Văn xuôi và thơ đều diễn đạt ý tưởng và biểu lộ cảm xúc, để
truyền cho người khác các “thông báo” (information), các “tin tức.” Nhìn như
các diễn trình truyền đạt thì văn và thơ khác nhau ở số lượng “tin tức” được
truyền đi. Văn xuôi có thể nói rất nhiều nhưng số lượng thông báo trong nội
dung vẫn ít, còn thơ thì ngược lại.
Dùng lý thuyết tin học, Umberto Eco giải thích rằng khi ý
nghĩa (meaning) của một thông điệp càng rõ rệt bao nhiêu thì số lượng thông
báo, information, càng ít đi bấy nhiêu.
Nếu nói một điều ra mà ý nghĩa rõ ràng sáng sủa nhất, người nghe hiểu trăm phần trăm, thì thường thường lời nói trở nên nghèo nàn, không còn gì để truyền đạt nữa. Có khi nói ra là thừa, vì câu nói chỉ xác nhận một điều ai cũng biết rồi. Câu nói không tạo thêm “tin tức” mới nào cả. Không làm tăng thêm “gia tài tin tức” của người nghe, và giữa hai người cùng chia sẻ. Không làm giàu hệ thống ngôn ngữ mà hai người dùng chung với cộng đồng.
Ngược lại bài thơ với những vẻ đẹp lấp ló sau mành lại có khả
năng kích thích nhiều tình ý phong phú hơn, ở ngoài những lời lẽ thốt lên.
Kín và Mở
Thí dụ có người nói: “Buổi sáng trời quang tôi thấy mặt trời
mọc, ánh sáng mặt trời chiếu lên mây thành màu đỏ.” Tôi chắc rằng chúng ta đều
hiểu của câu đó khá rõ ràng. Người nói định truyền tin tức nào, chúng ta nhận
được khá đầy đủ. Vì cả người nói lẫn người nghe đều chia sẻ các hiểu biết về hiện
tượng tự nhiên trên. Bây giờ tôi lại nói: “Quả trứng bể con gà chui ra, một con
gà con mới ra đời.” Thông điệp này cũng rõ nghĩa. Nhưng số lượng thông tin của
hai câu trên là số không. Vì cả hai câu không làm cho người nghe, và cộng đồng
những người nói tiếng Việt, được giàu thêm một tin tức mới nào. Bây giờ chúng
ta thử nghe một thi sĩ nói:
Rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ
Tôi đã đầu thai thức dậy sơ sinh
(Tô Thùy Yên)
Hai câu thơ này khiến tôi thấy bừng bừng những ý tứ mới mẻ.
Chỉ riêng một câu đầu thôi đã có thể làm tôi choáng váng. Tôi thấy có hình ảnh
màu đỏ giữa trời và đất, và màu hồng của trái trứng gà. Tôi nhớ tới vỏ trứng
tròn và liên tưởng đến bầu trời khum khum úp trên mặt đất. Tôi cũng thấy mặt trời
làm sáng bật lên đường chân trời cắt đôi đêm tối, tách bầu trời ra khỏi mặt đất;
cùng với hình ảnh vỏ trứng vỡ tách đôi. Trứng vỡ gợi một cảm giác đớn đau,
nhưng không thể cưỡng lại; nếu trứng không vỡ ra thì không có hiện tượng khai
sinh. Có thể được dẫn tới cả những tư tưởng siêu hình, thần bí: vũ trụ đã được
tạo dựng,
kinh Cựu Ước nói đến việc tạo ra bầu trời
và mặt đất; huyền thoại Á đông nói đến thuở “hỗn mang chi sơ, tiên thiên địa
sinh, Bàn Cổ thủy xuất.” Nếu trứng bể ra mà không thấy gà con, chỉ thấy lòng đỏ
với lòng trắng như mặt mặt trời mọc lúc hừng đông, thì hình ảnh đó cũng tương đồng
với cảm tưởng “hỗn mang chi sơ.” Rồi từ những ý tứ trên, tôi lại thấy có con người
thi sĩ thức dậy buổi sáng mà tưởng như mình vừa mới đầu thai, thi sĩ là một con
người (giống như con gà) lúc sơ sinh. Không phải chỉ một thi sĩ mới sinh ra, mà
còn thấy như cả trái đất, cả vũ trụ vừa mới sinh ra cùng với hừng đông. Vũ trụ
sinh ra, vì con người vừa thức dậy, vừa sinh ra, vừa nói. Rồi ở cõi nào đó, có
lệnh truyền xuống: “Hãy có ánh sáng” và từ đó phân biệt ánh sáng và bóng tối…
Nhưng chủ thể nhìn thấy sự phân cách giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lúc chưa tạo
thành với lúc đã tạo thành, là con người. Không có người nhìn thấy thì vũ trụ
chẳng có. Tôi đã đầu thai, mỗi ngày trái đất lại đầu thai lần nữa.
