13 March 2021

GIỮA VĂN VÀ THƠ - Trần Doãn Nho

Văn xuôi và thơ, tuy cũng được tạo thành bằng chữ, nhưng hoàn toàn khác nhau. Trong lúc văn xuôi không vần, không nhịp điệu, không được tổ chức vào một cấu trúc riêng nào đó, thì thơ có vần, có nhịp điệu và được tổ chức vào trong một cấu trúc riêng biệt, một cấu trúc tự đủ với chính nó. Vị trí của mỗi chữ ở đâu là nằm ở đó. Dịch chuyển bất cứ chữ nào trong câu thơ, hay thay đổi các khoảng cách, cách viết chữ thường, chữ hoa, hay cách xuống hàng, cách ngắt câu sẽ làm thay đổi ý nghĩa của câu thơ mà tác giả muốn gửi gắm vào. Điều này không chỉ đúng với những bài thơ làm theo lối cổ điển, với sự quy định nghiêm ngặt về chữ, vần, câu kể cả vần bằng vần trắc (như trong tiếng Việt), mà ngay cả đối với loại thơ cách tân sau này.

Trong tác phẩm khảo sát về bản chất của văn chương, “Qu’est-ce que la litérature”, triết gia-nhà văn Jean-Paul Satre, cho rằng thơ cũng như âm nhạc, hội họa hay điêu khắc. Nốt nhạc hay màu sắc không phải là những ký hiệu thuần túy vì chúng không chuyển bất cứ cái gì ra ngoài chúng. Xem một bức tranh, ta không thấy màu đỏ, màu xanh, màu vàng, màu nâu…hay một màu gì pha trộn mà là xem một toàn thể, một khung cảnh. Nghe một bản nhạc cũng thế (nhất là nghe nhạc cổ điển), ta không nghe nốt này, nốt kia, nốt cao nốt thấp…mà nghe một chuỗi âm thanh kết hợp với nhau. Chính vì thế, Jean-Paul Sartre cho rằng ta không thể và không nên xem màu sắc hay âm thanh như một thứ ngôn ngữ dùng để diễn tả sự vật.

Từ khởi điểm đó, Jean-Paul Sartre đưa ra sự khác biệt giữa văn và thơ. Cả hai hoàn toàn khác nhau về nội dung, chất liệu. Trong lúc nhà văn quan tâm tới ý nghĩa của từng chữ hay từng câu và do đó, tìm cách sử dụng ý nghĩa mà mỗi chữ hay mỗi câu chuyên chở thì nhà thơ vừa sử dụng ngôn ngữ nhưng đồng thời lại vừa khước từ nó. ("Les poètes sont des hommes qui refusent d'utiliser le langage"). Văn xuôi bản chất là để sử dụng (utilitaire). Người viết văn là người sử dụng chữ như một dụng cụ của ý nghĩa. Thành thử, văn xuôi là đặc quyền của một công việc phải thực hiện. Trong lúc đó, nhà thơ không sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện của ý nghĩa. Nhà thơ không cần phải « làm rõ nghĩa » một chữ hay một câu mà mình dùng. Một câu thơ không cần phải đúng văn phạm, thậm chí, phá vỡ các quy luật văn phạm, lược bỏ hết những chữ được xem là thừa. Chính thì thế, người đọc thơ lúc nào cũng cảm thấy ý nghĩa của nó mơ mơ hồ hồ, đôi khi, bí hiểm. Như màu sắc (trong hội họa) hay âm thanh (trong nhạc), thơ xem chữ như những sự vật chứ không phải là những ký hiệu. Khi người ta nói hay viết một câu văn, người ta vượt qua bên kia con chữ, tiến gần đến sự vật mà mình diễn tả. Còn khi người ta làm thơ, người ta ở cùng với chữ, chơi đùa với chữ, thích thú với mỗi con chữ. « Đối với người đang nói, chữ là những quy ước hữu ích, những dụng cụ; đối với nhà thơ, chính đó là những sự vật mọc một cách tự nhiên như cỏ như cây, » theo ông. (Pour l'homme qui parle, les mots sont des conventions utiles, des outils; pour le poète, ce sont des choses naturelles qui croissent naturellement sur la terre comme l’herbe et les arbres.)

