, tôi xuống ở trạm đầu ngã
tư đường rồi đi bộ tới nhà Vinh.
Lối hẻm đầu cổng vào Niệm Phật Đường đến ngã ba đầu tiên rẽ
trái, một con đường nhỏ chạy qua sáu căn nhà nối tiếp, nhà Vinh là căn nhà
ngang trong cùng.
Khi tôi đến cửa, trong nhà bà cụ đang tiếp khách làm tôi ngần
ngại. Thấy tôi, bà cụ nói:
- Chúng nó ở trên gác.
Tôi chào bà cụ và người khách lúc vào nhà. Rồi tôi đi vào lối
sau đến cầu thang trống ở phía ngoài và lần bước đi lên.
Ánh đèn từ căn phòng cuối rọi sáng làm tôi cảm thấy ấm áp với
niềm vui.
- Chào các bạn.
Cường lên tiếng:
- A, bạn Kiêm. Sao lâu quá không về chơi?
- Đôi khi lười, không muốn về Sài Gòn.
- Mẹ, anh làm ra cái vẻ chán sống ở đô thị.
Những tiếng cười nổi dậy. Tôi nhìn từng gương mặt quen, vừa
kéo chiếc ghế ngồi. Căn phòng này là phòng riêng của mấy anh em Vinh. Trong bốn
anh em, Vinh là út nhưng thân với tôi hơn cả. Ba anh của Vinh: Cường, Thống và
Lạc là bạn với tôi cách đây sáu năm, hồi đó, chúng tôi học ở Đà Lạt và cùng là
lưu học sinh. Bây giờ các bạn tôi đều lên Đại Học. Thống học Luật, Cường và Lạc
học Khoa Học, chỉ mình Vinh đang học năm cuối Trung học. Vinh học ban C nhờ có
khiếu ngoại ngữ, và đang ước mơ trở thành một văn sĩ. Tuy chỉ quen biết nhau
trong hai năm học ở Đà Lạt, nhưng chúng tôi thân nhau và bà cụ thấy tôi chất
phác, bà thương tôi coi như con trong gia đình. Vì vậy, căn phòng này nó làm ấm
áp tình bạn của chúng tôi, và mỗi lần tới đây tôi luôn cảm thấy thật dễ chịu.
Giữa chúng tôi, cách gọi nhau xưng bằng tên, chỉ có Vinh tuy là thân nhưng còn
nhỏ tuổi nên vẫn gọi tôi là anh.
Hôm nay, ở xa về tôi gặp đủ mặt các bạn. Căn phòng trong ánh
đèn toả sáng và có tiếng nhạc êm dịu từ máy thu thanh vừa đủ nghe, vừa chậm rãi
đệm theo tiếng chuyện trò của bọn tôi. Một lúc sau, không khí ồn vui, sinh động
lên khi có mấy cô gái đến. Hương bạn của Thống, Ngân của Lạc và Yến, bạn thân với
Hương.
Vinh trở mình ngồi dậy đưa cuốn sách qua cho tôi.
- Đi chơi không anh ?
- Chơi đâu ?
- Coi ciné, hay ra Pagode ngồi uống cà phê.
- Đi uống cà phê.
Lúc Vinh xuống nhà rửa mặt, tôi cầm cuốn sách lật coi qua. Tập
truyện ngắn của Hemingway tôi có đọc một vài truyện được dịch trên báo Văn. Khi
lật đến giữa sách, thấy có truyện Trên miệt Michigan tôi dừng lại, muốn đọc vì
tôi chưa được đọc truyện này.
Ba cô gái mới đến chơi tôi đều quen biết nên cũng thân như mấy
anh em của Vinh. Ở phòng trong, Hương nói chuyện với Thống. Ở phòng ngoài, lúc
này tiếng nhạc đã dứt và Ngân đang nói chuyện với Lạc, còn cô Yến nói với Cường.
Tôi cố ý đọc vài trang truyện ngắn để các bạn tôi chuyện trò với nhau. Bất chợt,
lúc tôi ngừng thấy cô Yến đưa mắt nhìn qua tôi với một vẻ thân thiện. Cường hỏi
tôi:
- Kiêm đã gặp cô Yến lần nào chưa?
- Có gặp mấy lần rồi. Và còn biết, cô Yến đang học Gia Long.
Yến mỉm cười nhìn tôi. Tôi chợt hỏi:
- Cô Yến có học lớp cô Cẩm Sa không ?
- Có, cô dạy em môn Pháp văn.
- Bà mợ tôi đó.
- Vâng. Cô Sa nghiêm lắm.
Tôi ngừng đọc sách, cùng chuyện trò với Yến và Cường. Tiếng
của Lạc bỗng reo lên một cách thích thú và cười lớn một hồi lâu. Tôi cảm thấy
vui với gia đình người bạn.
Vinh trở lên nhà ăn mặc chải chuốt, tay cầm chìa khoá xe
Honda. Trên cặp mắt Vinh thoáng một nụ cười thật nhẹ nhàng.
Không khách sáo trong tiếng chào các bạn, Vinh và tôi ra lối
cầu thang xuống nhà.
Buổi chiều sắp hết, những tiếng ồn xe cộ huyên náo ngoài đường
dội lên làm tan những cảm giác vắng lặng mà tôi hẳn còn giữ.
- Anh thích coi ciné không? Vinh hỏi.
- Phim gì đó.
- Doctor Zhivago.