Xin đừng hiểu lầm là tôi đang giải nghĩa hai câu thơ của Tô
Thùy Yên.
Tôi chỉ “thông báo” với quý độc giả về những tình ý có thể
hiện ra trong đầu khi mình đọc hai câu thơ. Các ý tứ không theo thứ tự như các
câu viết trên đây. Chúng đồng thời xuất hiện, chập chùng, lãng đãng, bàng
hoàng, cùng một lúc, vì tác dụng của các từ ngữ “hừng đông, sơ sinh, đầu
thai, trứng vỡ, thức dậy, rồi, đã, trời đất.” Mọi thứ hiện ra, không lần lượt,
trộn lẫn vào nhau, sau khi tôi đã đọc xong cả hai câu thơ. Hai câu thơ không
còn là một chuỗi nối các từ ngữ mà trở thành một tổng thể, một “hỗn mang chi
sơ.”
Rồi trời đất hừng đông như trứng vỡ
Tôi đã đầu thai thức dậy sơ sinh.
Nếu bây giờ đọc lại hai câu thơ này mà quý vị vẫn không thấy
các tình ý xuất hiện như tôi mô tả ở trên, thì phải kết luận rằng chúng ta
không có sẵn cùng một kho kinh nghiệm về tiếng nói, về đời sống tự nhiên cũng
như đời sống tâm linh. Hoặc cả hai, ba thứ kinh nghiệm đó chúng ta đều không có
gì để chia sẻ cả.
Nếu độc giả đọc lại hai câu thơ đó, và đã thấy xuất hiện nhiều
tình ý mới, mới nhưng khác hẳn những tình ý mà tôi mô tả bên trên, thì điều đó
lại càng chứng tỏ hai câu thơ nghe rất lửng lơ, mù mờ về ý nghĩa, nhưng chuyên
chở rất nhiều ý tứ. Nghĩa là số lượng thông báo giàu gấp bội.
Nêu thí dụ về hai câu thơ này khiến độc giả có thể nghĩ rằng
tôi cố ép nài quý vị chia sẻ ý kiến của tôi về thơ. Bây giờ tôi xin lấy một thí
dụ về một câu nói hàng ngày. Một thiếu nữ nói với người bạn trai, chẳng hạn,
nàng bảo: “Ngày mai em không đến anh.” Ý nghĩa của câu này có
xác suất trăm phần trăm, ai cũng có thể hiểu, hiểu giống nhau, và hiểu nghĩa rồi
là xong.
Nhưng nếu cô nàng nói: “Ngày mai em có thể đến
thăm anh” thì vừa nghe xong, trong đầu chàng trai sẽ bừng lên bao nhiêu là tình
ý mới: “ngày mai? sáng mai? chiều mai? thăm là thế nào? liệu
em có thể ngồi chơi bao lâu, mấy giờ hay mấy phút? Mình sẽ nói gì? Sẽ làm gì nhỉ?...”
Cái thông điệp với tính cách không xác định (có thể) còn gợi ý: “có chắc chắn
không em?”
Giữa hai người, cái thông điệp với xác suất nhỏ hơn một, và
lớn hơn số không, là một thông điệp chứa nhiều số lượng thông báo, nhiều hơn hẳn
cái thông điệp có xác suất bằng một hay số không. Nếu thiếu nữ nói: “Ngày mai
em sẽ tới thăm anh lúc 10g 30, em mang kim chỉ đến để vá cái quần rách của anh
xong rồi em về, vì lúc 11 giờ em phải đi đón má ở chợ.” Thông điệp này cũng rõ
nghĩa gần một trăm phần trăm, và ý tứ rõ thế thì chàng trai không còn chuyện gì
để nghĩ ngợi thêm.
