ẤM NGHI HƯNG THEO THỜI GIAN
Theo sách Dương Tiện Mính Hồ Lục (Sách về các ấm trà vùng Dương Tiện) của Chu Cao Khởi thì đời Chính Đức, Gia Tĩnh nhà Minh có Cung Xuân tài nghệ tuyệt vời, là người nổi danh đầu tiên về làm ấm tử sa. Cung Xuân vốn là gia đồng của Ngô Sĩ đất Nghi Hưng thường theo hầu Ngô Sĩ đến học tại chùa Kim Sa. Trong chùa có một vị hòa thượng có tài làm đồ sứ nên Cung Xuân theo nhà sư học nghề nặn ra những tác phẩm trông chẳng khác gì đồ kim loại xưa. Khi Cung Xuân nổi danh, ông thường cùng Bộc Trọng Khiêm (đất Gia Định) khắc trúc, Lục Tử Đồng (đất Tô Châu) chạm ngọc, và Khương Thiên Lý khảm xà cừ. Tất cả đều là những người nổi tiếng đời Minh. Cung Xuân nặn ấm không lâu — truyện kể rằng ông bị quan sở tại vì yêu chuộng tài nghệ ông nên bức bách khiến ông phải bỏ xứ mà đi — nên tác phẩm của ông hiện nay lưu truyền rất ít. Sách vở chỉ còn ghi một chiếc ấm của ông hình 6 múi hiện tàng trữ tại Viện Trà Cụ Hongkong nặn năm Chính Đức thứ 8 (1513).
Thế nhưng còn một cái ấm khác cũng của Cung Xuân để tại Singapore thì ít thấy sách vở nào đề cập. Theo bài “Nghi Hưng và Nghiên Mực” (Yi Hsing and Inkstones) trong tạp chí Arts of Asia, số July/August 1971 thì ông C.M. Wong, Bí Thư của Phòng Thương Mại Singapore và là Chủ Tịch Hiệp Hội Hoa Nhân tại đây có trong bộ sưu tập của ông một ấm Cung Xuân hình vỏ cây. Ấm này đề năm 1506, có triện của người nghệ sư. Phần dưới quai cầm lại còn một vết dấu tay điểm vào mà người ta bảo rằng đó là vết ngón tay thứ sáu của Cung Xuân (Bàn tay phải của ông có sáu ngón).
Sau thời Cung Xuân, nghệ thuật làm ấm đất nung vùng Nghi Hưng thịnh đạt, đến đời
Vạn Lịch càng có nhiều danh thủ. Lý Ngư viết là: “Trà không gì bằng dùng ấm bằng
tử sa, mà vùng Dương Tiện là hạng nhất”. Từ đời Minh trở đi, việc dùng ấm tử sa
để uống trà trở nên thông dụng. Người ta để ý đến phẩm chất trà đã đành mà còn
kén chọn cả cách pha trà, nước nào pha trà ngon, uống lúc nào mới hợp.
Trước kia, ấm trà bằng sứ là quí nhất nhưng khi ấm tử sa ra đời thì không mấy
ai còn chuộng ấm sứ nữa. Cổ nhân tổng kết ấm tử sa có bảy ưu điểm:
Chế nước sôi vào không làm trà mất hương vị, sắc hương còn nguyên
Bình trà dùng lâu, chế nước không cũng ra mùi trà
Trà vị không bị biến chất
Chịu nóng cao, mùa đông tháng giá đổ nước sôi vào không bị nứt
Ít truyền nhiệt, cầm vào không phỏng tay
Dùng càng lâu càng lên nước, bóng lộn
Có nhiều màu khác nhau, dễ lựa chọn
Vì ấm tử sa là một tác phẩm nghệ thuật nên trông ấm người ta có thể đánh giá được
người nặn vào bậc nào. Thành ra, trong những nghệ nhân nghề sành sứ, thì ngành
làm ấm để tên lại nhiều nhất. Sau đời Cung Xuân người ta thấy có Thời Bằng, Đổng
Hàn, Triệu Lương, Nguyên Sướng và Lý Mậu Lâm là những thợ nổi danh.