- Phim hay, nhưng thôi để lần khác....
- Ra Pagode uống cà phê.
Tôi gật đầu.
Tôi ngồi sau, để hai chân xuống cây chắn, tay vịn lên vai
Vinh.
- Lâu quá, không thấy anh ghé?
- Đôi lúc nhác không muốn về.
Ra khỏi cổng ngõ hẻm, Vinh rẽ phải chạy xe trên đường Phan
Đình Phùng. Xe tăng tốc độ, tôi đưa mắt nhìn buổi chiều qua những dãy phố trải
dài.
- Mình về từ lúc sáng, tôi nói. Về thăm một thằng bạn sắp
khăn gói vào quân trường.
- Anh ấy đi Thủ Đức?
- Không, đi Không Quân, sửa soạn ra Nha Trang học.
Quán cà phê La Pagode nằm bên góc đường Tự Do-Lê Thánh Tôn.
Vinh chạy xe nhanh, và chúng tôi đến đó sau những câu chuyện dở dang về công việc
làm, chuyện đi lính, chuyện học hành thi cử.
Quán Pagode luôn đông khách. Lần đầu tiên cùng Vinh tới đây,
tôi mới biết đây là quán Cái Chùa mà các văn nghệ sĩ thường đến ngồi. Vinh cũng
có quen biết một số nhà văn tên tuổi. Vào buổi sáng, họ thường gặp nhau ở quán
này chuyện trò, giới thiệu tác phẩm mới in, có người chỉ ngồi một mình vừa uống
cà phê, vừa viết văn. Tôi rất mến Vinh và Vinh đối với tôi cũng vậy. Vinh đã có
vài truyện ngắn đăng trên tuần báo, riêng tạp chí thì chưa. Tôi rất vui khi thấy
bạn mình là một cây bút trẻ đầy hứa hẹn, và tôi hết sức cầu mong Vinh sẽ thành
đạt trong chuyện viết văn sau này. Những niềm hy vọng của tôi chắc sẽ đến trong
vài năm nữa, vì Vinh học ban văn chương, đậu xong Tú Tài phần II Vinh sẽ lên Đại
Học, lúc đó kiến thức mở rộng, với năng khiếu ngoại ngữ, Vinh đọc nhiều thêm
các nhà văn thế giới qua nguyên tác, rồi từ đó, tạo cho mình một lối viết riêng
có kỹ thuật, có sắc thái, đến giai đoạn đó Vinh sẽ viết truyện dễ dàng, và hay
hơn .
Tôi và Vinh ngồi ở chiếc bàn trống ở góc nhìn ra đường Tự
Do. Chúng tôi vào chỗ ngay khi bốn người khách ngồi đó vừa đứng dậy rời quán.
- Anh có đói không ?
- Không.
- Em đang đói.
- Vinh ăn đi.
Người hầu bàn tới trên tay cầm cuốn sổ phiếu và cây bút
nguyên tử.
- Cà phê crème.
- Cho tôi cái pâté chaud và cà phê .
Ngoài đường, đèn bật sáng. Trong lúc chờ, tôi và Vinh đốt
thuốc hút. Không chờ lâu, phần bánh và cà phê của hai người được mang đến. Tôi
chợt ngước mắt chăm chú nhìn tới quầy bên trong khi thấy một thiếu phụ mặc áo
dài đỏ đi vào. Bà ta cũng bắt gặp cái nhìn của tôi lúc ngoảnh mặt. Bà ấy người
miền Nam, có giọng nói trẻ thơ, và có gương mặt đẹp quyến rũ khi những nét
nghiêm trang hay buồn phiền đọng lại.
Tôi bỏ cái thìa nhỏ vừa khuấy đường xong xuống dĩa lót, nói
với Vinh :
- Đứa em gái mình sắp lấy chồng.
Vinh ngừng ăn, nhìn lại tôi hơi ngạc nhiên. Tôi uống một hớp
cà phê đầy, châm thêm điếu thuốc rồi tiếp lời:
- Mới nhận được thư em mình ở Huế gởi vào.
- Cô ấy bằng tuổi của Ngân không?
- Có lẽ nhỏ hơn.
Tôi đợi Vinh ăn xong, bắt đầu uống cà phê mới đưa lá thư cho
Vinh đọc. Vinh đọc chậm, còn tôi tự dưng cảm thấy xa xôi, trống trải trong
niềm bâng khuâng khi nhớ đến em tôi. Lúc này, tôi không nghĩ mình sẽ về Huế hoặc
có một sự hiện diện mang ý nghĩa sẽ rời khỏi đây để trở về nơi mái ấm
gia đình.
Đọc xong thư, Vinh trả lại cho tôi, nói:
- Chữ của cô Thanh viết hơi giống anh.
- Em mình nghỉ học đi làm từ năm ngoái.
- Cô dạy học ?
- Không, làm thư ký bên Toà hành chánh.
- Anh có về dự đám cưới không ?
- Mình chưa biết. Tự nhiên cảm thấy an ủi khi có Vinh chiều
nay.
Vinh nhìn lại tôi. Sự cảm thông qua tiếng nói của
tôi đầy lên trong tình bạn, nó đến với Vinh, nơi cặp mắt còn trẻ ấy bỗng dưng
nghĩ ngợi nhiều.
- Gia đình anh đang ở Huế?
- Ở ngoài đó. Vào đây chỉ có hai anh em thôi. Ông
anh đã yên phận với lính tráng, còn mình thì cũng chờ.