Thử lấy một thí dụ:

Câu văn: Tôi không có bạn gái, nên tôi chẳng có ai để đưa hay đón, cũng chẳng có ai để mà viết thư tình cả.

Câu thơ: Không có anh, lấy ai đưa em đi học về/lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học, ai lau mắt cho em ngồi khóc… (thơ Nguyên Sa)

Ở trong câu văn trên, người ta dùng chữ để diễn tả một sự kiện, một tình cảnh cụ thể: tôi không quen được cô gái nào cả, do đó, tôi không đưa đón ai, cũng chẳng viết thư cho ai. Nhưng ở câu thơ của Nguyên Sa, dù ta thấy nhà thơ dùng đủ loại chữ: em, đi học, đưa đón, viết thư, lớp học…nhưng chúng hoàn toàn bâng quơ, không mang bất cứ một ý nghĩa cụ thể nào xuất phát từ những chữ đó. Ta chẳng cần biết « em » đó là ai, tại sao lại viết thư, tại sao lại mang vào lớp học, sao em lại ngồi khóc vân vân. Dẫu vậy, khi đọc lên câu thơ, ta cảm thấy thích thú vì những câu, những chữ chen nhau, dính bám vào nhau, nghe ngọt ngào, tha thiết. Tóm lại, trong văn, người ta sử dụng chữ có mục đích và ý nghĩa của nó quy cho sự kiện bên ngoài; còn trong thơ, người ta sử dụng chữ như là chữ, chúng tự đủ, không cần ta phải đối chiếu với cái gì ở bên ngoài cả. Cái hay của nó nằm ngay trong mỗi câu, mỗi chữ. Đó là lý do tại sao có nhiều bài thơ đọc lên nghe có vẻ mơ hồ, bí hiểm, vì chúng chẳng ám chỉ một cái gì mà ta có thể tìm thấy ở bên ngoài, nhưng ta vẫn cảm thấy thú vị.

Về mặt lý thuyết, có lẽ không có gì để phản bác cách lý giải của Jean-Paul Sartre, nhưng trong thực tế, ta không thể thưởng thức thơ chỉ hoàn toàn bằng những con chữ. Không hiểu ý tứ của một bài thơ thì khó mà thưởng thức được cái hay của chúng. Vì chữ, nói cho cùng, thực sự không tự mình đại diện cho chính mình. Chữ, một khi đã sử dụng trong một câu, không thể tách rời khỏi nghĩa. Chỉ có cái khác: nghĩa của chúng không cụ thể và rõ ràng để ta nắm bắt ngay hay để ta đối chiếu với sự kiện. Thành thử, để “cảm” một bài thơ, dù ít dù nhiều, ta cũng phải “hiểu”nó, dù là hiểu sai; và để hiểu, ta phải tự “dịch” nó (thành văn xuôi chẳng hạn), cách này hay cách khác. Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất là khi ta đọc một bài thơ tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Trung Hoa chẳng hạn. Làm sao có thể cảm cái hay của bài thơ nếu ta không “dịch” nó ra tiếng Việt. Và để dịch một bài thơ, theo tôi, phải trải qua ít nhất là ba lần “dịch”. Trước hết, phải “dịch” nó từ thơ ra văn xuôi, nghĩa là phải sắp xếp câu, chữ (và có lúc phải biết rõ liên hệ giữa bài thơ và hiện thực mà nó đề cập), làm sao để hiểu hết và hiểu đúng ý nghĩa của nó. Thứ đến là “dịch” cái mình hiểu sang tiếng Việt. Và sau cùng, phải “dịch” cái mình hiểu thành một bài thơ bằng tiếng Việt.

Thử xem qua quá trình “dịch” hai câu thơ cuối trong bài “Hoành Hạc Lâu” của của Thôi Hiệu, từ tiếng Hán ra tiếng Việt:

Bản Hán văn:

使

Dịch ra âm Hán Việt:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch nghĩa:

Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?

Trên sông khói toả, sóng gợn, khiến người sinh buồn!

Dịch thành thơ:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn.

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. (Tản Đà)

Để thưởng thức được bài thơ, phải cần đến ba lần “dịch”!

Phải “dịch” nhiều lần vì ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ cô đọng. Ý nghĩa của nó tiềm ẩn đàng sau những con chữ.