Đời Vạn Lịch, Thời Đại Bân, con của Thời Bằng là người nổi tiếng hơn cả. Văn Chấn
Hanh viết trong “Trường Vật Chí” là “ấm trà tử sa là loại tốt nhất, nắp vừa vặn
không làm mất hương, lại không bốc hơi. Ấm do Cung Xuân chế tạo quí nhất, đều
nhỏ nhắn, hình dáng lạ lùng. Thời Đại Bân chế thì có cái to, cái nhỏ …”. Cùng nổi
danh với Đại Bân có Lý (Đại) Trọng Phương, Từ (Đại) Hữu Tuyền, người ta gọi là
Tam Đại.
Từ Hữu Tuyền tự Sĩ Hoành, là học trò của Thời Đại Bân, có tài bắt chước các loại
đồng khí xưa làm ấm hình tàu lá chuối, đài sen, củ ấu, quả trứng…
Nổi tiếng thời Vạn Lịch còn có Âu Chính Xuân, Thiệu Văn Kim,
Thiệu Văn Ngân, Tưởng Bá Cung, Trần Dụng Khanh, Trần Tín Khanh, Mân Lỗ Sinh, Trần
Quang Phủ, Thiệu Cái, Thiệu Nhị Tôn, Chu Hậu Khê…
Thời Vạn Lịch, ngoài việc nặn ấm, các nghệ nhân còn dùng đất tử sa điêu khắc và
các chế tạo vật phẩm khác, rất thịnh hành. Người nổi tiếng nhất là Trần Trọng Mỹ
ở Vụ Nguyên, An Huy. Họ Trần trước vốn ở Cảnh Đức Trần làm đồ sứ. Sau đến Nghi
Hưng kết hợp nghệ thuật đồ gốm với nặn ấm, tạo ra các loại đỉnh hương, bình
hoa, cục chặn giấy .. rất xinh xắn. Người nổi danh đồng với Trần Trọng Mỹ thì
có Trẩm Quân Dụng, tự Sĩ Lương.
Sau đời Vạn Lịch có Trần Tuấn Khanh, Chu Quí Sơn, Trần Hòa Chi, Trần Đình Sinh,
Thừa Vân Tòng, Trẩm Quân Thịnh, Trần Chấn, Từ Lệnh Âm, Hạng Bất Tổn, Trẩm Tử
Triệt, Trần Tử Huề, Từ Thứ Kinh, Huệ Mạnh Thần, Tiết Hiên, Trịnh Tử Hầu …
Trên đây là những nghệ nhân nổi tiếng khéo đời Minh. Về sau, người ta mô phỏng
rất nhiều những kiểu họ đã chế tạo nên những ấm nào thực sự đời Minh, cái nào đời
sau khó ai biết được. Đồ tử sa lại không đề niên đại như đồ gốm nên càng khó
phân biệt chân giả.
Sang đến đời Thanh, nghệ thuật làm ấm còn thịnh đạt hơn nữa. Triều đình nhà
Thanh chuộng đồ tử sa nên càng coi trọng. Văn khố nhà Thanh còn ghi lượng hàng
mỗi năm tiến cống vào cung. Phẩm chất cũng thêm tinh vi, xảo diệu. Ngoài ấm đất,
ngưòi ta còn nặn bồn trồng cây cảnh, bình hoa, và dụng cụ dùng trong nhà. Màu sắc
pha chế cũng phong phú hơn.
Nghệ nhân nổi tiếng đời Thanh rất nhiều. Người xuất sắc nhất là Trần Minh Viễn,
hiệu Hạc Phong, lại có tên là Hồ Ân, chế ra hàng chục thứ ấm trà, đồ dùng khác
nhau, không cái nào giống cái nào, quả là bậc thầy trong nghề. Những tác phẩm
mà Trần Minh Viễn còn để lại hết sức tinh xảo, lại đầy sáng tạo. Cái thì hình một
gốc mai già, cái thì hình bó củi, trông như một nghệ phẩm điêu khắc tả chân hơn
là một trà cụ. Ông còn nặn những trái cây tầm thường như hạt dẻ, củ đậu phộng …
trông hết sức tinh xảo, thoạt trông không ai bảo là một vật bằng sành.
