Trong ngày Thượng viện Mỹ bắt đầu bàn về vụ đàn hạch Tổng thống
Donald Trump, nhiều khán giả truyền hình đã chú ý đến một cử chỉ của ông David
Schoen, luật sư của ông Trump. Cứ mỗi lần nâng ly nước lên uống, Luật sư Schoen
lại đưa bàn tay phải lên sờ trên đầu mình.
Phải chờ một pháp sư, Rabbi Menachem Genack, thuộc một giáo hội Chính thống Do Thái Giáo, giải thích, mọi người mới hiểu. Ông David Schoen rất sùng đạo. Theo phong tục của người Do Thái, mỗi lần ăn hay uống con người phải cảm tạ Thượng Đế. Thường người ta đội một cái mũ nhỏ chụp trên đỉnh đầu, để nhớ có một Đấng ở trên cao ban thực phẩm cho mình. Bữa đó, ông Schoen không đội mũ yarmulke. Cho nên ông đưa bàn tay lên che đầu theo truyền thống dân tộc.
Những người gốc Do Thái sống khắp thế giới. Không phải ai
cũng sùng tín đối với tôn giáo của tổ tiên họ. Nhưng ngay cả những người không
còn tín ngưỡng, họ vẫn không bỏ các phong tục cổ truyền.
Richard Bernstein là một ký giả. Trong cuốn “Ultimate
Journey,” kể chuyến đi của ông từ Tây An bên Trung Quốc, qua Ấn Độ, rồi trở về,
theo con đường mà ngài Huyền Trang đã đi qua vào thế kỷ thứ 7, có đoạn
Bernstein cũng nói đến truyền thống Do Thái Giáo của mình. Mặc dù bao nhiêu năm
trời ông không hề đặt chân vào một “synagogue,” nhà thờ Do Thái Giáo, nhưng
Berstein vẫn không bao giờ tách ra khỏi cái ông gọi là “liên hệ bộ lạc” (tribal
connection) với nguồn gốc của mình. Thân phụ ông, sống như một người vô thần,
nhưng đến mỗi ngày lễ lạc của Do Thái Giáo ông bố lại chỉ cho các con làm đúng
những nghi lễ, thủ tục của tổ tiên.
Người Việt ở khắp thế giới có dịp chia sẻ với nhau một thứ
“liên hệ bộ lạc” giống như vậy trong Ngày Tết. Gói Bánh Chưng, ăn Bánh Tét,
Bánh Dầy để nhớ mình đều là con cháu Hùng Vương. Thế nào cũng phải có hoa, bày
hoa đào, hoa mai càng quý. Mọi người tặng quà cho nhau “Ăn Tết.” Đêm 30 đi lễ
chùa hay nhà thờ. Xông đất. Lì xì. Ngày Mồng Một thì kiêng không ai nói một lời
bất nhã để lọt tai người khác. Gặp ai cũng chúc lành. Không giận dữ. Không mắng,
không chửi. Không đòi nợ. Không ai muốn mắc nợ từ năm cũ sang năm mới. Trước Tết
người ta đi đòi nợ ráo riết. Tú Xương viết: “Tối 30 nợ réo tít mù …” Nhưng sang
ngày mồng một, chủ nợ gặp con nợ lại tươi cười chúc Tết nhau, tuyệt nhiên không
ai nhắc tới chuyện nợ nần.
Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, nhiều người Việt còn giữ
những tục lệ như đốt pháo, đánh bài, xông đất, chọn hướng xuất hành, cho đến
thói quen không quét nhà, không đổ rác, và … không tắm gội. Muốn vậy thì phải dọn
dẹp nhà cửa, đổ rác, tắm gội cho sạch sẽ trước hôm Tết. Tất cả những phong tục
đó đều lành và đẹp, ít nhất cũng vô hại. Ai cũng làm theo thì sẽ tạo nên những
giờ phút sống tươi vui, êm ấm, dịu dàng. Như thi sĩ Lan Sơn mô tả, “Đời ngọt
ngào như có vị đường” mỗi lần trái đất bắt đầu một vòng quay mới quanh mặt trời.
Trong các phong tục ngày Tết Nguyên Đán, người Việt mình gìn
giữ nhiều nhất là lễ gia tiên. Dù theo tôn giáo nào, ngày Tết ai cũng thắp một
nén nhang, tưởng niệm tổ tiên.
Đối với những người Việt ở xa quê hương thì lễ gia tiên còn
quan trọng hơn khi ở quê nhà, vì đó là một dịp chúng ta nối liền quá khứ với hiện
tại, trong khi vẫn hướng về tương lai. Ngày Tết, các gia đình sẽ có dịp giải
thích với con cháu tại sao phải lễ lạy trước bàn thờ. Đây là lúc nhắc nhở con
cái về lịch sử của ông bà, lịch sử đất nước. Kể lại cho con cháu nghe tại sao
gia đình mình lại sống ở bên ngoài nước Việt Nam.
Khi tưởng nhớ tổ tiên, chúng ta cũng tạo cho các thế hệ trẻ
về niềm tự hào văn hóa của dân tộc. Trong các cuốn sách nghiên cứu sử học gần
đây, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát đã nêu nhiều chứng cớ cho thấy người Việt Nam đã có
phong tục thờ cúng tổ tiên trước khi bị các quan thái thú đời Đông Hán ép theo
văn hóa Trung Hoa. Trong Tiền Hán Thư kể chuyện một người Việt giải thích cho
Hán Vũ Đế về việc thờ người chết và phong tục gọi hồn. Những ngôi mộ cổ từ hàng
ngàn năm trước Tây lịch cho thấy nhiều vật tùy táng, coi như những người đã chết
vẫn tiếp tục sống ở một thế giới khác. Kinh Lục Độ Tập được Thiền sư Khương
Tăng Hội, người Ấn Độ sống ở nước ta vào thế kỷ thứ ba, dịch sang chữ Hán. Lê Mạnh
Thát đã biện luận rằng bản kinh đó có thể đã dịch ra từ một bản văn của tổ tiên
người Việt. Bản Hán dịch cho thấy Kinh Lục Độ Tập không xuất phát từ một bản chữ
Phạn, vì có những khái niệm mà các kinh văn chữ Phạn không bao giờ dùng tới.
