Khi đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, có
người nêu lên thắc mắc rằng phải chăng thi phẩm đó chỉ là một bản
dịch trung thực từ cuốn truyện chữ Hán Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân? Và nếu thế, những lời ca tụng tác phẩm trước tiên
phải được dành cho nguyên tác Kim Vân Kiều truyện. Hơn nữa
khi viết rằng Nguyễn Du là một nhà thơ thiên tài, một đại thi hào dân
tộc, vân vân, đấy là nhờ bản dịch trung thực Kim Vân Kiều
truyện, người đọc những nhận xét ấy cũng cảm thấy bỡ ngỡ.
Nhiều học giả đã có ý kiến về vấn đề nói trên ngay sau khi Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời cách đây trên 200 năm. Nay ta thử xem lại nhận định của một nhà văn người Pháp viết cách đây gần 100 năm, và của nhà nghiên cứu người Việt viết cách đây gần 20 năm.
Gần 100 năm về trước, nhà thơ người Pháp René
Crayssac đã dịch Truyện Kiều ra thơ Pháp nhan đề KIM
– VAN – KIÉOU in năm 1926 tại Hà Nội. Trong phần Gởi
Bạn Đọc (Au Lecteur) dài đến 86 trang, tác giả hết sức ca
ngợi Truyện Kiều. René Crayssac đã cập đến nhiều khía
cạnh trong Truyện Kiều, và có nêu lên vấn đề Truyện Kiều
không phải là bản dịch từ truyện Trung Quốc.
Gần đây, cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều, dày trên 400 trang, Nhà Xuất Bản Thanh Niên in năm
2001, của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, càng công phu hơn, giá trị hơn, với
rất nhiều khám phá mới. Phan Ngọc đã nêu lên nhiều luận điểm rất
xác đáng để chứng minh thiên tài của Nguyễn Du về nhiều phương diện,
và một lần nữa khẳng định rằng Nguyễn Du chỉ lấy cốt truyện
từ Kim Vân Kiều truyện để xây dựng lại và sáng tạo ra
kiệt tác Truyện Kiều.
Ngoài ra, một vài chi tiết sau đây cũng thường được
người ta nhắc đến.
Trước hết, Truyện Kiều là một bản
trường ca viết theo thể thơ lục bát hoàn toàn Việt Nam, trong khi
cuốn Kim Vân Kiều truyện viết bằng văn xuôi theo lối
chương hồi truyền thống của Tàu. Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi
khác nhau vô cùng.
Xưa nay văn xuôi hoặc thơ được dùng để dịch những áng
thơ từ một ngôn ngữ khác. Và khi dịch thì hồn thơ, chất thơ của
nguyên tác khó có thể giữ được nguyên vẹn. Thi hào Nguyễn Du đã làm
công việc ngược lại, và vô vàn khó khăn: dựa vào cốt truyện Tàu
viết bằng văn xuôi để viết thành một truyện dài bằng thơ “lời
lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” vô cùng thi vị và chan
chứa tình tự dân tộc. Đây một trường hợp hy hữu. Kết quả là trong
khi cuốn truyện Tàu tầm thường đó ngày càng bị lãng quên, hầu như
nay không còn ai biết đến, thì Truyện Kiều đã trở thành một kiệt
tác được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, kể cả tiếng Tàu.
Tất nhiên ngoài René Crayssac và Phan Ngọc, rất nhiều
nhà lý luận văn học khác cũng đã có những đóng góp lớn lao trong
việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Trong phần tiếp theo, ta thử tìm hiểu về một vài
khía cạnh trong con người của Thúy Kiều, không phải lấy từ Kim
Vân Kiều truyện, mà từ Truyện Kiều, tức là tác phẩm
đã được Nguyễn Du viết lại bằng ngôn ngữ mới, tâm tình mới, bố cục
mới. Hay là nói như Nguyễn Du khi đặt lại nhan đề mới cho bản trường
ca của mình: Đoạn Trường Tân Thanh.
Và viết bằng lời thơ trác tuyệt trong văn học Việt
Nam, cho đến nay vẫn mang tính hiện đại và giữ nguyên giá trị gần như
độc tôn.