Sách Trùng San Kinh Khê Huyện Chí, viết năm thứ hai đời Gia Khánh, (Thanh) dùng
bốn chữ “vạn gia yên hỏa” (nhà nhà đều khói lửa) để chỉ khung cảnh sinh hoạt bấy
giờ. Đời Ung Chính, Càn Long thì có Trần Hán Văn, Dương Quí Sơ, Trương Hoài
Nhân. Chế tạo đồ dùng trong cung vua thì có Vương Nam Lâm, Dương Kế Nguyên,
Dương Hữu Lan, Thiệu Cơ Tổ, Thiệu Đức Hinh, Thiệu Ngọc Đình nhưng thiên về ấm
có trang trí, màu sắc. Những chuyên gia cho rằng kết hợp hai kỹ thuật của Cảnh
Đức Trấn (nơi chế tạo đồ sứ tráng men) với Nghi Hưng đã làm giảm đi phong vị của
ấm tử sa, bản chất vốn giản phác, gần thiên nhiên. Cầu kỳ hóa một nghệ thuật vốn
dĩ đạm bạc đã khiến cho nghệ thuật nặn ấm đổi hẳn sắc thái, mất đi tính nguyên ủy
của nó.
Sang đời Gia Khánh, những người tên tuổi có Huệ Dật Công, Phạm
Chương Ân, Phan Đại Hòa, Cát Tử Hậu, Ngô Nguyệt Đình, Hoa Phượng Tường, Trinh
Tường, Quân Đức, Ngô A Côn, Hứa Long Văn…
Thời Đạo Quang có Dương Bành Niên và em gái là Dương Phượng
Niên cùng với Trần Hồng Thọ, Thiệu Đại Hanh là những danh gia. Trần Hồng Thọ hiệu
là Mạn Sinh, đời Gia Khánh làm huyện tể đất Lật Dương. Ông là người giỏi viết
chữ, vẽ tranh, khắc triện lại thích sưu tầm ấm tử sa. Nhiều ấm do Dương Bành
Niên và nhà họ Dương chế tạo ra, đợi cho hơi khô, Trần Hồng Thọ dùng dao tre khắc,
vẽ, viết chữ, đề thơ lên rồi mới đem nung. Việc kết hợp hai tài danh, một nặn ấm,
một thư họa là sáng tác mới của thời đó. Ấm thường có đề “A Mạn Đà Thất” (là
tên thư trai của họ Trần) hay dưới đáy có khắc “Bành Niên”. Đời sau gọi là ấm Mạn
Sinh (Mạn Sinh hồ).
Theo chân Trần Hồng Thọ, nhiều danh sĩ khác như Kiều Trọng Hỉ, Ngô Đại Trừng
cũng đứng ra chỉ đạo việc nặn ấm. Từ đó, một kỹ xảo vốn chỉ được coi như nghề mọn
nay đã lan sang cả giới nho gia. Tuy không được phổ biến như thư họa nhưng cũng
không còn là một tiện nghệ như trước nữa.
Một danh sĩ vốn giỏi về vẽ trúc là Cù Tử Trị lại đem việc khắc trúc, họa trúc
vào trang trí trên ấm. Họ Cù không những mang thư pháp mà còn khắc hẳn những
cành trúc, cành mai nghĩa là coi chiếc ấm như một tờ giấy hay vuông vải để thi
thố tài hàn mặc.
Còn Thiệu Đại Hanh thì là một nghệ nhân nổi tiếng không kém gì Dương Bành Niên.
Trong khi Dương nổi danh về tinh xảo thì Thiệu có tiếng về giản phác. Ông không
cầu kỳ nhưng cũng có nhiều sáng kiến độc đáo. Chính kiểu nắp ấm đầu rồng, khi
rót thì lè lưỡi ra là do ông khởi thủy, tới nay vẫn còn nhiều người bắt chước
và khá phổ biến trên thị trường.
Cuối đời Thanh, Chu Kiên lại có sáng kiến dùng thiếc và ngọc
để bịt hay khảm vào ấm tử sa. Nhiều thân ấm được bịt thiếc và viết chữ rồi dùng
ngọc trạm thành quai, thành vòi ráp vào. Thế kỷ thứ 19 nhiều người còn bịt đồng
hay thau nhưng nói chung những kiểu này không được chuộng lắm.