Thí dụ nói đến tục chôn người chết, tục bỏ tiền vào miệng thi hài, những tục đó
không thông dụng ở Ấn Độ cũng như Trung Hoa. Những luận giải trong kinh này về
Hiếu, Hạnh, không có trong văn học chữ Phạn mà cũng không giống với quan niệm
Nho giáo ở Trung Hoa thời đó. Ngoài ra, cấu trúc ngôn ngữ nhiều chỗ theo văn
pháp tiếng Việt, ngược với văn pháp chữ Hán, như khi viết “Tượng Phật” thay vì
“Phật Tượng.”
Từ đời Hán người Trung Hoa coi chữ Hiếu là đứng đầu các tính
tốt, thể hiện đạo Hiếu với một thái độ “giáo điều,” trong khi theo kinh Lục Độ
Tập, như Lê Mạnh Thát thuật lại thì chữ Hiếu của người Việt không có vai trò độc
tôn. Vì lòng thương người, thương muôn vật mới là đức tính quan trọng nhất.
Ngày nay chúng ta lễ tổ tiên như thế nào?
Nghi lễ đặt ra không phải chỉ vì người ta làm bổn phận với
Trời, Phật, Tiên tổ, mà còn gây tác dụng trên lòng người, giúp con người hướng
đến điều lành, ghi khắc trong lòng các giá trị truyền thống. Việc thờ cúng ông
bà chỉ có tác dụng nếu người hành lễ chú tâm tưởng niệm, như thể tổ tiên đang
hiện diện trước mặt mình. Điều mà các bậc phụ huynh chúng ta cần giải thích cho
con. Hành động lau chùi, bày biện ban thờ cho sạch sẽ, trang nghiêm là một bài
học nên truyền lại cho con cháu. Bàn về việc hành lễ, đức Khổng Tử nói: “Tế như
tại,” nghĩa là “lễ tổ tiên như thể tổ tiên có trước mặt mình.” (Luận Ngữ, Thiên
Bát Dật, câu 12.)
Điều các em có thể hiểu, là trong mỗi cá nhân đều có những hạt
giống, có dòng máu di truyền của ông bà, cha mẹ. Những hạt giống di truyền đó nằm
ở trong ta, đi theo chúng ta suốt cuộc đời, rồi mỗi người sẽ truyền lại cho con
cháu mình. Có thể nói mỗi người đều mang trong mình một phần những tế bào sống
và những kinh nghiệm tâm linh của tổ tiên. Di sản của tổ tiên còn gồm cả những
điều người xưa ước ao, mong mỏi xây dựng cho các thế hệ con cháu, gọi là Phước
Đức.
Người Việt Nam tin vào Phước Đức. Đây cũng là một thứ tín
ngưỡng đặc biệt của dân tộc. Người Ấn Độ, người Trung Hoa không đề cao Phước Đức
như dân Việt vẫn tin tưởng. Khi một người Việt làm điều thiện, tránh điều ác,
hành động đó không phải chỉ cốt tạo ra những hậu quả tốt cho chính mình, mà còn
muốn “đầu tư,” để dành vốn “Phước Đức,” cho con cháu đời sau hưởng.
Cũng vậy, mỗi thế hệ con cháu cũng nghĩ rằng trong đời mình
có khi gặp được điều tình cờ may mắn không thể giải thích được, thì một phần là
do Phước Đức ông bà để lại cho. Niềm tin vào phước đức nối kết các thế hệ với
nhau. Với niềm tin tưởng đó, mỗi thế hệ đều biết ơn tổ tiên vì những phước đức
tích lũy từ đời trước. Rồi đến lượt chính mình cũng muốn làm điều thiện để cất
đầy trong kho phước đức chung đó.
Khi hiểu rằng trong mỗi người chúng ta không những chứa đựng
những hạt giống di truyền sinh học, mà còn mang theo các hạt giống của tất cả
những việc thiện mà tổ tiên để lại, thì các bạn trẻ của chúng ta dễ cảm thấy
liên hệ của tổ tiên với chính mình. Vì thật sự tổ tiên đang hiện diện ở trong bản
thân họ. Khi đó việc cử hành nghi lễ thờ cúng tổ tiên có một ý nghĩa sâu xa
hơn, theo châm ngôn “Tế như tại.”
Thờ cúng tổ tiên không cần các nghi lễ phức tạp. Để cho thế
hệ trẻ lễ ông bà một cách tự nhiên, thoải mái, nên làm lễ đơn giản, chú ý nhiều
đến nội dung hơn là hình thức. Ông Khổng Tử, người thường bị “kết tội” bày đặt
nhiều nghi lễ, thực ra cũng biết rằng: “Lễ, dữ kì xa dã, ninh kiệm. Tang, dữ kì
dị dã, ninh thích.” Nghĩa là việc hành lễ mà xa xỉ thì nên kiệm ước còn hơn;
tang lễ mà quá chú trọng nghi tiết thì chỉ bày tỏ lòng thương xót còn tốt hơn.
(Luận Ngữ, Bát Dật, 4.)
Cầu mong quí vị, các bạn, và gia đình hưởng một Tết Nguyên
Đán đầy ý nghĩa và một năm mới bình an hơn năm qua.
Ngô Nhân Dụng