Sự chuyển động cây lá ngoài đường, rồi có tiếng gió đập dội
mỗi lúc một nhanh, và tiếp theo là tiếng gầm trên bầu trời báo hiệu mưa. Mưa xuống,
ào ạt. Cả dãy phố bên đường tưởng như bị cuốn theo gió và nghiêng đổ dưới cơn
mưa lớn, nước mưa đang tràn chảy giữa lòng đường.
- Anh về nghỉ được mấy ngày?
- Mai lên lại rồi. Mai sẽ đi sớm.
- Tối nay ở lại nhà Vinh.
- Tối nay về với Vinh.
Trời mưa nặng hạt. Những người khách ngồi trong quán không
có ai rời ghế đứng dậy. Người thiếu phụ xuất hiện ở chỗ quầy bánh, nàng đứng một
mình, hai tay khoanh trước ngực nhìn ra những dãy bàn khách đang ngồi. Tôi nhìn
lại bà qua lớp kính dày rồi tự nhủ, người đàn bà này có vẻ đẹp lạ thường.
Tôi chợt hỏi :
- Vinh học ở trường có dễ dàng không?
- Cũng dễ anh.
Tôi dụi tắt mẩu thuốc, nói:
- Mình cảm thấy khó khăn. Thi cử bao nhiêu lần, không đậu nổi.
Lắm khi nghĩ đến mà sợ.
Vinh nói với tôi:
- Nếu anh làm việc ở Sài Gòn, anh có điều kiện học lớp tối.
- Mình vẫn muốn học, nhưng nghĩ đến thi cử là sợ.
- Anh nên cố phấn đấu, hãy chịu đựng những thất bại của
mình.
Tách cà phê còn lại không nhiều, tôi uống nốt. Trời mưa đã
có vẻ sắp tạnh. Từ trong quán, một số khách rời bàn đứng dậy.
Vinh uống hết cà phê, quay đầu gọi người hầu bàn. Tôi nhìn
ông ta thong thả bước đến. Vinh trả tiền, tôi lặng im vì không biết nói gì
thêm. Lúc nãy, tôi cũng rất muốn kể chuyện cho Vinh nghe về em tôi, mà qua hình
ảnh đó đã làm tôi nhớ lại rất nhiều căn nhà cũ ở bên dưới một ga xép, đối điện
với tháp nước, vào thời kỳ đó, mẹ tôi buôn bán hàng quán nên hai anh em tôi thường
mang những hàng quà mẹ tôi nấu như bánh gói, khoai lang, sắn, hoặc trái cây lên
ga bán khi có những chuyến tàu ở ngoài Bắc vào hoặc trong Nam ra về dừng lại ở
ga. Trong cảnh nhộn nhịp, huyên náo ở nhà ga lúc đón tàu, chúng tôi cảm thấy
sung sướng nhất. Thường lệ tàu ngừng lấy nước trong mười lăm phút, lúc đó, tôi,
em tôi và bọn trẻ nhỏ bán quà rong cứ đi dọc theo toa tàu cất tiếng rao, chào mời
niềm nở và nhờ hàng quà rẻ tiền nên rất dễ bán hết. Bây giờ, ngày ấy đã xa, tôi
có thể quên đi bao nhiêu hình bóng của tôi, nhưng mà em tôi, với đôi mắt to, với
nụ cười thơ trẻ, tôi vẫn còn nhớ thương nhiều, rất nhiều. Gia đình tôi rời xa
khỏi Quảng Trị, đến nay đã hơn mười năm.
Tối hôm ấy, trên tấm đi văng rộng tôi và Vinh ngủ
chung. Hai đứa tôi nói với nhau về một thời điểm trong quá khứ không rõ ràng
nên tôi cũng chắc là thời gian không thể tìm kiếm ra được.
Trong ngõ hẻm, một chiếc xích lô máy đang chạy
vào làm tôi thức giấc. Tôi để Vinh yên ngủ, trở dậy
ngay, lúc này tiếng máy xe nổ bần bật vẫn còn nghe. Vinh biết tôi đi
sớm, vội đưa tay cho tôi bắt.
Khi rời nhà Vinh ra đường, đến đầu khu chợ Vườn Chuối tôi đứng
một mình chờ đợi chuyến xe lam để lên bến xe miền Đông. Hôm nay là ngày chủ nhật.
Con đường Phan Đình Phùng còn yên tĩnh, thỉnh thoảng mới có một chiếc xích lô
máy chở hàng hóa chạy qua.
Sau gần nửa giờ đợi, xe lam mới tới. Trời rạng sáng hẳn và
đèn đường bắt đầu tắt. Lúc lên ngồi xe lam, tiếng máy nổ gây cho tôi cảm giác
buồn ngủ. Tôi khép mắt, nhưng giấc ngủ cũng chập chờn cho đến khi xe vào bến đậu.
Từ Sài Gòn xe đò đi Biên Hòa mất gần một tiếng. Lúc xe ngừng
ở bót gác trước doanh trại của Quân Đoàn III tôi xuống, ghé vào quán
bên vỉa hè ăn sáng, uống cà phê, xong về nhà. Buổi sáng đó, tôi dành thì giờ dọn
dẹp phòng ở, quét bụi trên gác, sắp lại sách vở trên kệ và sau cùng đem quần áo
ra giếng giặt. Với thời gian làm công việc nhà, tôi buông thả tâm hồn nghĩ ngợi,
nhớ đến Tuấn trong buổi gặp hôm qua, nhớ tới những người bạn cũ, và sau cùng,
là hình ảnh bé nhỏ của em gái tôi nay sắp sửa đi lấy chồng.