*
Nàng mới lớn. Xinh đẹp ít ai bằng, lại có tài làm
thơ, soạn nhạc, đánh đàn, tiếng tăm vang dội. Nàng sống trong một gia
đình êm ấm cùng vời cha mẹ và hai em:
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Thế nhưng tính nàng hay lo lắng, đa sầu, đa cảm. Cùng
nghe được câu chuyện buồn của người bạc mệnh, trong khi hai em dửng
dưng, thì nàng:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Và đa tình. Ban ngày tình cờ gặp chàng trai phong
lưu, tuấn tú, bạn của em trai, thì đêm về lòng bâng khuâng:
Người đâu găp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Khi tình yêu đến, nàng say đắm mà vẫn giữ được nề
nếp nho phong, lễ giáo. Thế nhưng, trước cái hạnh phúc hiện đến quá
đột ngột, lớn lao, và choáng ngợp, vốn tính hay lo, Kiều không khỏi hoang
mang:
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Lời nói ấy là một báo hiệu xấu. Trong Truyện
Kiều điềm báo trước thường xẩy ra, có khi mang tính siêu
hình. Thật ra, điềm gở đã xẩy ra trước đó nữa. Nói như Nguyễn Bách
Khoa trong Nguyễn Du và Truyện Kiều, nhà thơ đã lặng lẽ xây
một nấm mồ -ngôi mộ Đạm Tiên –đặt trước Kim Kiều khi hai người gặp
nhau lần đầu tiên trong buổi Thanh Minh. Cho nên, “Chưa vui sum họp
đã sầu chia phôi” quả đúng với điềm gở.
Chẳng bao lâu được tin ông chú qua đời, Kim Trọng phải
giã từ Thúy Kiều lên đường đi hộ tang ở tận đất Liêu Dương. Thì ngay
sau đó, cơn gia biến ập tới gia đình Kiều. Nàng chỉ còn một chọn
lựa giữa hiếu và tình:
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
Quyết tình nàng mới hạ tình
“Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.”
Thế là thảm kịch bắt đầu.
Kiều phải bán mình làm thiếp cho Mã Giám Sinh, một
người lạ mặt, thô lỗ, từ một nơi xa xôi đến, để có đủ tiền chuộc cha
và em trai ra khỏi vòng lao lý chỉ vì một lời tố cáo bịa đặt.
Từ đây góc bể bên trời
Nắng mưa thui thủi quê người một thân
Ngày vu quy xẩy ra vào mùa thu mà cảnh vật lại sầu
thảm như trong một buổi chiều đông xám và lạnh. Không gian mênh mông,
đường xa thăm thẳm vô định, vi lô san sát, con người đâm ra bé mọn bị
cuốn hút trong “một xe trong cõi hồng trần” vượt qua
những chiếc cầu giá đóng trắng, và trên trời thì mù mịt mây đen. Đó
có phải là mùa thu từ ngàn xưa vẫn trở về để giao cảm với những
tâm hồn thơ mộng, lãng mạn? Hay đấy là “một trời
thu” trái gió trở mùa chỉ để dành riêng cho một nàng mà thôi. Hay
đấy cũng là một báo động cho một kiếp người bị trời đày phải trọn
đời cô độc:
Nàng thì dặm khách xa xăm
Bạc phau cầu giá đen dầm ngàn mây
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai một người
Nhưng Mã Giám Sinh không mang nàng về để cho làm lẽ
như đã hứa, mà ép nàng làm gái làng chơi. Đây là lần đầu tiên nàng
bị đánh lừa trên bước đường lưu lạc, và là sự lừa đảo ghê rợn. Và
cũng bắt đầu từ thời điểm này, phản ứng của nàng trước nghịch
cảnh dần dần được biểu lộ ra rõ ràng.
Tứ cố vô thân, không chịu khuất phục, nàng dùng dao
tự sát. Đối phương, Tú Bà, hoảng sợ, tìm cách chữa trị vết thương
cho nàng, và hứa chờ dịp tìm nơi xứng đáng gả nàng làm vợ. Nàng
có đủ khôn ngoan không tin lời hứa đó, tìm cách bỏ trốn theo một
người lạ khác. Nàng không ngờ đấy cũng là một tên lừa bịp, tên Sở
Khanh, đồng bọn với chủ chứa Tú Bà. Tất nhiên nàng bị bắt lại ngay.
Tội lỗi bỏ trốn sờ sờ ra đó, bị đánh đập tàn nhẫn, nàng đành
chấp nhận cảnh “Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.”
Trong văn học tiền chiến, có hai tác phẩm đề cập
đến gái làng chơi. Tuyết trong Đời Mưa Gió, một tiểu
thuyết giá trị, của Khái Hưng và Nhất Linh, và Huyền trong Làm
Đĩ của Vũ Trọng Phụng. Một khi những nhân vật đó tay đã
nhúng chàm, dù Tuyết thông minh, sang trọng, hay Huyền mê muội, nhục
dục, cả hai đều đầu hàng số phận, sống ngập ngụa trong nghề bán dâm
cho đến cuối đời. Họ là “ếch bị luộc.” Nếu cho ếch vào nồi nước
sôi, nó sẽ vùng vẫy, nước sôi bắn tung toé, trước khi nó chết. Cho
nó vào nồi nước lạnh mát mẻ, ếch sẽ thoải mái bơi lội. Rồi cho
nước tăng nhiệt độ từ từ, ếch sẽ không hề cảm thấy có gì khác lạ,
vẫn ung dung bơi lội. Và cứ ung dung như thế cho đến khi nước được đun
sôi lên sùng sục, ếch bị luộc chín.