Vào thời điểm này, việc thương mại giữa Trung Hoa và nước
ngoài đã phát triển. Nhiều cường quốc đã chiếm những lãnh địa ở duyên hải hay
cưỡng ép nhà Thanh nhường làm tô giới và Thanh đình đã phải mở cửa cho họ vào
buôn bán. Trà Tàu trở thành một nông phẩm xuất cảng quan trọng và ấm Tàu cũng
được sản xuất qui mô để bán ra ngoài. Nhiều công ty thành lập tại Thượng Hải,
Nghi Hưng, Thiên Tân, Hàng Châu đại lý bán ấm Nghi Hưng. Những kiểu ấm thời đó
cũng vẫn theo mô dạng cũ. Một công ty ở Thượng Hải là Thiết Họa Hiên đến nay vẫn
còn. Thiết Họa Hiên nổi tiếng vì chữ viết trên ấm rất đẹp. Những nghệ nhân nổi
tiếng của họ gồm có Tưởng Yến Hanh, Trần Quang Minh, Phạm Đại Sinh, Vương Diễn
Xuân, Trình Thọ Trân. Những ấm xuất cảng thường có cả con dấu của nghệ nhân lẫn
con dấu của hãng. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có hai hãng khác là Chân Ký và
Ngô Đức Thịnh cũng phát đạt.
Thời Dân Quốc ấm Nghi Hưng được xuất cảng rất nhiều sang Nhật
Bản, Đông Nam Á, Âu Châu và Mỹ Châu. Thời đó cũng có nhiều thợ khéo nhưng kiểu
thường giản dị, cân đối chứ không cầu kỳ như thời trước. Có lẽ vì nhu cầu
thương mại và thị hiếu đã thay đổi. Đến thời loạn lạc thập niên 1930, 1940 việc
sản xuất ấm phải đình trệ. Sau khi Trung Cộng nắm quyền, việc sản xuất được qui
tụ thành công xã nhưng không phát triển được. Thời Cách Mạng Văn Hóa lại một lần
nữa kỹ nghệ này bị vùi dập. Trong chế độ Cộng Sản, uống trà bị coi là một tàn
tích tư sản, bóc lột, phi sản xuất nên bị bài xích. Việc làm ấm vì thế cũng bị
triệt hạ. Sau khi Đặng Tiểu Bình thi hành chính sách cải tổ, Trung Cộng phục hồi
ngành nặn ấm tử sa. Năm 1979, xí nghiệp Nghi Hưng Tử Sa đã sử dụng đến 600 nhân
công. Hiện nay, một số thợ chuyên môn trẻ và tương đối có trình độ đã khôi phục
lại được công nghiệp này, nhất là càng ngày càng có nhiều người ưa chuộng và
sưu tập.
(Mục Ấm Nghi Hưng Theo Thời Gian tác giả trích đoạn từ bài viết: Trà
Tàu Và Ấm Nghi Hưng – của Nguyễn Duy Chính)
.
CÁCH CHỌN, SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA
.
CÁCH CHỌN ẤM TỬ SA
Một cái ấm quý phải hội đủ mấy điều kiện:
– Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau, lúc đặt sấp xuống bàn không chênh
vênh; đổ nước sôi vào phải nóng ngay mà quai ấm cầm vẫn không bỏng; nắp ấm phải
khít khao với miệng ấm, nắp ấm có một lỗ nhỏ mà nước không được trào ra ở lỗ ấy.
(Hình ấm trà:Miệng, vòi và quai ấm phải ngang nhau)
– Lúc cầm lên pha vào chén, nước từ ấm ra phải chảy thành một
đường như đường chỉ, không được vung vãi. Lúc ngừng tay, nước không trào ra
ngoài giọt nào.
– Đặt ấm vào tai, nghe vi vu như tiếng sóng. Đất phải thật nhẹ và mịn nhuyễn. Đất
màu tím là hạng nhất gọi là Tử Sa, Thiết Sa, Chu Sa hạng nhì, sau đó còn hoàng
sa, bạch sa, lam sa, đều có thể dùng làm ấm trà nhưng ở các hạng sau.
– Da ấm cần phải mỏng, láng, gõ vào kêu tiếng thanh, ấm dùng lâu, bao giờ cũng
có cốt trà đóng bên trong, để cho giữ hương vị trà. Không ai mang ấm trà ra mà
kỳ cọ bao giờ, đó là điểm tối kỵ trong nghệ thuật uống trà.
.