Ngày chủ nhật, tôi đã sống thật hạnh phúc bằng những kỷ niệm
thân thương tìm được và nó đã đưa tôi trở lại nhiều nơi chốn khác nữa mà bẵng
đi một thời gian khá lâu tưởng chừng mình đã quên. Cũng nhờ vào những kỷ niệm
tìm lại đó, nó cho tôi những lời hát vui để hát cho em gái tôi nghe trước khi
nó đi lấy chồng. Và, cùng bóng dáng em tôi, tôi gợi nhớ thêm được những tấm ảnh
nhỏ của gia đình, ngày xưa đó ba mẹ tôi hẳn còn trẻ.
Mùa mưa ở miền Nam trở về rồi chấm dứt lúc nào không hay.
Bây giờ là tháng chạp, ở đây không giá lạnh như ngoài miền Trung, nhưng mỗi buổi
sáng trời cũng trở lạnh để ra đường mình cần phải mặc áo ấm. Và, tháng mười hai
là một tháng nhộn nhịp khắp nơi, háo hức đợi mùa lễ Giáng Sinh, đợi một năm mới
Dương Lịch rồi những ngày tiếp theo là chờ đón Tết Việt Nam. Tôi đi
làm và dạy học đều đặn. Tuần lễ trước tôi có về Sài Gòn, và chỗ thường lệ ghé
thăm vẫn là nhà cô Trinh. Tôi nhận được hai lá thư của Tuấn viết từ quân trường.
Lá thư thứ nhất, Tuấn cho tôi hay là đã xong giai đoạn II quân sự , bây giờ bắt
đầu vào khóa học Anh Ngữ, và rất có thể đầu tháng ba năm tới sẽ lên đường đi Hoa
Kỳ học lái máy bay. Đọc thư của Tuấn tôi rất vui, và tối đó ở nhà cô Trinh, tôi
viết cho Tuấn một lá thư dài cầu chúc bạn tôi sớm lên đường du học. Trong thư,
tôi có hỏi Tuấn là ở Nha Trang đã tìm được một cô Phượng nào chưa? Tuấn đi phi
công, không chỉ hợp với dáng người cao lớn, khỏe mạnh, mà bạn tôi,
còn ôm một giấc mộng như trong tiểu thuyết Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong
nữa. Để còn giữ chút kỷ niệm trong tình bạn, tôi đã mua tặng Tuấn cuốn
truyện này. Trong truyện là những lá thư bốn phương trời của một người sinh
viên Việt Nam sang Pháp học lái máy bay, và nơi phương trời xa ấy, mỗi
tháng hay mỗi mùa chàng đã viết thư cho người yêu tên là Phượng, trong mỗi lá
thư chàng kể cho nàng nghe cuộc đời của một người phi
công từ khi bắt đầu ngồi vào ghế lái cho đến ngày đôi cánh tung bay. Đã có một
lần, chàng hỏi nàng: Tại sao tên em là Phượng? (tên
của một loài chim) Tại sao mắt em cho anh một nỗi nhớ nhung khắp
cả bốn phương trời.
Bao giờ cũng vậy, mỗi lần rời Sài Gòn, rời chốn
đô thị đi lên tỉnh nhỏ, lòng tôi luôn cảm thấy chùng lại, như thể cứ
loay hoay tìm kiếm quanh mình một cái gì đã mất mát, và rồi, tôi lại tự an ủi bằng
cuộc sống đang có.
Những tháng vừa qua vì biết sắp Tết nên tôi tiện tặn sự chi
tiêu để dành tiền gởi về nhà, và mua cho Thanh một món quà cưới .
Không chờ đợi lâu, Tết đã đến. Vào dịp cuối năm tôi dự liên
hoan ở Sở, rồi ở trường và ngày đầu năm sẽ đi chúc Tết bằng hữu, hay ở nhà đón
học sinh đến thăm. Không khí vui, nô nức, mọi người ai cũng đều cùng
hy vọng vào một năm mới thắng lợi. Và, vì muốn ăn Tết trọn vẹn với mình nơi tỉnh
nhỏ nên tôi chỉ về Sài Gòn hôm chiều 28, ghé nhà cô Trinh chúc Tết gia đình
xong trở lên Biên Hòa. Cô Trinh hỏi tôi:
- Mồng mấy con về chơi ?
- Qua mồng ba con về.
- Về chiều mồng một chơi hội bài đi anh.
Tôi nhìn Liên ngần ngừ, bất quyết. Liên nói:
- Anh còn độc thân mà lo nghĩ cái gì. Bộ quen ai trên đó rồi
phải không?
- Không, anh không có.
Tôi trả lời vu vơ, nhưng tự trong lòng cảm thấy như có một
chút gì đó thiếu thốn, lạnh lẽo. Tôi chợt nghĩ đến Hà, bạn của Ngân
mà một hôm đến nhà Vinh tình cờ tôi gặp. Sự gặp gỡ dù chỉ giây lát, nhưng nếu bị
xúc động mình sẽ cảm thấy đó là kỷ niệm làm hạnh phúc cho nỗi nhớ.