Hai lá thư tình
Tôi chắc quý vị đều có dịp viết thư tình và đọc thư tình.
Môn thể thao này thời tôi còn trẻ rất thịnh hành ở Việt Nam. Thời nay các bạn
trẻ có nhiều cách khác; thật đáng tiếc! Bây giờ chúng ta thử đọc hai lá thư tình,
để có dịp tập luyện một chút. Đây là thư tình của một cô gái gởi bạn trai, do
tôi bịa đặt hoàn toàn, nếu có trùng hợp với chuyện thật của ai tôi xin được miễn
chấp.
Một lá thư có đoạn như vầy: “Em nói trong lá thư trước hẹn
anh ra đón em ở ga xe lửa khi em tới Nha Trang ngày 13 tháng 11, là vì trong một
phút trào lòng, em nghĩ nếu được gặp anh, đi bộ ngoài đường, nói chuyện với anh
cả một buổi tối thì thật là hạnh phúc vô cùng. Em phải giải thích để anh hiểu
rõ hơn tại sao em lại có ý nghĩ ấy. Lúc đầu em tính đi chuyến xe trễ, tới Nha
Trang lúc 11 giờ đêm, thì ông anh họ của em sẽ ra đón ở nhà ga, ông ấy làm việc
ở gần đó, lúc 10 giờ thì hết ca. Nhưng sau em lại thấy có chuyến tàu đi sớm, tới
Nha Trang lúc 6 giờ chiều, máu lãng mạn làm em thèm có được một buổi tối đi bộ
chuyện trò, đọc thơ cho anh nghe, cho nên em mới định đến sớm, đi bộ trên các
con đường ở Nha Trang, nói chuyện với anh, rồi 10 giờ rưỡi quay về nhà ga đợi
anh Sơn tới đón. Em tuy có trái tim thiếu nữ thật đấy, bồng bột thật đấy, nhưng
em cũng có cái lý trí của một cô gái có giáo dục. Anh em mình có gặp nhau, chuyện
trò với nhau suốt đêm thì cũng chẳng có chuyện gì để nói là ngoài vòng lễ giáo.
Em kính trọng anh và em nghĩ rằng anh cũng quý trọng em, và chắc rằng cả anh và
em đều tương kính lẫn nhau. Em chắc là anh đã hiểu được lòng em rồi, em sẽ chờ
anh ở chỗ cái cửa sắt sơn đỏ phía bên trái nhà ga, rồi mình sẽ đi ăn phở với
nhau, như lần đầu chúng mình gặp nhau ở trong tiệm phở, anh còn nhớ không?...”
Bây giờ xin coi thử một đoạn thư tình khác: “Một buổi tối
hôm trước em ở hồ bơi nước nóng đi ra, thành phố vắng vẻ. Đà Lạt mùa này đã lạnh,
tóc em còn ướt, em đứng nhìn sang bên kia đồi thấy có mấy căn nhà đèn còn thắp
sáng. Đường phố lúc bấy giờ chẳng có ai qua lại, em thấy chỉ có một mình ở giữa
thế giới này. Dãy núi trước mặt, mặt trăng trên cao, em tự hỏi phương nào là
quê hương em, phía nào là nơi người tri kỷ ở. Anh có nhớ câu thơ của Trần Tế
Xương: Ta nhớ người xa cách núi sông, người xa xăm quá nhớ ta không?”
Sau khi đọc hai đoạn “thư tình” trên đây thì quý vị thấy đoạn
nào chứa đựng nhiều tình tứ hơn? Đoạn nào có thể làm cậu trai đọc xong tâm hồn
rộn rã, nôn nao hơn?
Tôi đã cố ý chọn lá thư thứ nhất với những hứa hẹn cụ thể: sẽ
đi bộ với nhau ở một thành phố thơ mộng, sẽ đi ăn để nhắc lại chuyện gặp gỡ lần
đầu, sẽ đọc thơ cho chàng nghe (biết đâu còn nắm tay chàng?) và nếu chàng liều
mạng một chút, xem trong âu yếm có chiều lả lơi, thì biết đâu đấy!
