Nếu mỗi bài thơ là một cô gái thì ở cái xứ sở luôn tự hào là
vương quốc của thi ca này, con gái nhiều như lá đổ muôn chiều. Con
gái đương nhiên là dễ thương, ô hay con gái bay nhiều quá/ những cánh
tay mềm như cánh chim.Và nếu bảo mỗi bản nhạc là một chàng trai, thì đúng
là trai thiếu gái thừa. Do vậy, các chàng rất chảnh, anh cứ đi dường anh, em cứ
đi dường em, rất hiếm những cuộc gặp gỡ để đi đến hôn nhân, dù nhà thơ nào cũng
rất muốn con gái yêu của mình lọt vào mắt xanh của các chàng.
Thực ra cũng có khá nhiều, phải nói là quá nhiều những cuộc hôn phối giữa thơ và nhạc. Nhà thơ nào có chút ít tiếng tăm cũng có ít ra vài ba bài thơ được phổ nhạc để đem ra khoe cho xứng với đẳng cấp của mình. Nhà thơ Du Tử Lê bảo ông có đến những hơn 300 bài thơ như vậy. Có điều chúng chỉ được ra mắt đôi ba bận trong chỗ thân quen rồi lặng lẽ biến mất. Có thể vì cuộc hôn phối quá gượng ép, hoặc cô gái không đủ đẹp, hoặc chàng chỉ có bộ mã “đẹp giai” chứ chẳng có tài cán gì.
Nhưng nói thế, không có nghĩa là không có những cuộc hôn phối
dài lâu trên cả ước mơ. Như bài Còn một chút gì để nhớ! thơ của
Vũ Hữu Định, nhạc của Pham Duy. Cô gái Pleiku má đỏ môi hồng, chẳng
những mắt em ướt, tóc em ướt mà da em còn mềm như mây trời trong nữa.
Em xinh quá nên chàng nhạc sĩ đào hoa họ Phạm tuy có hơi già nhưng vẫn chết mê
chết mệt vì em. Cuộc hôn phối diễn ra ở một nơi buổi chiều quanh năm
mùa đông không ngờ tốt đẹp đến nỗi cái phố núi buồn hiu đi dăm
phút đã về chốn cũ, và lính nhiều hơn dân ấy bỗng nổi
như cồn. Giống như cái xóm nhỏ bên ghềnh đá có tên gọi Sorento ở nước Ý được cả
thế giới biết tiếng vì bài hát come back to Sorento. Đương nhiên “ông bố” Vũ Hữu
Định, một anh lính chiến trên đồn biên giới cũng nổi tiếng không kém. Từ đây,
người ta xót xa cho cái nghiệp lính thú của anh, một nơi mà chỉ huy hai
bên ném binh như vãi đậu và khám phá ra, anh là một chàng thi
sĩ rất cô đơn. Khi anh nói “xin cảm ơn thành phố có em!”, cả Pleiku,
lính và dân đều ngẩng cao đầu hảnh diện. Đến khi nữ danh ca Lệ Thu cất tiếng
hát, thì phải nói cả nước đều xúc động. Chưa có lời cảm ơn nào ngọt ngào, dễ
thương bằng lời cảm ơn thốt ra từ đôi môi xinh đẹp của cô. Cảm ơn một
mái tóc mềm! Sao mà tinh tế dịu dàng đến như vậy! Hóa ra lính miền Nam đâu
có phải chỉ “nhắm thẳng quân thù mà bắn”, họ còn lãng mạn điệu nghệ gấp mười lần
các chú lính miền Bắc nữa kia.
Lại có những cuộc hôn phối không giống ai, có thể gọi là xưa
nay hiếm, rất khó mà viên thành nếu không qua cây đũa thần của Phạm Duy. Tôi muốn
nói đến những bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên được ông phổ nhạc.
Nguyễn Tất Nhiên là một cậu học trò 17 tuổi ở trường trung học
Ngô Quyền, thành phố Biên Hòa. Nghèo, học không giỏi (rớt Tú tài), dân miền Nam
mà lại yêu cô Bắc kỳ nho nhỏ, yêu điên điên dại dại, khiến người “bị yêu” chứ
không phải “được yêu” mắc cỡ, rồi làm thơ tỏ tình giữa sân trường, không được
liền trù ẻo cho nàng thi hỏng để biết thế nào là cái đau của kẻ hỏng thi!
Một người từng trải như Phạm Duy, đã xúc động trước mối tình
nhẹ nhàng của chàng quân nhân thi sĩ, sao lại có thể “chịu” một thằng “oắt con”
khùng khùng dại dại như thế, với những bài thơ chưa ra thơ, ồn ào gây sự, chứ
không phải đằm thắm nồng nàn, là sao vậy?
Cô gái trong ca dao bị mẹ ép duyên đã gào lên một cách cay đắng
như thế này:
Mẹ tôi tham thúng xôi dền
Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng
Tôi đã bảo mẹ rằng: Đừng!
Mẹ hấm mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
Bây giờ đất thấp trời cao
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ!