Buổi chiều ngày cuối năm tôi đứng một mình trên căn gác nhìn
ra thị trấn, nhìn xa những ngọn đồi. Trong giây phút thiêng liêng ấy, tôi nghĩ
đến một sự kết thúc, một quang cảnh chuyển đổi và thay mùa của thời gian.
Đêm xuống, cả thị trấn sáng đèn. Và trong đêm chờ đợi giao
thừa, hương khói bay tỏa, rồi cứ từng giờ một có tiếng chuông nhà thờ
hay nhà chùa đánh lên, vang vọng một nỗi u trầm, lắng sâu.
Ngày mồng một Tết, trời nắng đẹp. Trên các ngả đường lớn nhỏ,
xe cộ và người đi đông đúc, hết sức vui. Tôi ngủ dậy trễ, và khi thức dậy, rất
vui được đón khách tới thăm là anh Thi dạy học cùng trường. Ngồi nói chuyện một
lúc, tôi và anh cùng đến nhà cha Phương để chúc Tết. Khi chúng tôi đến, cũng có
một số anh em khác và nhân viên trong trường có mặt. Cha Phương tiếp
chúng tôi với nụ cười hiền hậu. Một lúc, cha hỏi tôi:
- Anh đã được tin ngoài nhà chưa?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại cha:
- Cha nói sao ?
- Anh không hay tin Huế bị tấn công?
- Sao cha biết tin ?
- Sáng nay tôi nghe đài B.B.C.
- Có thể là ở ven vùng ngoại ô.
- Không, cả thành phố bị đánh trong đêm giao thừa.
Tôi đưa mắt nhìn cha Phương. Cha cũng im lặng, trong cặp mắt
cha muốn nói với tôi một điều gì đó. Tôi không hỏi gì thêm, và cũng không đợi
những tin tức cần biết. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ Huế không thể nào bị
tấn công như tin của Đài B.B.C, vì tại Huế còn có đơn vị Sư đoàn I trú đóng.
Đến trưa, tôi đón xe đò về Sài Gòn. Khi xe chạy
qua thành phố, tôi thấy không khí Tết vẫn nhộn nhịp, ồn ào, còn tiếng pháo nổ,
và trên đường phố đông người đi chơi Tết. Về nhà cô Trinh, khi thấy tôi xuất hiện
cả nhà reo lên, ngay liền đó, tôi sà vào chỗ chơi bài, ngồi xuống bên cạnh
Liên. Bên ngoài tiếng pháo nổ, bên trong nhà ồn vui với những canh bạc, và có lẫn
mùi hương nhang đốt cùng mùi thức ăn.
Buổi chiều qua mau. Tôi nhường lại chỗ cho một người láng giềng
qua chơi và đi xuống nhà trò chuyện với chú Minh và cô Trinh. Lúc này, tôi mới
cho chú và cô biết qua tình hình ở Huế. Nơi thành phố đó vẫn quá xa để có thể
đe dọa tới Sài Gòn.
Nhưng rồi, đến quá nửa đêm bất thần có những tiếng
súng nổ. Cả nhà vùng dậy, tôi liền nói, có lẽ VC tấn công Sài Gòn. Tiếng súng nổ
mỗi lúc một mau, và tôi nhận ra được đó là tiếng súng AK.
Sài Gòn bị tấn công làm mọi người bàng hoàng. Một giờ sau
đó, có tiếng nói của Đài Phát Thanh Sài Gòn kêu gọi các quân nhân trở vào đơn vị
trình diện để ứng chiến. Từ khi vùng dậy nghe tiếng súng nổ, cả gia đình cô
Trinh và những gia đình bên cạnh ai cũng thức đến sáng.
Tiếng súng bắt đầu ngưng. Khi tôi và chú Minh cùng ra ngõ hẻm
tới con đường chính đi Sài Gòn và Chợ Lớn thì trông thấy nhiều đoàn xe nhà binh
của các đơn vị trong Quân đội VNCH đang tuần tiễu. Lại có tiếng súng nổ xa gần.
Ngày hôm qua, tôi còn ngờ ngợ về tin Huế bị địch tấn công, giờ, Sài Gòn và hầu
như các tỉnh miền Nam cũng đều bị tổng công kích.
Biến cố Mậu Thân đã làm cho cuộc chiến ở miền Nam thực sự bước
vào một giai đoạn mới. Cuộc chiến trong các thành phố và đô thị kéo dài đến hai
tháng, nhưng Hà Nội đã hoàn toàn thất bại trong cuộc nổi dậy chiếm
trọn miền Nam. Khi tình hình lắng dịu, Bộ Quốc Phòng bắt đầu kêu gọi
lệnh Tổng động viên đồng thời mở các lớp Quân Sự học đường để làm một lực lượng
phòng thủ an ninh địa phương.
Ngày đám cưới của em tôi vẫn như trù định vào tháng ba. Tôi
hơi phân vân về tình hình cuộc chiến, nhưng cuối cùng tôi cũng về Huế.