Còn lá thư thứ hai thì rất mơ hồ. Cô gái có nói là có yêu
anh chàng hay không? Cô có hẹn gặp, hẹn viết thư, hay hẹn hò gì khác không? Dãy
núi xa, ngọn đèn sáng bên kia đồi, mặt trăng trên cao có chứa đựng lời tỏ tình
nào không? Câu thơ của Trần Tế Xương cô cũng chép sai (người xa xa có nhớ ta
không), và câu đó cụ Tú Xương tả nỗi nhớ một đồng chí chứ không phải nhớ người
tình khác phái. Cô gái nhớ cả quê hương cô lẫn người tri kỷ, mà người tri kỷ có
phải là cậu trai này không? Cậu trai tha hồ đoán!
Sau khi phân tích hai đoạn thư rồi, tôi hy vọng người đọc sẽ
thấy cảm tưởng mà tôi chủ ý gợi ra, khi mời quý vị đọc hai đoạn thư đó lần đầu
– hay bây giờ quý vị đọc lại. Chủ ý của tôi là: Đoạn thư thứ hai chứa chất tình
tứ nhiều hơn đoạn thư đầu.
Đoạn thư đầu nói rõ ràng, rành mạch quá, cô gái còn dùng lý
trí để biện luận, giải thích. Vừa nghĩ đến chàng vừa lẩm nhẩm tính giờ, xác định
ngày, vừa lo chuyện lễ giáo, vừa sợ hiểu lầm nên nói rõ lòng tương kính, nhắc lại
mình là cô gái có giáo dục. Ngay cách dùng chữ: em kính trọng anh, anh quý trọng
em, cũng hàm chứa sự tính toán ý nghĩa của hai chữ kính và quý. Không khí của
lá thư đầu là không khí của óc khôn ngoan, bình tĩnh, của lý trí. Ngược lại, lá
thư sau là một tình trạng buông thả, tự do, mơ hồ và bồng bột. Chúng ta không
rõ thời gian là ngày nào, lâu rồi hay mới đây. Cô gái nhớ đến quê hương ở đâu,
người tri kỷ nào? Nhưng tôi nghĩ chàng trai sẽ thấy đoạn thư sau dạt dào tình tứ,
đọc xong có thể lơ mơ ngơ ngẩn cả ngày. Đọc xong lá thư thứ hai chàng trai có
thể muốn làm thơ, bắt đầu với hình ảnh các căn nhà sáng bên kia đồi, sương mù
Đà Lạt, v.v….
Tiếng ngựa buồn teo
Thơ nói ít đi để nói nhiều hơn. Để độc giả nhận được nhiều
hơn. Muốn vậy, thi sĩ cắt bớt các tiếng, các chữ nào không thật sự thiết yếu. Để
cho độc giả tự thêm vào, có khi độc giả thêm vào các tiếng, các chữ mà tác giả
không ngờ. Mà chính điều đó làm bài thơ giàu có, phong phú hơn. Thử đọc một bài
thơ ngắn của Lý Bạch.
Âm chữ Hán:
Tống Hữu Nhân *
Thanh sơn hoành bắc quách
Bạch thủy nhiễu đông thành
Thử địa nhất vi biệt
Cô bồng vạn lý chinh
Phù vân du tử ý
Lạc nhật cố nhân tình
Huy thủ tự tư khứ
Tiêu tiêu ban mã minh
Nghĩa
Núi xanh chạy ngang quách phía Bắc
Nước trắng lượn quanh thành phía Đông
Đất này một lần chia biệt
Ngọn cỏ bồng lẻ loi đi xa vạn dậm
Mây nổi, ý du tử
Mặt trời lặn, tình cố nhân
Vẫy tay từ nay đi xa
Leng keng tiếng ngựa đi trận về
Từ hơn ngàn năm rồi, người đọc thơ đã quen với lối nói chấm
phá của thơ. Câu thứ tư (Cô bồng vạn lý chinh) nối với các câu khác ở
trong ý tứ, chứ không ở trong cách nói. Lời nói đã được cắt bớt. Tiếng nhạc ngựa
về chiều, và thành, quách (quách là bức tường rộng bao chung quanh tường thành
chính). Phù vân, lạc nhật, du tử, cố nhân đều có liên hệ với nhau, mà người viết
không cần viết rõ, người đọc tự tìm lấy. Câu thứ tư có chữ chinh (lên đường ra
trận), câu thứ tám có chữ ban (thường có nghĩa là từ mặt trận trở về), hai chữ
cũng liên hệ. Bốn chục chữ trong bài thơ, nếu muốn diễn tả ra văn xuôi chắc phải
dùng hàng trăm chữ. Mà nói rõ ràng bằng vài trăm chữ thì lại làm cho độc giả bớt
hứng thú, vì trí tưởng tượng của độc giả bị giới hạn, mất tự do. Đám mây nổi sẽ
bớt trôi nổi, ánh nắng tà sẽ bớt quạnh hiu, khi được diễn tả rõ ràng quá.