Kiều khác hẳn. Nàng luôn luôn tỉnh táo. Nàng luôn
luôn lắng nghe, lắng nhìn lại thân thế, thân phận của chính mình.
Nàng không bao giờ thoả hiệp với hoàn cảnh đang sống. Và đấy cũng
là nguồn cội của cô đơn:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai.
Trong suốt 15 năm luân lạc, hễ có cơ hội thoát thân,
Kiều, không chút ngần ngại, đón lấy ngay. Càng thất bại, càng quyết
tâm.
Lúc thì nàng vội vàng trốn theo Sở Khanh như đã đề
cập trên. Rồi bị hành hạ dã man khiến nàng phải thốt lên:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa
Tất nhiên đó chỉ là phản ứng nhất thời mong giảm
bớt cực hình.
Lúc thì toan tính cẩn thận mọi điều với Thúc Sinh,
người yêu nàng đắm đuối. Nàng hối thúc chàng về quê thú nhận với
vợ, mong được ép mình yên bề làm vợ lẽ:
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép nói ra mối giường
...
Xin chàng kíp liệu lại nhà
Trước người đẹp ý sau ta biết tình
...
Dù khi sóng gió bất bình
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi
Tóm lại, nàng năn nỉ và tha thiết nhắc nhở Thúc
Sinh:
Thương sao cho vẹn thì thương
Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng
Nhưng Thúc Sinh “Thấp cơ thua trí đàn bà”,
toan tính không thành, lại nhu nhược, nên Kiều phải chịu đựng thêm
nhiều cay đắng trước khi bị sa chân vào lầu xanh một lần nữa.
Thương thay cho người con gái khuê các từng sống trong
“trướng rủ màn che”, càng vùng vẫy mong thoát thân ra khỏi những vũng
lầy, càng bị lún sâu thêm. Ta hồi hộp theo dõi cuộc đời đầy sóng
gió của nàng. Ta sợ rằng sống mãi trong đau khổ, tối tăm, và cô đơn,
nàng sẽ dần dần mất hết nghị lực, sẽ chai lì, sẽ nản lòng buông
xuôi trước định mệnh. Có lần nàng thảng thốt than:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều má phấn cho rồi ngày xanh
Tuy nhiên, sau mỗi cơn ngã quỵ, như con thú nằm liếm
láp vết thương, Kiều cố sức đứng dậy, vươn lên. Hình ảnh nhân vật
Sisyphe (Sisyphus) trong thần thoại Hy Lạp là một liên tưởng. Chàng bị
trời đày phải lăn tảng đá nặng từ chân núi lên đỉnh núi. Khi lên tới
đỉnh, tảng đá tự nhiên lăn xuống chân núi. Sisyphe lại cố sức lăn lên.
Khổ nạn phi lý ấy cứ thế tái diễn cho hết một đời.
Đến giai đoạn này, may thay, Từ Hải xuất hiện. Từ
là một đấng anh hùng trí dũng có thừa, chí lớn trùm thiên hạ. Nghe
tiếng nàng Kiều, chàng tìm gặp. Hai người “tâm đầu ý hợp, cá nước
duyên ưa”. Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, sống với nàng trong
một thời gian ngắn rồi một mình ra đi “xây dựng cơ đồ”, với lời hứa
sẽ trở về đón nàng khi công thành danh toại. Chẳng bao lâu, mọi ước
muốn của chàng đã trở thành hiện thực:
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà
Và chàng giữ lời hứa, sai quân dưới trướng rầm rộ
“rước nàng nghi gia”:
Hai bên mười vị tướng quân
Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu
Cung nga thể nữ nối sau
Rằng: “Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.”
Từ đấy, cuộc đời Kiều bước sang một trang mới. Với
Từ Hải, Kiều sống những ngày huy hoàng, hạnh phúc, và ân đền, oán
trả. Nhưng nàng vẫn còn chút khổ tâm riêng. Là vì, “Đã nhiều
lưu lạc lại nhiều gian truân”, Kiều luôn canh cánh bên lòng tình quê
hương, và nỗi nhớ. Nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ hai em, “Dần dà
rồi sẽ liệu về cố hương.” Từ Hải biết điều đó.