Tiêu chuẩn kinh điển chọn mua ấm Tử sa
Thả ấm vào chậu nước nổi bồng bềnh, không nghiêng lệch; nhận
chìm xuống rồi buông tay, ấm sẽ nổi trồi lên mặt nước mà không bung nắp hay bị
lật chìm; hoặc bịt ngón tay vào lỗ thông hơi trên núm nắp ấm thì rót nước không
chảy; dùng nắp ấm gõ nhẹ vào quai phát ra âm thanh như tiếng sắt, tiếng đồng…
1. Nhìn bằng mắt: Hình dáng thanh thoát, ưa nhìn.Các bộ phận như
:thân ấm, nắp, miệng, vòi, quai, đáy phải cân đối, liền lạc. Màu sắc đồng đều
trong ngoài. Dấu triện của nghệ nhân hay nhà sản xuất nét chữ sắc sảo, đặt cân
đối ở trung tâm đáy ấm, theo trục thẳng từ quai sang vòi ấm. Những chiếc ấm đắt
tiền thường có thêm dấu triện phụ dưới nắp và quai cầm thật rõ nét. Vòi ấm có
thể dài ngắn khác nhau, nhưng quan trọng là khi rót, nước chảy thông, đều và thẳng
dòng, không rơi vãi hay đọng giọt nhểu ra ngoài.
2. Nghe bằng tai: Đặt ấm lên lòng bàn tay, tay kia cầm nắp ấm khẽ
gõ vào quai, tiếng kêu đanh; chắc như kim loại chạm vào nhau.
3. Cảm nhận bằng tay: Trơn láng, mịn màng, không tì vết. Nắp và
miệng ấm khít khao, vì ấm Tử sa được nung trong lò liên tục 23 tiếng đồng hồ ở
nhiệt độ từ 1.190 – 1.270 độ C (trung bình 1.200 độ C), đòi hỏi tay nghề nghệ
nhân phải cao, chất đất phải thật tốt và mịn mới không bị co giãn khi nung. Do
tính bào mòn trong quá trình sử dụng, một chiếc ấm dùng càng lâu càng lên nước,
không đổi màu, đó mới chính là đặc trưng ưu việt của ấm Tử sa, chứ màu sắc đất
không liên quan gì đến chất lượng và công dụng.
4. Nắp ấm phải kín, thử bằng cách đổ ¾ nước vào ấm rồi đậy nắp lại
(tay ghì giữ nắp ấm cho chặt) và nghiêng vòi nếu nước không chảy ra thì nắp ấm
kín.
– Vỏ ấm phải cứng, cầm ấm lên dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ấm
nghe boong boong càng trong càng quý.Vỏ càng cứng càng ít thẩm thấu và nắp càng
kín càng ít thoát hơi nước, có như vậy trà mới ấm lâu và ít bay thoát hương vị.
Trong truyện “Những cái ấm đất” Nguyễn Tuân có đề ra tiêu
chuẩn lựa ấm:
“Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn lên. Cứ
xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì biết. Nếu
muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân nhau
không triềng, thế là đích ấm tàu.” (Những chiếc ấm đất – Nguyễn Tuân).
.
SỬ DỤNG VÀ BẢO DƯỠNG ẤM TỬ SA
.
Những chiếc ấm trải qua thời gian dài sử dụng và bảo dưỡng sẽ
trở nên sáng ngời, tròn trịa, dày nặng, rắn chắc và tinh khiết. Nói chung, giá
trị của nó chỉ có tăng chứ không giảm.
Có người mua ấm mới về không đem ra dùng ngay, họ dùng giấy nhám loại nhuyễn thấm
nước chà trong ngoài cho hết bụi đất lò nung gốm bám dính vào, rồi rửa sạch.
Sau đó cho ấm vào một nồi nước đun sôi suốt mấy tiếng đồng hồ. Có người đun sôi
ấm như thế trong một nồi bã trà lớn nhiều giờ hay nhiều ngày đêm, để ấm có thể
hấp thu chất trà vào các lỗ thông khí (khí khổng), loại bỏ mùi của đất, hương vị
trà không bị át mất. Ngày nay, trên thị trường đã có bán loại máy chuyên dùng bảo
dưỡng ấm, bằng cách phun nước trà liên tục suốt một ngày đêm để tôi những chiếc
ấm mới.
Những tay cự phách trong làng trà thường không thích ấm mới, vì còn hôi mùi đất;
ấm càng cũ càng tốt vì trong lòng ấm có gợn lớp bợn trà, mới cho ra nước trà
ngon. Vì điều này, các người sành trà ít dùng chất tẩy rữa bên trong ấm
trà, chỉ tráng qua nước nóng sau khi dùng, rồi úp để ráo.
.
ẤM TRÀ THỜI TRỊNH NGUYỄN
.