Tôi xin được chuyến máy bay quân sự từ Biên Hòa ra đến Phú Bài. Và khi xuống
sân bay, tôi mau mắn gặp chiếc xe ca của trạm hàng không đưa hành khách về
thành phố. Trên con đường xe chạy, lòng tôi nôn nao và cảm thấy thương nhớ những
người đã chết trong một cuộc chiến quá buồn thảm. Huế không phải là một thành
phố tôi sinh ra và lớn lên, nhưng nó rất gần gũi với thời đi học của tôi và hiện
giờ gia đình tôi đang sống ở đây. Từ biến cố Mậu Thân, toàn miền Nam bị Cộng
Quân tấn công, nhưng Huế chịu sự thảm họa nặng hơn hết. Ở Sài Gòn và các tỉnh
miền Tây cũng như từ Đà Nẵng vào miền Nam mức độ thiệt hại không nặng lắm, chỉ
có Huế là lâu dài, tang tóc, và tin tức về Huế luôn được đăng tải trên trang nhất
ở các báo Sài Gòn. Khi đọc những giòng tin chiến sự về Huế, tôi cũng đã hình
dung ra được biến cố đó xảy ra như thế nào nên hôm nay trở về, tôi chỉ còn nhìn
Huế trong hoang tàn. Quả thực, cả thành phố còn ngơ ngác trong cảnh tượng mới hồi
sinh. Trên dãy phố Trần Hưng Đạo nhiều căn nhà bị tàn phá chưa sửa chữa, khu nội
thành thiệt hại nặng nề hơn, và con số người chết, bị thương, bị bắt, hoặc đem
chôn sống nhiều, rất nhiều không kể xiết.
Nhà tôi ở cạnh chùa Từ Đàm ngang bờ dốc Nam Giao.
Khi xuống trạm hàng không ở phố Trần Hưng Đạo tôi đón xe buýt về nhà, và trong
giây phút mừng vui được gặp lại gia đình đã làm tôi rưng rưng nước mắt. Cả nhà
reo lên, từ trong nhà thấy bóng tôi bước lên bậc thềm tam cấp, Thanh chạy ào ra
nắm lấy tôi, vừa khóc. Lúc này, sắp đến giờ ăn trưa nên có mặt đông
đủ cả nhà. Ba mẹ, các em đều hỏi han tôi về cuộc sống từ ngày tôi rời bỏ Huế
vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm. Tôi xúc động đáp lời trong đứt quãng và đến khi
mở túi xách lấy những thứ quà mua về cho ba mẹ và các em tôi mới thực sự sống lại
với những ngày tháng cũ.
Tôi chỉ xin nghỉ phép được một tuần lễ. Hai ngày
sau đó là đám cưới của Thanh. Buổi chiều hôm trước, lang thang chơi phố tôi
tình cờ gặp Vịnh, bạn học cùng lớp với tôi và Tuấn. Hai người bạn đã khác xưa
nhiều. Nỗi đớn đau của Huế đã hằn in rõ nét trên gương mặt Vịnh, mà dù không
nói ra tôi cũng biết anh đã mất đi những người thân của mình. Tôi lặng im nhìn
Vịnh và nghe những chuyện kể về biến cố Mậu Thân. Trong câu chuyện khô đục, tiếng
của Vịnh đôi khi giận dữ. Và khi nhắc tên những người bạn chúng tôi quen đã chết,
giọng nói anh chùng xuống, bàng hoàng. Chúng tôi tản bộ trên phố không
mục đích rồi sau đó ghé vào quán cà phê. Và, tới lúc này tôi mới cho Vịnh hay
biết tại sao tôi phải bỏ Huế vào Sài Gòn để tìm kiếm kế mưu sinh, dù cho rằng, ở
đây, đang còn có gia đình tôi cư ngụ. Tôi định cho Vịnh biết tôi về Huế dự đám
cưới người em gái, nhưng nghĩ lại không cảm thấy vui đối với hoàn cảnh của người
bạn mình nên tôi không nói ra nữa.
Rời quán cà phê, chúng tôi qua cầu Trường Tiền rồi theo đường
Lê Lợi đi lên phía nhà ga. Tôi không cần nhìn lại quang cảnh Huế mà đã thấy Huế
đau thương như thế nào trong bóng dáng người bạn cũ với một ngày về gặp. Ngang
qua trường Đồng Khánh và Quốc Học, hai đứa tôi rẽ vào công viên ngồi trên ghế
đá nhìn ra con sông. Bên kia sông là hình ảnh kinh thành Huế dưới bóng cờ. Buổi
chiều mang một nỗi nhớ lặng chìm, không cất tiếng. Và bóng dáng con
sông cũng như tất cả chiều nay trở nên xưa, rất xưa, nó khơi dậy vẻ
áo não, cái buồn này đã làm tôi nhớ mấy câu thơ Huy Cận
Đồn
xa quằn quại bóng cờ
Phất
phơ buồn tự thời xưa thổi về
Ngàn
năm sực tỉnh lê thê
Trên
thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu
Khi ngồi nhớ lại những câu thơ đó, tôi đã nhìn sang bên kia
sông và nghĩ đến lịch sử triều đại nhà Nguyễn đã đóng đô tại kinh thành này.
Tôi cảm thấy băn khoăn muốn tìm ra một điều chân thực để nói với Huế, nhưng thực
sự, bên tôi chỉ còn có một người bạn. Và tôi đọc cho Vịnh nghe những đoạn thơ
còn nhớ, rồi sau khi đọc xong, tự dưng chúng tôi như cùng có cảm nghĩ nó là một
khúc nhạc thê lương, buổi chiều nay trí nhớ trôi theo dòng sông đang
muốn ngược về một vùng trời cuối gió hay một chốn nào vô hạn của thời gian.