Thế nàng có nhớ Kim Trọng hay không? Trải qua bao
sóng gió dập vùi, mối tình đó vẫn nguyên vẹn chăng? Lúc mới sa chân
vào chốn trầm luân, Kiều nhớ nhà quay quắt, và hình ảnh Kim Trọng
hiện lên trước nhất, trước cả song thân:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Rồi hình ảnh đó phai dần với thời gian. Trong cuộc
đời của “một chiếc hoa rơi nếm trải mọi mùi đắng cay”,
quá khứ vàng son cùng mối tình đầu đã trở thành tro tàn trong lòng
nàng. Cuối cùng, trước hào quang và tình yêu và ơn sâu của Từ Hải,
Kim Trọng chỉ còn là bóng mờ. Mối tình đầu ngày xưa chỉ còn sót
lại như chút nghĩa cũ, như ngó sen đã đứt lìa nhưng những sợi tơ
trong lòng ngó sen còn vướng:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Xin đảo lộn một chút thời gian trong truyện để thấy
rõ thêm biến chuyển tình cảm của Kiều, một quá trình phát triển
nội tâm rất lôgíc. Khi toàn thể gia quyến của nàng, trong đó có Kim
Trọng, được sư Giác Duyên đưa đến một ngôi thảo đường (ngôi nhà lợp
tranh, cỏ) nơi Kiều tu hành, Kiều xiết bao vui sướng khi nhận ra rằng
cha còn khoẻ, mẹ còn tươi, hai em đều khôn
lớn (phương trưởng). Đối với Kim Trọng, nàng không quan tâm
mấy. Chữ “nọ” trong câu thứ tư nói lên sự xa cách, lơ đãng:
Trông xem đủ mặt một nhà
Xuân già còn khoẻ huyên già còn tươi
Hai em phương trưởng hoà hai
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa
Kiều có đáng trách hay không? Câu trả lời là không.
Như đã nói, nàng đã sống cuộc đời của gái giang hồ trong 15 năm
trời, “Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa”, cho nên khó mà ôm
ấp, hay gìn giữ mãi một mối tình lý tưởng. Nguyễn Du đã thấu hiểu
điều ấy.
Trong khi đó Kim Trọng, trái lại, không bao giờ quên
nàng:
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng
Bởi lòng tạc đá ghi vàng
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây
Kim Trọng đã tính chuyện từ quan để đi tìm Kiều:
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha
Dấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau
Quả là thuỷ chung, sâu đậm, chân thành.
Tình yêu của Từ Hải đối với Kiều lại lớn lao cách
khác. Yêu nàng yêu luôn nỗi nhớ của nàng:
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng
Sau này Từ Hải nghe lời Kiều bãi binh quy hàng, có
lẽ một phần không nhỏ là do ở lòng xót thương đó. Tất nhiên tấm
lòng của Kiều đối với Từ Hải cũng không kém sâu xa. Vì nàng, chàng
bị đánh lừa và chết giữa trận tiền, nên nàng không còn muốn sống
nữa:
Thân sao thân đến thế này
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương
Đây là lần đầu tiên con người không chịu khuất phục
trước số phận đã thốt lên những lời tuyệt vọng. Và nàng đã trầm
mình xuống sông Tiền Đường:
Rằng: “Từ công hậu đãi ta
Chút vì việc nước mà ra phụ lòng
Giết chồng mà lại lấy chồng
Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời
...
Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang
Rồi Kiều được cứu vớt, được tu hành với sư Giác
Duyên, được gặp lại cả nhà và chàng Kim như đã nói đến ở đoạn trên.
Trở lại chuyện xa xưa, khi mới bán mình chuộc cha,
Kiều đã nhờ nàng Vân thay mình về với Kim Trọng:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thì Kim Trọng lấy nàng Vân vậy. Nhưng tình yêu đối
với người vắng mặt vẫn như nung như nấu. Cho nên khi tái ngộ, chàng
nhắc lại mối tình xưa, lời thề cũ, và mong được lấy cả Kiều làm
vợ. Nàng Vân lẫn ông bà viên ngoại đều nhiệt liệt tán thành ý kiến
ấy. Vào thời đó, đa thê là chuyện bình thường. Và Kiều còn trẻ
lắm. Thử tính lại, nàng rời nhà vào tuổi cặp kê (16, 17 tuổi) cộng
thêm 15 năm hoạn nạn, vậy nay nàng mới khoảng trên 30 tuổi. Lại còn
xinh đẹp mặn mà hơn cả ngày xưa, như lời tán tỉnh quá đà của chàng
Kim đang say đắm:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Kiều là người từng trải, khôn ngoan, sắc sảo. Lại
biết điều và tự trọng. Đã muốn chết theo Từ Hải mà không xong, nay
đâu còn lòng nào tái giá. Đi tu là giải quyết được vấn nạn:
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi
Hơn nữa, nàng nhận định tình hình một cách sáng suốt:
Một lời tuy có ước xưa
Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều
Nói càng hổ thẹn trăm chiều
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi
Cho nên dù Kim Trọng “năn nỉ ỉ ôi” hết lời, nàng vẫn
một mực từ chối thành hôn. Cuối cùng, bị ép buộc quá, Kiều quyết
định đổi tình vợ chồng thành tình bạn bè.
