Người khuyết tật cần một cơ hội ngang bằng chứ không (chỉ/thể) cần sự bù đắp, vì bù đắp tạo ra gánh nặng lên cả người cho và người nhận. (FB Lương Thế Huy)
Cuối thế kỷ trước, báo Nhân Dân – số ra ngày 7 tháng
8 năm 1999 – đã đăng mẩu tin ngăn ngắn (“Khen Thưởng Hai Em Nhỏ Mười Năm
Cõng Bạn Ðến Trường”) và được nhiều người tán thưởng:
“Em Huỳnh Duy Tài vì bị phế tật nên phải nhờ hai bạn là Bùi Ngọc Nha và Nguyễn Qúi cõng đi học liên tiếp trong vòng muời năm qua. Tại Ðại Hội Cháu Ngoan Bác Hồ, huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam, các em đã nhận được những tràng pháo tay nồng nhiệt nhất.”
Đây không phải là trường hợp “cõng bạn đến trường”
đầu tiên ở VN, theo lời của tác giả Đỗ Ngọc:
“Vào những năm ấy (đầu thập niên 1960, chú thích của
tnt) có một tấm gương được đài, báo ca ngợi rất nhiều. Đấy là một cậu bé ba
năm cõng bạn đi học. Năm ấy, cô giáo lớp tôi đọc những bài viết về tấm gương cậu
bé ấy trên báo Thiếu niên Tiền Phong cho cả lớp chúng tôi nghe nhiều lần. Nghe
đâu cậu ấy còn được gặp bác Hồ, và được tặng danh hiệu ‘Cháu ngoan bác Hồ’ nữa.”
Tuy bác Hồ đã đi xa từ lâu nhưng “danh hiệu cháu
ngoan” và “tấm gương cõng bạn” (dường như) đã trở thành truyền thống
nên đã được tiếp nối, và biểu dương, đều đặn:
Trường hợp mới nhất, vừa được báo Lao Động (số ra ngày 4 tháng 9 năm 2020) chạy tin
trên trang nhất: “ĐÔI BẠN CÕNG NHAU ĐI HỌC SUỐT 10 NĂM ĐƯỢC CHỦ TỊCH
TẶNG BẰNG KHEN.”
Sở Giáo Dục Thanh Hoá cho biết thêm chi tiết:
“Minh và Hiếu cùng sinh ra trên mảnh đất Đồng Thắng – Triệu
Sơn-Thanh Hóa, một vùng quê nghèo, cần cù, lam lũ. Từ khi lọt lòng Minh đã bị
khuyết tật hai chân và cả bàn tay phải. Nhưng đổi lại em có một niềm tin, ý chí
và nghị lực phi thường, một đôi mắt sáng, tự tin và nụ cười thánh thiện.
Vượt qua những mặc cảm về số phận, Minh khao khát được tới
trường, dù không thể đá cầu, nhảy dây, bắn bi mỗi sáng nhưng nhìn bạn bè vui
đùa với em cũng đã là hạnh phúc. Bố mẹ Minh mong muốn đưa em tới trường để em
có thể góp nhặt thêm những niềm vui, bù đắp cho những thiệt thòi của số phận.
Dù họ biết hành trình ấy thực sự rất gian nan…
Và rồi bên Minh có Hiếu. Người bạn thân thiết hơn 10 năm
qua cõng Minh tới trường, làm đôi chân đưa Minh đến lớp, tiếp thêm ngọn lửa để
Minh thực hiện ước mơ. Suốt 10 năm đôi bạn ấy bên nhau, cùng nhau tới trường, về
nhà, kể cho nhau nghe biết bao chuyện vui, buồn trong cuộc sống.
Tới trường cùng Minh, với Hiếu đã trở thành một nếp nghĩ,
một thói quen. Em lặng lẽ làm nhiệm vụ của một thiên sứ mà không hề toan tính,
cũng chẳng phải để được mọi người ngợi khen, mà trước hết bởi lẽ sống làm người,
bởi cảm phục ý chí và nghị lực nơi người bạn của chính mình.