Thì ra, ngày tôi trở lại Huế là một khoảng xa
cách, không ngờ. Tôi đi với Vịnh lên tới nhà ga, vừa lúc đó, có tiếng còi xe lửa
của một đầu máy tàu vọng lên. Rồi hai người bạn bắt tay lúc tiếng còi vừa lặng
tắt.
Từ ga, tôi đi bộ về nhà qua chiếc cầu nhỏ lên dốc Nam Giao.
Buổi chiều xuống lặng lẽ, xa xôi. Khi tôi về tới con dốc trước nhà, thấy Thanh
đứng trước bậc thềm như có vẻ trông ngóng, đợi tôi. Tối hôm đó, sau bữa ăn, cả
nhà cùng phụ nhau trang hoàng cho đám cưới ngày mai của Thanh. Những chùm ánh
sáng, những chiếc đèn lồng, những bông hoa giấy, thêm vài bức tranh vẽ, mỗi lúc
cho thấy sự hài hòa, kết hợp.
Khi đêm xuống, khuya dần làm thành phố có vẻ xa
khuất, chúng tôi chợt nghe vọng những tiếng súng trên núi đổ xuống. Trời hơi
chuyển gió như trở lạnh. Tự dưng tôi nhớ Sài Gòn, mới đêm nào ở nhà Vinh và suốt
buổi tối trời mưa lớn, hai đứa ngồi yên lặng nghe mưa.
Một tuần lễ thăm nhà qua thật mau. Tôi không xin được phương
tiện máy bay nên phải đi xe đò hoặc tàu. Vì tàu lửa mất an ninh không chạy suốt
nên tôi phải đi bằng xe. Buổi sáng chủ nhật, vợ chồng Thanh tiễn tôi
ra bến chính. Lúc ngồi đợi trong quán nước, ba anh em trò chuyện về những người
thân trong gia đình và một số bạn bè quen biết. Tôi không sinh trưởng ở Huế,
nên thành phố này không có gì làm tôi bịn rịn, luyến lưu. Thế nhưng, lúc người
tài xế nhấn còi báo cho hành khách chuẩn bị lên xe, lòng tôi bỗng cảm thấy nôn
nao. Thăng chồng em gái tôi chuyền cái túi xách đựng quà cho tôi qua cửa xe. Đứng
bên dưới, vợ chồng em tôi ngước mắt trìu mến nhìn tôi. Tôi nhìn lại, nhưng bên
trong cặp mắt tôi những kỷ niệm yêu thương đã trốn lẩn, khuất biệt. Một nhịp
còi dội lên, rồi xe lăn bánh. Bên dưới, nụ cười của vợ chồng em gái tôi cùng
sáng lên như một giọt nước giữa lòng nắng ấm, và hai bàn tay vẫy
theo cùng mấy câu chào từ biệt.
- Sang năm anh về nghe.
Tôi chỉ gật đầu. Hai em tôi còn đứng lại đó nhìn theo xe, và
tôi vẫn ngoái đầu lại, mỗi lúc, sự sung sướng ngập đầy làm cho cặp mắt tôi ứa lệ.
Tôi đã quá vui mừng, hạnh phúc, vì tôi hiểu được em gái tôi đã trưởng thành. Từ
nay, em tôi có đời sống riêng, cái tên thời con gái được trả lại cho gia đình.
Rồi đây, em tôi cũng sẽ tạo dựng được một mái nhà để ở, và nó chính là biểu tượng
hạnh phúc. Những gì giờ đây tôi nghĩ đến em tôi, cũng đồng thời làm tôi nhớ lại
những ngày tuổi nhỏ của chúng tôi đối với cha mẹ. Cùng trong một ý tưởng về cuộc
đời, hôm nay, cuộc đời mới của em tôi nhắc tôi nhớ lại nhiều rất nhiều nơi chốn
ở, mỗi chốn ấy có một căn nhà gia đình ba mẹ tôi tạo dựng nên và chúng tôi được
ở, được sống trong cảnh sum vầy, hạnh phúc. Những nhà ga, bóng dáng những cái
tháp nước, âm thanh vang vọng từng hồi còi con tàu, nó đã cùng tôi
đi qua những con sông, những chiếc cầu, những làng mạc có ruộng đồng êm ả, và
nó cũng đã lưu luyến trong lòng tôi với những phút giây này.
Vượt khỏi cầu Mới, xe đi ra vùng ngoại ô. Từng con đường bỏ
lại, Huế rời xa, tự dưng làm tôi ngơ ngẩn. Thế đó, tôi đã trở về thăm nhà và dự
đám cưới của em gái tôi. Ra đi lần này, tôi bỗng cảm thấy có được một sự tin cậy
không hẳn chỉ mang bóng dáng em gái tôi hay cả gia đình tôi trong kỷ niệm của
mình, mà còn có cả hình ảnh một con tàu sẽ ra đi trong ngày mai.
Vào quốc lộ I, đường tốt xe bắt đầu chạy nhanh, và tưởng chừng
qua trong chốc lát, tôi lần bắt gặp những thành phố, những thị trấn mỗi khi xe
tạm dừng. Tới Qui Nhơn, trời đã tối. Trước khi hành khách vào quán ăn cơm, tài
xế cho biết vì đường mất an ninh nên xe nghỉ lại đêm, sáng mai sẽ chạy sớm.