Sẵn bàn về các ấm trà, tôi xin ghi ra đây trích đoạn
bài viết “Bộ ấm cũ” của Phí Ngọc Hùng để các bạn hiểu thêm sự
trân trọng ấm trà cuả người xưa:
.
“Theo điển tích thì tất cả những bộ ấm trà của các cụ từ thời Trịnh Nguyễn
được gọi chung là đồ “ký kiểu”, hiểu theo nghĩa là vẽ kiểu trước và ký là dấu ấn
hay một bài thơ ngắn. Khởi đầu từ chúa Trịnh Sâm, người được coi là trà sư của
nghệ thuật uống trà, tự nhận mình là “trà nô”, với chén bạch định hay bạch trản
ký hiệu “Nội Phủ”. Sau đó, cụ Nguyễn Du mang về cho vua Gia Long bộ ấm “Giáp Tý
1804”, riêng cụ có bộ Mai Hạc với hai câu thơ “Nghêu ngao vui thú yên hà, mai
là bạn cũ hạc là người quen”. Tiếp đến vua Minh Mạng có bộ “Chữ Nhất”, vua Thiệu
Trị với bộ “Mãn Hoa Tùng Đình” và vua Tự Đức cùng bộ “Ngọan Hảo”. Các bộ ấm đặt
làm cho các quan, với “chữ đề” gọi là “chấm”. Quan võ thích chấm “Tam Cố thảo
lư”, hoặc “Tây Sương ký”. Quan văn ưa “Trúc lâm thất hiền” hay “Đạp tuyết tầm
mai” này nọ…
Từ các bộ ấm của các quan, sau rơi rớt lại trong dân gian qua cụ Tú, cụ Cử,
cụ Nghè…Các cụ xem bộ ấm trà như vật gia bảo để đi vào giai thoại: Như cụ cử
Lưu làng Nguyệt Ánh, tỉnh Hà Đông, cụ có bộ ấm trà “Bạch định” để không thì trắng
cả trong lẫn ngoài, nhưng nếu rót trà vào ấm thì hiện lên một bức họa “Thanh
sơn bạch vân” thêm bốn câu thơ nhỏ li ty, mỗi câu ở mỗi chén. Năm 1922, cụ cử
Nguyễn Kỳ tri huyện Thanh Trì, muốn xem bộ ấm chén đó phải nhờ cụ đồ Thục tiến
dẫn và được hương hào, lý trưởng làng Nguyệt Ánh xuất tuần phu, trống rong cờ mở,
hương án bái vọng như thiên tử tuần du. Tháng sau, cụ cử Lưu lại khăn gói qủa
mướp như trẩy hội qua làng Hoàng Mai để đáp lễ và cũng để thưởng ngoạn bộ chén
trà văn kỳ thanh, bất tướng kỳ hình có cái tên “Kim tiên kỳ ngoạn” còn được gọi
là bộ “Long linh” từ đời Minh Vĩnh Lạc, khi soi dưới ánh sáng mặt trời thấy “lưỡng
long tranh châu”, nét như sợi chỉ và phủ ngoài một lớp men nên nhìn sơ qua chỉ
thấy mầu trắng không. Khi nào rót trà, nhìn vào lòng chén, sẽ thấy hai con rồng
cử động và ngo ngoe như thật” -(Bộ ấm cũ – Phí Ngoc Hùng)
.
CÁC LOẠI CHÉN UỐNG TRÀ
.
1. Chén tống
.
Chén tống xưa gọi là tướng, sau đổi gọi là tống. Chén tống rất
quan trọng, như một vị tướng chỉ huy ba đội quân, nó vừa để tống, vừa để nghênh
đón những giọt trà mà người xưa gọi là “Dịch thể ngạnh ngọc bào”.
Chén tống có hai loại: Hoặc là trên dưới bằng nhau, hoặc là miệng hơi loe ra
cho khỏi vung vãi đổ ra ngoài phí trà. Chén tống dùng làm giảm bớt độ
nóng của nước trà, kẻo uống phỏng môi, bỏng họng. Nó là loại chén
chuyên, dùng để chuyển trà từ ấm trà qua những chén quân, rồi uống; vì
nước từ ấm trà ra bao giờ cũng phải dùng thứ nước thật sôi, rắt nóng. Nước
chưa đủ độ sôi thì trà sẽ không chìm và không toát ra hết tất cả hương vị của
từng lá trà, trong ấm trà.