Nghệ thuật làm thơ là nghệ thuật “nén” chữ, “nén” ý. Nhà thơ nén nhiều câu vào trong một câu, nhiều chữ vào trong một chữ, nhiều ý vào trong một ý. Do đó, về cả hình thức lẫn nội dung, một bài thơ bao giờ cũng có những khoảng trống. Nhà thơ Ngu Yên, trong tác phẩm biên soạn rất công phu, Ý Thức Sáng Tác Thơ, đã phân tích đặc điểm này của thơ. Theo ông, “Thơ cần khoảng trống.” Nếu ngôn ngữ là yếu tố chính thì khoảng trống cũng là những “thi liệu” bổ túc và tương ứng để xây dựng bài thơ. Ngu Yên phân biệt ba loại khoảng trống:

a) khoảng trống văn phạm là các dấu phẩy, dấu chấm;

b) khoảng trống trực quang (visual space) như trong thơ thị kiến (visual poem), trong đó ngôn ngữ không đóng vai trò chủ động, trái lại là các ký hiệu; và

c) quan trọng nhất là những “khoảng trống trừu tượng”: Đó là “những khoảng trống vô hình chen giữa những ý tưởng trong nội dung bài thơ.” “Khoảng trống trừu tượng là một đặc tố làm cho thơ bí ẩn, cao kỳ, cùng một lúc, tạo nên mơ hồ, khó hiểu, nhưng là yếu tố giúp bài thơ phát triển.”

Theo tôi, bàn về khoảng trống, Ngu Yên đã nêu lên được một đặc tính hết sức quan trọng trong việc làm thơ. Biết sử dụng khoảng trống, nhất là khoảng trống trừu tượng, đòi hỏi một trình độ làm thơ cao. Khoảng trống trừu tượng chính là những khoảng trống về ý và tứ thơ, vừa để dung chứa những hàm ý vừa để dành không gian cho người đọc tự mình “điền vào” cho đủ nghĩa nếu muốn hiểu trọn vẹn bài thơ. Nhưng lạm dụng khoảng trống sẽ đưa đến hiệu ứng ngược: tùy tiện tạo khoảng trống như xuống hàng, vắt dòng bừa bãi sẽ “chứng tỏ sở học và trình độ” kém, theo tác giả.

Các khoảng trống trong thơ là một thách đố lớn đối với người đọc. Để thưởng thức một bài thơ, độc giả phải tự “điền” vào những khoảng trống bằng cách “dịch” chúng ra một cách nào đó, hoặc để hiểu cho đúng ý tác giả hoặc để hiểu một ý nào khác do bài thơ gợi nên.

Trước hết, xin thử“dịch” một đoạn thơ của Nguyên Sa trong bài “Em gầy như liễu trong thơ cổ”.

Anh nhớ sông có nguyệt lạ lùng

Có trời lau lách chỗ hư không

Em tìm âu yếm trong đôi mắt

Thấy cả vô cùng dưới đáy sông

Đoạn thơ này tương đối dễ “điền” vào khoảng trống vì ý nghĩa khá rõ ràng, đọc lên là hiểu ngay:Anh nhớ chúng mình đã từng ngồi nơi bến sông, nơi có hình ảnh của mặt trăng phản chiếu dưới mặt nước và nơi có rất nhiều lau lách mọc ở những khoảng trống ven sông. Ngồi bên anh, em nhìn anh, trong khi muốn nhìn thấy sự âu yếm từ đôi mắt anh, thì lại tìm thấy đôi mắt anh như đáy sông, sâu vô cùng.

Nhưng một bài thơ khác, “Phục Sinh” của Thanh Tâm Tuyền, thì không đơn giản như vậy.

tôi buồn khóc như buồn nôn

ngoài phố

nắng thủy tinh

tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

thanh tâm tuyền

buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường

tôi xin một chỗ quỳ thầm kín

cho đứa nhỏ linh hồn

sợ chó dữ

con chó đói không màu

(…)

 

tôi thèm giết tôi

loài sát nhân muôn đời

tôi gào tên tôi thảm thiết

thanh tâm tuyền

bóp cổ tôi chết gục

để tôi được phục sinh

So với thơ Nguyên Sa ở trên thì thật khác nhau một trời một vực. Đọc lên, thật không cách gì hiểu ngay ý của tác giả. Để hiểu, tôi tìm cách “điền” vào những chỗ trống của hai đoạn thơ trên như sau (những chữ in nghiêng là của bài thơ):