Chúng ta có thể so sánh bài thơ Lý Bạch với bài dịch của Tản
Đà:
Chạy dài cõi Bắc non xanh
Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau
Nước non này chỗ đưa nhau
Một xa muôn dậm biết đâu cánh bồng
Chia phôi khác cả mối lòng
Người đi mây nổi, kẻ trông bóng tà
Vẫy tay, thôi đã rời xa
Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.
Bản dịch này cũng là một tuyệt tác. Thiên tài của Tản Đà,
chúng ta không cần bàn. Nhưng vì Tản Đà phải cố gắng theo sát ý của Lý Bạch,
nên các câu thơ của ông nói nhiều hơn, rõ rệt hơn, hơi nhiều quá so với thơ Lý
Bạch. Thí dụ câu thứ tư (cô bồng vạn lý chinh), Tản Đà đã thêm ý “một
xa” lấy ở câu 3, và “biết đâu.” Hai chữ “biết đâu” nghe như là chú thích cho
câu thơ, cốt làm cho ý thơ mang mang. Phải thêm hai chữ đó để tạo ra tình ý
mang mang, thì sao bằng chỉ nghe năm tiếng trong nguyên văn mà cũng vẫn mang
mang.
Câu 5 và 6 lại thêm các chú thích khác. Lý Bạch chỉ nói đến
“ý du tử mây nổi, tình cố nhân bóng tà,” Tản Đà nói cho rõ hơn rằng họ chia tay
mà tình ý cũng khác nhau. Nói thế hơi nhiều quá. Rồi đến câu thứ tám, Lý bạch
chỉ nói đến tiếng nhạc ngựa, Tản Đà nói rõ hơn: vì nhớ nhau nên nghe tiếng nhạc
ngựa buồn. Cũng hơi thừa.
Các nhận xét trên không phải để chê Tản Đà. Thiên tài của Tản
Đà, nhất là tài dịch thơ Đường, phải bái phục. Tôi đã đọc mấy bản dịch bài thơ
trên mà thấy tất cả chưa ai chạm được tới mắt cá chân của Tản Đà.
Những phân tích trên đây chỉ cốt để so sánh hai lối diễn tả:
một lối nói rất gọn, rất ít, mà gợi ra rất nhiều (nguyên tác), và lối viết dài
hơn, nói rõ ràng hơn, cho nên khép ý tứ của bài thơ vào khuôn khổ bình thường.
Khi dịch thơ chúng ta thế nào cũng vô tình giải thích thêm
cho câu thơ. Những chữ “biết đâu,” “khác cả mối lòng,” “thôi đã,” “nhớ nhau” đều
dùng để giải thích các hình ảnh trong thơ Lý Bạch. Mà giải thích có nghĩa là muốn
“giúp” người đọc hiểu theo một chiều hướng như người dịch đã hiểu.
Chạy vào mộng mị
Thử nghe một bài thơ của Trần Đức Uyển, ngắn hơn và có vẻ
“mơ hồ” hơn bài của Lý Bạch:
Có một bông hoa
Trượt chân xuống suối
Dòng nước xoáy sâu
Ôi nàng chết đuối!
Bài thơ không nói rõ: có một cô gái trượt chân xuống suối, hay
chỉ có một bông hoa rụng, từ cành rớt xuống, rồi lăn theo bờ rơi xuống suối?