.
2. Chén quân
.
Tại sao phải là ba chén quân? Vì người xưa, người Trung Hoa hay có câu “Tam
quân đương nhất chiến”, phải ba đạo quân mới giữ vững được một trận tuyến, và
người xưa lại còn nói thêm một câu khác nữa là: “Quân chi tam đội, thành nhất
chiến chi công”.
Ngay những lúc độc ẩm cũng phải cần tam quân để cho trà vừa nguội, uống hết
chén nầy lại uống chén nữa, sau đó mới pha lần khác. Có người để sẵn trong chén
tống, pha riêng khi độc ẩm, nhưng nghi thức vẫn đòi hỏi tam quân. Con số ba là
số dương – “dương số”, con số vừa vặn, vì nếu 5 thì lại quá nhiều – Theo
Dịch học, số lẻ là số dương, số chẳng là số âm; người xưa ít thích
số âm, chỉ thích số dương.
Theo ông Vương Hồng Sển thì miền Bắc dùng một chén tống và bốn chén quân; miền
Trung trở vào Nam dùng một chén tống với ba chén quân nên mới có thành ngữ “nhất
tống tam quân”.
Bộ chén trà lại chia làm bốn loại để dành dùng cho từng mùa: Xuân ẩm, hạ ẩm,
thu ẩm và đông ẩm. Hình dạng bốn bộ chén này cỡ vừa (không lớn không nhỏ, không
dày không mỏng) vào xuân thu gọi là kiểu xuân ẩm và thu ẩm; nhưng kiểu Hạ ẩm
dùng cho mùa Hạ chén nhỏ thành mỏng giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông ẩm thì
chén trà dày và lòng chén sâu giữ cho trà lâu nguội.
Chén uống trà mà chúng ta gọi là tam quân ở đoạn trên, cũng
rất quan trọng, người ta phải chọn chén, men chén phải mầu gì để hợp với sắc
trà, hoặc làm tăng thêm sắc lóng lánh của trà, trái lại có những màu men làm giảm
sắc trà, tức là giảm hứng thú.
Dưới đời nhà Đường, ở phương nam người ta chế được nước men xanh (thanh từ) và ở
phương bắc, nước men trắng (bạch từ). Lục Vũ cho màu xanh là màu lý tưởng của
chén đựng trà, vì nó tăng thêm màu lục cho nước trà, còn màu trắng thì làm cho
nước trà có vẻ hồng hồng kém ngon. Đó là vì ông dùng trà bánh, về sau, khi các
tay Trà sư đời Tống dùng trà bột, họ ưa những chiếc bát nặng màu thanh mặc tức
xanh đen và màu âm hạt tức nâu sẫm. Người đời Minh uống trà ngâm lại thích dùng
những chiếc chén nhẹ men trắng.
Việt Nam ta có loại chén gọi là chén hạt mít, vì có những màu men tựa màu
vỏ hạt mít và chén cũng khá nhỏ.
.
3. Các loại chén trà quý
.
– Người xưa có câu “ấm đất Nghi Hưng, chén sứ Cảnh Đức”; nói
chén uống trà phải nói đến Cảnh Đức Trấn. Trấn này nguyên trước chỉ là một vùng
đất thôn dã mang tên Xương Nam, đến niên Cảnh Đức (1004 – 1007) thời vua Tống
Thần Tông (960 – 1279), chọn nơi này làm xưởng sản xuất đồ gốm dành cho vua và
triều đình dùng (gọi là Ngự Diêu) nên đổi tên thành Cảnh Đức Trấn. Nếu Nghi
Hưng có loại đất sét đỏ gọi là tử sa làm ra loại ấm đất lừng danh, thì Cảnh Đừc
có loại đất sét trằng gọi là cao lanh làm ra loại chén sứ có tên tuổi không kém
phần lừng lẫy. Sứ Cảnh Đức đặc sắc ở điểm có lớp men ngọc nhiều màu và men ngọc
bích (celadon), men chén mỏng và nhẹ, tiếng gõ vang trong và ngân rất dài. Với
đặc điểm này làm chén dùng trà khiến trà trở nên tươi ngon hơn.
– Việt Nam từ đời Lý-Trần đã làm ra những sản phẩm sứ dùng
trà rồi. Dĩ nhiên vào thời nhà Lý chén trà vẫn còn hơi nặng, dù đã tạo ra men
ngọc nhưng men chưa được mỏng, tiếng gõ chưa trong và ngân như chén của người
Trung Hoa.