Có lần,“tôi buồn khóc”y như có lần tôi buồn nôn. Ở “ngoài phố” bây giờ, “nắng” sáng lên như màu “thủy tinh”. Nhớ em quá, không biết làm gì, “tôi” bèn “gọi tên tôi”, cho nguôi nỗi “nhớ”.Những ngôi “sao” ban “chiều” chiếu “vào giáo đường”, ánh sáng lấp lánh trên tháp “chuông vỡ” vụn ra. Bỗng nhiên, “tôi” muốn vào “giáo đường”, kiếm một “chỗ” nào đó để “quỳ”chân, rồi “thầm kín” cầu nguyện. Ở đó, tôi cảm thấy “linh hồn” tôi như một “đứa” trẻ “nhỏ”, thường rất “sợ” những con “chó dữ”, những “con chó” đang “đói”chẳng có “màu” sắc nào rõ rệt. (…) Không hiểu sao, tự nhiên tôi rất “thèm giết” chết “tôi” (tự tử), cảm thấy mình như đã từng là một kẻ “sát nhân”. Tôi bèn “gào” lớn “tên” tôi một cách “thảm thiết”. Tôi có ý muốn tự “bóp cổ tôi chết” để rồi sau đó “được phục sinh”.

Khi tạm nắm được ý nghĩa nhờ điền vào chỗ trống, nhìn trở lại mới thấy cái tài tình của cách sử dụng ngôn ngữ thơ. Nó hàm ẩn, đa nghĩa, súc tích, cô đọng. Nhờ biết “cắt” đi những chỗ và những chữ không cần thiết, ngôn ngữ bài thơ bây giờ đâm ra đắt giá. Nó tự đủ, không cần nhờ vả những nhóm từ đi kèm, không cần thì, mà, và, là, bởi vì, vân vân.

Bây giờ, tôi thử nghiệm một kiểu khác: chuyển một đoạn văn của Dương Nghiễm Mậu thành một hình thức tương tự như thơ, tạm gọi là…thơ xuôi:

“Tôi” không thể đứng lâu hơn được nên “ngã quỵ xuống”. Quá “mệt mỏi” tôi phải cố sức bò lần vào một túp lều bỏ không rồi lăn mình xuống đấy. Tôi “nằm im”một lúc cho hồi tỉnh rồi cố dậy “sờ soạng trong bóng tối” xem có cái gì có thể ôm vào người được cho đỡ “cô đơn”, nhưng sờ soạng mãi tôi mới nhận ra có “một cái bàn nhỏ” và có “một cái ghế dài” nhỏ.” (Cũng Đành)

Tôi ngã quỵ xuống

mệt mỏi

nằm im

sờ soạng trong bóng tối

cô đơn

một cái bàn nhỏ

một cái ghế dài

Trông cũng…bí hiểm kém gì ai! Đúng là biến một sự kiện dễ hiểu thành …mật ngữ (!) Về mặt hình thức, nó chẳng khác gì một bài thơ tự do, một bài thơ cách tân. Thực ra, đó chỉ là những chữ lượm lặt rồi ráp lại. Nó có vẻ có nghĩa, nhưng thực ra là vô nghĩa. Và không “thơ” chút nào.

 

Cuối cùng, xin mời đọc một bài thơ thời sự…hậu bầu cử ở Hoa Kỳ tháng 11/2020.

Tôi Không Phải Mỹ Đen

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

tuy khác tổng thống nhưng chung một giàn.”

 

Đêm trước, thức xem kết quả bầu cử.

Kết quả chia rẽ dân Mỹ, quyền lợi chính trị, tương lai kinh tế.

Kết quả cá độ toàn cầu.

Kết quả xoay chiều cán cân quyền lực thế giới..

Đáng ngạc nhiên:

Kết quả chứng nghiệm ngôn ngữ và hành vi dân Việt.

Quá nửa khuya,

phiếu bầu ông Trump thắng thế.

Phe này reo hò, phe kia ủ rũ,

Quá mỏi mệt, tôi ngủ ngồi.