*
Những tác phẩm cổ điển truyền thống đều phải được
kết thúc “có hậu”. Ba kiệt tác dài hơi bằng thơ của văn học Việt Nam
cũng không ra ngoài ước lệ đó.
Nàng cung nữ trong Cung Oán ngâm khúc dù bị thất
sủng lâu ngày, vẫn nuôi hy vọng được đấng quân vương có ngày ngó lại.
Vội vàng sửa lại nhan sắc:
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa
Chờ mãi không thấy chồng về, nhưng giấc mơ sum họp
của nàng chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm rất là tha thiết và rực rỡ:
Giở khăn lệ chàng trông từng tấm
Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu
...
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Nguyễn Du cũng không muốn thoát ra khỏi ước lệ ấy,
cho nên đã sắp đặt cho nàng Kiều, sau thời gian dài trong thống khổ,
được sống bên cạnh vợ chồng Kim Trọng để đánh đàn cho chàng nghe,
làm thơ cho chàng đọc. Hoặc:
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
Trong lúc đó đã có Thúy Vân lo quán xuyến mọi công
việc gia đình, “Thừa gia chẳng hết nàng Vân”. Người thiếu phụ ngoan
ngoãn và đoan trang này sẽ không có khi cảm thấy tủi thân, hờn ghen?
Đoạn kết “có hậu” của Nguyễn Du là thế đấy. Là:
Phong lưu phú quý ai bì
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
Tuy nhiên, ta có thể tưởng tượng cái thế chênh vênh
của nàng Kiều liệu kéo dài được bao lâu? Và liệu một người đàn bà
mang nặng một quá khứ ngổn ngang, ê chề, lại có mặc cảm giết chồng,
có thể sống an vui bên lề cuộc đời của một người đàn ông nho nhã,
trong sáng, đa tình, và lãng mạn? Đấy là chưa nói đến một phương
diện khác gay go không kém. Trong xã hội phong kiến, hà khắc, và câu
nệ như thời đại của nàng Kiều, một người như nàng khó lòng sống
trong dinh quan huyện ngày ngày vui thú bầu bạn với quan mà không gây
nên tai tiếng, thị phi. Chính nàng từng bày tỏ:
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Còn chi là cái hồng nhan
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào
Cho nên, vốn thức tỉnh và thức thời, Kiều sẽ tìm
một con đường khác mà đi: con đường của một kẻ lữ hành suốt đời cô
độc. Và chắc chắn đó không phải con đường cũ. Hay nàng sẽ trở lại
chốn “Cửa Không” tìm quên.
3/2021
Ngự Thuyết
Chú thích :
Nhà thơ Bùi Giáng nói về bản dịch của René
Crayssac: “René Crayssac dịch Truyện Kiều ra Pháp Ngữ vướng vào
những lỗi sống sượng không tránh được. Nhưng với tất cả những khuyết
điểm khổng lồ kia, vì lẽ gì bản dịch của ông vẫn sừng sững nằm
trong văn học Tây Phương như một tòa lâu đài Hy Lạp? Qua cuốn sách của
ông, người Tây Phương có thể nhìn thấy toàn khối văn minh Đông Phương
lấp lánh trong sương mù. Và người Đông Phương ngày mai sẽ nằm trong
định mệnh: chỉ còn có thể nhìn ra thiên tài Nguyễn Du qua bản dịch
của Crayssac mà thôi.” (Thi Ca Tư Tưởng của Bùi Giáng. Ca Dao
xuất bản lần thứ nhất 12/69. Sài Gòn – Việt Nam)
2“Le chef-d’oeuvre de NGUYEN – ZOU peut subir, sans
désavantage, la comparaison avec ceux de n’importe quel temps, de n’importe
quel lieu. Si quelque lecteur francais qui ne crois pas après lecture du
poème, doit ratifier ce jugement, j’affirme que notre divergence de vues sera
uiquement imputable à l’insufisance de ma traduction.”