Chúng ta thấy một bông hoa rụng, rồi nhân đó nghĩ đến một cô gái đã chết đuối?
Hay thực ra không có cô gái nào cả, thấy bông hoa rụng và thương tiếc bông hoa,
gọi hoa là nàng? Hay là ngay từ đầu đã có một cô gái đẹp mà tác giả gọi là bông
hoa, vì chữ trượt chân là chữ dùng cho người, chứ bông hoa không có chân. Tất cả
những câu hỏi đó cho thấy bài thơ không mang một ý nghĩa chính xác. Tác giả có
ý định viết không chính xác chăng? Hay là cảm xúc của ông tự nhiên như thế? Mà
tại sao phải có một ý nghĩa chính xác? Cứ để các câu hỏi hoang mang đó quay đảo
trên không. Cứ để cho bài thơ mơ hồ hốt hoảng, nó làm cho tứ thơ càng bất định
càng giàu có hơn lên.
Chúng ta sửa bài thơ theo hai cách khác, bài đầu nói về một
cô gái và bài kia nói về bông hoa, rồi thử đọc coi:
1. Gái đẹp như hoa
Trượt chân xuống suối
Dòng nước xoáy sâu
Ôi nàng chết đuối
2. Có một bông hoa
Trượt chân xuống suối
Dòng nước xoáy sâu
Hoa chìm đắm đuối
Viết theo hai cách đó làm cho bốn câu có ý nghĩa chính xác rõ ràng hơn. Nhưng
nghèo hơn nhiều, hết còn là thơ luôn.
Tất nhiên thi sĩ không cố ý chỉ dùng các xảo thuật như trên
để đẩy độc giả vào cõi hoang mang. Thi sĩ có thể nói những điều giản dị, thẳng
băng mà vẫn dẫn dụ chúng ta đến những tình tứ mang mang, ở đằng sau ngôn ngữ,
hình ảnh.
Xuân Diệu viết về tình yêu như vầy:
Đôi ta dừng. Em đi vào lối cỏ
Anh nhìn theo dáng nhỏ bước xa dần
Anh thuộc tay em, anh thuộc bàn chân
Em như từ trong anh bước ra đường cái
Anh thuộc mắt em, anh thuộc tóc em
Anh như vỏ mà em là ruột quả
Ôi một trái luôn chia làm hai nửa
Mỗi lúc em về rồi lại ra đi
(Hai đoạn đầu trong bài “Biết Tạc Đâu ra Em của Anh,” Thanh
Ca, 1980).
Những câu thơ đơn giản, ý tứ đơn giản, như lối làm thơ trước
thời thơ tượng trưng, trước cả “thơ tiền chiến.” Tác giả muốn diễn tả một ý
quen thuộc: em là anh, em từ anh mà ra, vì yêu nên có người yêu, có chủ thể nên
mới có đối tượng. Các hình ảnh và cảm tưởng: anh thuộc (thuộc lòng) các nét của
em: tay, chân, mắt, tóc, v.v… Anh là vỏ trái cây, em là ruột trái cây v.v… là
các ý kiến rất đặc biệt. Ở đây ta thấy thiện chí của một thi sĩ cố ý làm thơ lạ,
gắng sức làm vui lòng độc giả đang yêu đương. Đoạn thứ năm, sáu, Xuân Diệu làm
cho lạ thêm:
Anh lấy thịt xương đâu chứa đầy mộng ước
Anh lấy gì biến hóa để thành em?
Anh bóp vụn ngày, anh xé nát đêm
Anh vá víu những người trên trái đất
Người ta có thể vô cùng xinh đẹp
Có thể thông minh, có thể rạng ngời
Có thể yêu anh đi nữa – em ơi!
Anh không thể kiếm tìm em đâu cả
Viết thơ về tình yêu như vậy phải nói là rất có thiện chí muốn
làm mới tình yêu, tình yêu duy nhất, không ai yêu đến thế! Bóp vụn ngày, xé nát
đêm, thịt xương nào để chứa mộng ước, vá víu các người xinh đẹp, thông minh, rạng
ngời lại, mà vẫn không thể tìm ra ai thay thế được em.