Gần chiều tối, xe về tới Sài Gòn. Từ bến, tôi đón xe lam về
nhà cô Trinh, và tối đó chuyện trò với Liên và cô chú, tôi kể hết những
chuyện hồi còn nhỏ của anh em chúng tôi ở Quảng Trị, tiếp đó là một ngày thật
vui về đám cưới của Thanh. Cô Trinh, cả Liên nữa rất hài lòng.
Sau một đêm nghỉ, tôi thức dậy sớm để kịp đi xe đò lên Biên
Hòa làm việc. Ngày tháng đã qua, và cứ trôi qua để tôi hiểu rằng những kỷ niệm
dù bao dung đến mức nào cũng chỉ trồi dậy chốc lát, rồi trở về lại quá khứ nằm
yên.
Khi tình hình chiến sự trở nên khẩn trương, lệnh
Tổng động viên được ban hành. Tôi chỉ làm việc và dạy học thêm hai tháng vừa hết
niên học thì vào quân trường.
Ngày đầu tiên mặc quần áo lính, tôi như đối diện với một
hình ảnh xa lạ của chính mình.
Hết giai đoạn I ở Quang Trung, khóa chúng tôi lên trường Bộ
Binh Thủ Đức. Đây là một quân trường rộng lớn, bên trong nếp sinh hoạt giống như
một thị trấn. Tôi đã có bạn bè, đã quen với mùi súng đạn, mùi mồ hôi của áo trận,
nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ tới chiến tranh cả.
Giai đoạn II sẽ kéo dài trong sáu tháng, và khi mãn khóa học
chúng tôi sẽ rời trường đi ra đơn vị. Vào lúc này, thời gian học có vẻ dài đối
với tôi, nhưng đôi khi, đem lại cho tuổi trẻ chúng tôi những niềm vui nhỏ.
Ninh Giang là tên một cô gái mà bạn tôi muốn làm quen. Gia
đình cô ở trong trường có mở quán ăn và giải khát. Một buổi tối chờ phiên gác ở
ngoài tuyến, bạn tôi rủ tôi tới quán của nàng. Giờ nghỉ còn sớm, quán đông chật
ồn ào, và khi thấy cô gái xuất hiện, tôi nhận ra được cái vẻ đẹp dễ thương, vừa
dịu hiền của một thiếu nữ. Đến bàn chúng tôi, cô hơi nghiêng mình chào với nụ
cười dành cho bạn tôi. Lúc ấy, tôi ngước mắt nhìn gương mặt cô gái, bỗng dưng
chạnh nhớ đến em tôi. Một thoáng hình ảnh của Ninh Giang, nói với
tôi rằng em gái tôi vừa mới đi lấy chồng.
Trong quán tiếng trò chuyện râm ran, và những bản nhạc nối
nhau qua nhiều tiếng hát. Lặng lẽ, tôi và bạn tôi ngồi uống nước, vừa nghe nhạc.
Rồi để cho lòng khuây khỏa, tôi đưa mắt nhìn những bức tranh ảnh treo trong
quán. Mỗi một bức tranh, không có gì nói ra với tôi cả.
Những ngày sau đó, khi tôi và người bạn trở nên thân nhau,
chúng tôi thường tới quán Ninh Giang vào những đêm Đại đội chúng tôi phải trực
gác ngoài tuyến.
Tối hôm ấy, trời khuya lạnh, tôi đi một mình vì bạn tôi đau
nằm điều trị ở bệnh xá. Tôi tới quán Ninh Giang, tuy đã khuya nhưng quán nàng
còn mở cửa. Tôi chỉ gọi cà phê và ngồi uống một mình. Bên kia, nơi chiếc bàn nhỏ
Ninh Giang mặc chiếc áo nâu đang ngồi học bài .
Những điếu thuốc hút tiếp nhau đã làm cổ họng tôi nghẹn đầy
khói. Còn bao lâu nữa, mới đến ngày rời trường. Tôi sẽ đi đơn vị, mà ở đâu, một
nơi chốn nào hay một thành phố nào? Và, còn bao lâu nữa chiến tranh mới kết
thúc. Tôi ngồi đây, nghĩ mông lung như thế. Bỗng nhiên, tôi chợt để ý đến một bức
tranh treo trên tường, sau lưng chiếc bàn học của cô gái. Tôi nhìn, mắt trở nên
chăm chú. Đó là bức tranh màu lửa đạn. Nơi bức tranh đó, một người lính Mỹ quần
áo rách nát đang ngồi đọc lá thư nhà. Lá thư làm cho anh sung sướng với nụ cười
nở rộng. Đằng sau thư anh đọc là lửa cháy, và trên đám lửa đó có dòng chữ
My father,
I will be back tomorrow
Bây giờ, tôi nhận ra rằng hình ảnh Ninh Giang, một
thiếu nữ còn ngồi đây thầm lặng đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm thật đẹp trong sự
đơn sơ, so sánh với một quê hương trên dòng đời thoang thoảng hương vị của gió
mùa.
Cũng đã khuya, tiếng chuông đồng hồ rơi đổ, nặng nề. Ninh
Giang chép bài xong, gấp cuốn sách lại. Tới giờ quán sắp đóng cửa, tôi
đóng ngăn hộp diêm, vừa lúc Ninh Giang đứng lên. Qua vai áo nâu, tôi nhìn mái
tóc của nàng, thấy nàng đã lớn và hình bóng nàng vừa đủ che một phần bức tranh
khói lửa đằng sau lưng.
10/17/06
Nguyễn Chí Kham