Thư tịch Nhật có ghi thiền sư Raku Zengoro, người phò lãnh chúa Ashikara
mang về cho thiền viện Kasuga trà cụ – chén trà có dáng bát trà đời Lý, Trần
được gọi là An Nam Yaki của làng Chu Đậu, vì rằng người Việt uống chè xanh, chè
vối bằng bát nên ảnh hưởng đến chén tống temmonlu của họ sau này.
Qua đời Trần thì có những sản phẩm không thua kém nhiều, gốm Chu Đậu về kỹ thuật
đã đạt, nhưng vấn đề nguyên liệu sản xuất rõ ràng còn thua kém đất của Cảnh Đức
Trấn, vốn lừng danh. Đến đời Lê-Mạc, gốm Chu Đậu được giới chuyên môn hiện nay
đánh giá “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông” nên có
thể nói không còn thua kém nữa. Gốm Chu Đậu hiện đã được thế giới biết đến, dù
số lượng trưng bày trong các viện bảo tàng khá hiếm hoi.
– Nhật Bản và Trung Quốc sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân Nguyên sang
đánh Nhật bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên ngôi, từ năm 1371 ra lệnh cấm
dân duyên hải xuất ngoại. Đến năm 1567, mới bỏ luật này, nhưng vẫn cấm vượt biển
sang Nhật Bản vì nạn “Nụy khấu” (cướp lùn) quấy nhiễu bờ biển Trung Quốc. Suốt
mấy thế kỷ đó, Nhật không quan hệ tốt với Trung Hoa, họ quay xuống Nam và
đã tìm thấy nơi Đại Việt, thời nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm sứ.
Lúc này Đại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào Nhật Bản nhiều hơn
trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật Trà Đạo của Nhật Bản đang hồi
cực thịnh. Không gò gẫm tỷ mỷ như bàn tày nghệ nhân đời Minh, với mấy nét đơn
sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy, tùng thạch .v.v…
xuất cái thần vị Thiền, Lão chẳng khác nào tranh tốc họa Sumie; và thuật thư
pháp rất hợp với tâm hồn trà nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh Thiền.
Di sản tranh cổ họa Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ.
– Việt Nam ngoài gốm Chu Đậu, ta cũng thường nghe nhắc đến gốm Bát
Tràng.
.


(Hình bộ đồ trà Bát Tràng )
.
Hai chữ Bát Tràng này ta thường nhớ trong bài ca dao:
.
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. (Ca dao)
.
Xin ghi ra đây chuyện về tên Bát Tràng, các bạn có
thể dùng trong lúc “trà dư tửu hậu”:
.
Thời nhà Lê, làng Bát – một chữ không thôi- thuộc huyện
Gia Lâm, trấn Kinh Bắc. Thời nhà Nguyễn 1822, trấn Kinh Bắc đổi thành Bắc Ninh
và làng được gọi là làng Bát Tràng (tháng 11 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc tỉnh
Hưng Yên, sau thuộc ngọai thành Hà Nội…). Ngòai ra có sách khác viết tên làng Bạch
Thổ vì vùng này có đất sét trắng. Theo một cụ cao niên, người làng Bát Tràng,
trươc cũng có làm đồ gốm thuật lại cho biết làng Bát Tràng từ chữ Nôm, bát chỉ
đồ gốm và chữ Hán, tràng (hay trường) là đất hay vùng dành cho làng nghề. Làng
không làm… gạch, tất cả chỉ là sự ngẫu nhiên: Để nung bát, đĩa, dân làng làm gạch
để kê, sau mới có gạch Bát Tràng.
Trong Dư Địa Chí, Nguyễn Trải viết: “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu
thuộc huyện Văn Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát
dĩa, 200 tấm vải thâm.” [Nguyễn Trải Toàn Tập – NXB Khoa Học Xã Hội 1998 – Trg.
225] để chứng minh Việt Nam có lò sản xuất ấm trà ở Bát Tràng.
Có người nói: Tên Bát Tràng khởi nguyên từ hai chữ ghép: của thổ ngơi tổng
Bạch “Bát” và tên của anh em ông thợ gốm Nguyễn Ninh “Tràng” mà có.
.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
.
Nguyên Lạc