Xuân Diệu từng nói về thơ của mình rằng: “Đặc sản của tôi là
thơ tình. Đã làm thơ tình là làm thơ tình nguyên chất.” Trong bài này ông muốn
diễn tả một thứ “tình yêu nguyên chất,” nghĩa là không bị lập trường chính trị
và xã hội can thiệp vào.
Nhưng bài thơ 7 đoạn của Xuân Diệu không làm cho tôi hứng
thú bằng bài thơ về tình yêu của Tô Thùy Yên chỉ có bốn câu:
Hai đứa kéo nhau chạy vào mộng mị
Giờ tắt thở nằm trên bãi hư vô
Bầy ngựa chứng hàng thùy dương vó bão
Biển đưa trăng lăn vào đá tiếng ru
Bài thơ bốn câu rất ít lời nhưng đưa ta tới những tình tứ
phong phú hơn. Xuân Diệu viết theo lối phân trần, rõ rệt từng ý, ý nọ liên hệ với
ý kia. Khi Xuân Diệu dùng hình ảnh lạ, ông tỏ ra có cố gắng làm cho nó lạ. Còn
thơ Tô Thùy Yên nổi lên như cơn gió đang chuyển thành bão động. Bài thơ Xuân Diệu
có thể “dịch ra văn xuôi” cũng không mất mát bao nhiêu, vì câu cú, ý tưởng rất
phân minh, có ý kiến nào để lồ lộ cả ra. Còn bốn câu của Tô Thùy Yên thì không
thể “dịch ra văn xuôi” được. Dịch ra là hỏng hết. Theo lối thử thách, “thơ
không thể ‘dịch’ ra cùng một ngôn ngữ được,” thì bài thơ Tô Thùy Yên có chất
thơ hơn nhiều.
Bài thơ nhan đề là Tình Yêu nhưng mở đầu bằng mộng mị và cái
chết. Cái chết và Tình yêu liên hệ thế nào? Yêu và mộng mị có là một không? Cái
chết được diễn tả bằng văn ảnh “tắt thở nằm trên bãi hư vô” có còn là cái chết
chăng, hay chỉ là một giấc mộng? Hình ảnh “chạy vào mộng mị” dẫn tới “trên bãi
hư vô.” Yêu là một hành động đưa ta đến cõi chết, hay dẫn ta vào sự hóa sinh để
nối dài sự sống sau cái chết?
Hình ảnh ngựa chạy hiện lên, vì ngựa chứng, và cẳng chân người
chạy vào mộng mị, hai hình ảnh nối với nhau. Ngựa chứng là ngựa chưa thuần
hóa, ở trạng thái hoang dã. Tình yêu là hoang dã như vậy chăng? Ngựa chạy làm nổi
hình ảnh bờm ngựa tung lên, và lại chợt thấy hàng thùy dương gió bão. Ngựa trên
mặt đất (bãi) và gió bão ở không gian (hư vô), rồi mặt trăng, sóng biển, tất cả
đều mộng mị, hư vô. Hai đứa kéo nhau, và bầy ngựa chứng, và gió bão, tình yêu
mang hình ảnh một chuyển động đam mê mãnh liệt. Vào mộng mị, và biển đưa trăng,
và trăng lăn vào đá, tình yêu cũng là một cảm xúc miên viễn êm dịu. Tiếng ru
làm dịu gió bão ở hàng thùy dương. Trăng lăn vào đá vỡ tan, hay trăng đã bay
lên thinh không, tiếng ru vọng lại, hình ảnh bãi hư vô lại hiện lên.
Bài thơ gợi lên rất nhiều câu hỏi. Câu hỏi nào cũng gợi lên
các hình ảnh, liên tưởng, phong phú hơn là các câu trả lời. Ba mươi hai chữ,
bao nhiêu ý tứ dạt dào. Vì thi sĩ đã đẩy chúng ta vào một thế giới ngôn ngữ mới.
Tiếng nói khích động chúng ta vì đã cởi bỏ các luật tắc chật hẹp của cách nhìn
và lối nói năng máy móc.
Đỗ Quý Toàn
*Nguyên văn bài Tống Hữu Nhân của Lý Bạch
青山橫北郭,
白水遶東城。
此地一為別,
孤蓬萬里征。
浮雲遊子意,
落日故人情。
揮手自茲去,
蕭蕭班馬鳴