Chiêm bao.

Thấy ông Trump đến nhà.

Hỏi thăm sức khỏe.

Ông sờ tôi từ đầu đến chân.

Sờ đến đâu,

tôi trắng đến đó.

Cảm giác sung sức,

Bật dậy.

Chạy nhảy ra đường.

Phò Trump.

Khi trở về,

vợ con không nhận ra.

Ông Mỹ trắng nào đây? Không phải chồng. không phải cha.

Mất vợ, xa con, sợ hãi.

Tôi thức dậy.

Sung sướng thay, tôi vẫn là người Việt.

Làm ơn, nhắc nhở tôi hàng ngày.

Đừng bao giờ để tôi tưởng mình đồng hạng Mỹ trắng.

 

Hôm sau,

kết quả bầu cử đổi ngược,

ông Biden thắng thế.

Phe kia ủ rũ, phe này reo hò.

Đời sống luôn luôn mở ra nhiều kinh ngạc.

Tôi kinh ngạc về những người Việt tử tế mất lương tri.

Dùng lời lẽ tục tằn, nguyền rủa, sỉ nhục.

Sử dụng chữ nghĩa dơ bẩn gán ép đồng hương.

Đến độ, báo Mỹ nhận định người Việt thích gọi nhau là chó.

Văn hóa 4000 năm chửi người là đĩ.

Khi tranh cãi, đào mồ, lật mả, trần truồng tổ tiên.

Thầy giáo hỏi: - Con học ở đâu lời lẽ tục tĩu, bỉ ổi như thế?

Mẹ hỏi: - Sao con đối đồng hương tồi tệ như vậy?

Cha nói: - Làm người phải chừng mực.

Đừng làm những gì

không muốn người khác làm cho mình.

Nhưng cả ba đều đã qua đời.

Facebook ghi lại ngàn năm sau chứng tích.

Hành vi người Việt lại càng lạ lẫm.

Chống cộng, chống Trung Quốc, không bằng chống nhau.

Chạy xe, kéo cờ, xỉ vả, hăm dọa.

Internet cất giữ hình ảnh cho con cháu xem.

Còn quá nhiều nữ kiệt, anh hùng, sao lại mất nước?

Còn quá nhiều nhiệt huyết, sao không cứu dân oan?

Còn có thể giết nhau, sao không giết Trung Cộng?

 

Đêm qua,

chiêm bao.

lại thấy ông Trump đến nhà.

Giận dữ và im lặng.

Ông sờ tôi từ chân lên đầu.

Sờ đến đâu,

tôi đen đến đó.

Đến khi ông quì gối lên cổ,

như bị mộc đè,

tôi bất động,

chỉ cố gắng thều thào:

- “Ông ơi, tôi không phải Mỹ đen.”

Ngu Yên

Bài thơ như một đoạn văn xuôi, trông như chẳng có khoảng trống nào, và không cần phải “dịch”. Văn xuôi, nhưng vẫn không phải là văn xuôi. Các chi tiết liệt kê thì rất cụ thể, nhưng thực ra, không cụ thể chút nào. Bài thơ có rất nhiều “khoảng trống trừu tượng” mà người đọc cần “điền” vào; và về sau này, khi trang sử bầu cử đã đi qua, thế hệ kế tiếp còn cần phải tìm hiểu thêm về lịch sử cuộc bầu cử độc đáo nhất trong lịch sử Mỹ của năm 2020 để điền vào một khoảng trống khác, “khoảng trống lịch sử”, mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của nó.

Trần Doãn Nho

(11/2020)

1 Dẫn theo Robin Guilloux, Jean-Paul Sartre, Qu’est-ce que la litérature?

Xem: http://lechatsurmonepaule.over-blog.fr/2014/12/jean-paul-sartre-qu-est-ce-que-la-litterature.html

2 Ý Thức Sáng Tác Thơ, Ngu Yên biên soạn, “Insperative Esquisse Press” xuất bản, phát hành tháng 9/2019. Xem các trang từ 163 đến 173. Có thể xem bài điểm sách tác phẩm này ở Người Việt:

https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/y-thuc-sang-tac-tho-tac-pham-moi-cua-ngu-yen/

3 Xem ở Việt Báo:https://vietbao.com/a305642/toi-khong-phai-my-den-