Không chỉ Hiếu tiếp thêm cho Minh động lực tới trường,
không chỉ Minh tiếp thêm cho Hiếu bài học về ý chí và nghị lực mà cả hai em đã
tiếp thêm cho chúng ta thấy giá trị của những tấm lòng, của niềm tin yêu, chia
sẻ.”
Thay vì “chia sẻ,” Đỗ Ngọc lại đặt ra rất nhiều câu hỏi (nghe) hơi
cắc cớ:
“10 năm trời ấy thì người lớn ở đâu? Chính quyền địa phương,
nhà trường nơi hai cháu ở, nào Hội phụ huynh, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…
cùng bao ban, ngành ở đâu trong ngần ấy năm?
Ngần ấy năm, mọi người cùng truyền thông, đứng ngoài cổ xúy
cho tấm gương cõng bạn đi học, vô hình chung họ phó mặc đứa trẻ tật nguyền lên
lưng người bạn với một thái độ vô trách nhiệm, với những lời cổ xúy sáo rỗng, nếu
không muốn nói là giả nhân giả nghĩa. Xã hội đã có một đứa trẻ tật nguyền, có
thể vài năm sau lại thêm một đứa trẻ còng lưng.
Ở Việt nam ta có bao nhiêu người tật nguyền phải trông cậy
vào cánh tay của người thân, tấm lưng của bạn bè? Tôi nghĩ là rất nhiều. Hình ảnh
cõng bạn đi học của hai đứa trẻ là một cái tát vào chính sách an sinh xã hội đối
với người khuyết tật ở ta. Người tàn tật không thể chỉ trông chờ vào sự giúp đỡ
của người thân, sự thương hại, bố thí của cộng đồng, trên hết, họ có
quyền được hưởng một chế độ trợ giúp của một hệ thống an sinh xã hội.”
Nếu tính rốt ráo kể từ lúc một em học sinh (ba năm cõng bạn đến trường) được đích thân bác Hồ trao tặng danh hiệu cháu ngoan, cho đến khi Ngô Văn Hiếu cõng Nguyễn Tất Minh đến “buổi gặp mặt giao lưu HS, SV tiêu biểu toàn quốc năm 2019” thì thời gian là hơn nửa thế kỷ đã qua chứ không chỉ là “mười năm trời ấy.”
Bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mưa, và nước
mắt đã (ào ạt) chẩy qua cầu và qua cống? Bao nhiêu là những ông Tổng
Bí Thư, Bộ Trưởng Giáo Dục, Bộ Trưởng Y Tế, Bộ Trưởng Xã Hội …đã
thay nhau “điều hành” đất nước nhưng tuyệt nhiên không ai – không một ai
– đề cập đến một một đôi nạng gỗ (hay một cái xe lăn) dùng làm
phương tiện để giúp cho những em học sinh khuyết tật có thể đến
trường mà không phải phiền lụy đến tha nhân.
Nhìn hình ảnh qúi ông lãnh đạo VN (Nguyễn Phú
Trọng, Vũ Đức Đam, Phùng Quang Nhạ) đứng lộp độp vỗ tay, bên cạnh
một em học sinh đang lom khom cõng bạn, khiến cho một kẻ vô tâm cũng
phải trạnh lòng nghĩ đến một thứ tư duy (trình diễn) bệnh hoạn và
kiểu “nhân ái phô trương” đang được phổ biến tràn lan sở này. Đây có
lẽ cũng là nơi duy nhất trên trái đất mà những học sinh khuyết tật
không có cách đến trường nào khác, ngoài tấm lưng bè bạn.
Đỗ Ngọc kết luận rằng ở xã hội này hễ có một đứa
trẻ tật nguyền thì vài năm sau lại có thể thêm một đứa trẻ còng lưng. Chính
cái lưng còng và đôi chân dị tật của các em đã tạo ra công việc
(biểu dương) cho giới truyền thông, và công tác (trưng bầy) cho giới
lãnh đạo. Chứ ngoài việc “ăn của dân không từ một thứ gì” thì bọn
này có còn biết chuyện chi khác để làm đâu?
Tưởng Năng Tiến