Nguyễn Tất Nhiên so với Phạm Duy đúng là đất thấp trời cao
và cuộc hôn phối giữa thơ và nhạc ấy giống như đôi đũa lệch, vậy mà từ xưa đến
giờ không có cuộc hôn phối nào đình đám lẫy lừng bằng.
Rất nhiều bài của Nhiên được ông phổ nhạc, bài nào lúc mới
ra đời cũng trở thành hiện tượng, chỉ xin đưa ra bài Thà như giọt mưa để
thử xem cái “duyên trăm năm”nào đã đưa hai tâm hồn tưởng chừng lạc điệu ấy lại
có thể hòa điệu với nhau nồng nàn đến như vậy.
Trước hết hãy nói đến “cô gái” vừa xấu vừa ngỗ nghịch của
ông “bố” Nhiên. Mở đầu: thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá, rồi sau
cùng vỡ trên mặt Duyên, để nàng ăn năn đau khổ muôn
niên vì cái tội không yêu mình! Cái điều kiện thà như…có
còn hơn không được đặt ra với người từ trăm năm về qua sông rộng,
ngoắc đến “mòn!” tay mà vẫn không thèm ngó lại, đúng là lẩn thẩn và liều mạng.
Rất khùng! Khùng hết biết! Nhưng với Phạm Duy, có lẽ ông
thích cái khùng của cậu ta, (chắc vì lúc mới lớn, ông cũng đã từng “khùng” như
thế), một gã khùng hiếm có và dễ thương!Trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng
Linh, một chàng nọ có bàn tay 6 ngón, bị cô nàng thách, nếu yêu tôi thì thử chặt
ngón tay thừa xem nào, chàng bảo khó gì, liền lấy búa chặt phăng khiến nàng
kinh hoàng, nhưng cũng từ đó cảm vì cái khùng tội nghiệp mà đáp lại tình chàng.
Thơ cậu ta chẳng những lạ mà còn kỳ cục, nào ngoắc
mòn tay, về như dao nhọn, ta chạy lòng vòng, quỳ té trên đường đời, sợi tóc
vương chân người/ ta hỏng tú tài/đau lòng ta muốn khóc…
Tình không giống ai, mà thơ cũng chẳng giống ai! Nhưng với một
nghệ sĩ bậc thầy như Phạm Duy, thì ông thấy đó là cả một vườn thơ hoang dại, ở
đó có tiếng khóc ngất ngây, có tiếng gầm gừ hậm hực, có tiếng đập hỗn loạn của
một trái tim đang phát cuồng…và thế là, với tài nghệ tuyệt vời, ông đã biến những
bài thơ mà thủa đó, gần như cả thầy và trò trường Ngô Quyền đều cười nhạo, trở
thành những bài tình ca thuộc hàng top ten.
Từ những cô gái xấu, thơ của Nhiên thoắt cái đã trở thành những
kiều nữ và từ cậu học trò hỏng Tú tài sắp phải đi quân dịch, Nhiên vụt lớn hẳn,
ngang hàng với những thi sĩ như Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng.
Một cuộc hôn phối khác có thể nói là cực kỳ viên mãn, đó là
bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây của Quang Dũng được Phạm Đình
Chương phổ nhạc. Bài thơ tự nó đã có nhạc điệu của thơ mới 7 chữ, thêm những
hình ảnh buồn của sông xa từng lớp lớp mưa dài, của xứ
Đoài mây trắng lắm, của đôi mắt buồn viễn xứ khôn khuây không
cần đến âm nhạc vẫn hay, nếu không muốn nói là quá hay. Bài thơ được
viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp lúc tác giả tham gia Tây tiến
trong đoàn quân không mọc tóc, có thể gọi là thơ yêu nước. Nhưng
hàng chục năm sau với nỗi nhớ quê hương, nhớ đôi mắt buồn của ai đó, Phạm Đình
Chương đã chuyển thành bài nhạc tình rất thắm thiết. Rồi sau 75, nó trở thành
kinh cầu hồn cho những người bỏ nước ra đi. Đôi mắt người Sơn Tây chuyển
thành đôi mắt người Việt Nam,! Mà trong số hàng triệu người miền Nam
phiêu bạt trên khắp thế giới có biết bao đôi mắt u uẩn chiều luân lạc,
buồn viễn xứ khôn khuây như thế. Hóa ra bằng tài nghệ kinh động đến cả
quỷ thần, Quang Dũng và Phạm Đình Chương đã nhìn thấy trước, như hai nhà tiên
tri, cái số phận bi thương của cả dân tộc!
Viết đến đây tôi bỗng muốn khóc vì nhớ lại tấm hình chụp cha
con Quang Dũng ở Đà Lạt sau 75, trông ông hãy còn cao lớn dềnh dàng nhưng xơ
xác tội nghiệp làm sao. Sau bao năm đói khát, được mời một tô phở, ông ngồi ăn
nhẩn nha thật chậm như vừa để thưởng thức mà cũng vừa để nuốt cho trôi cái cục
nghẹn suốt bao năm bị đày đọa chỉ vì những đố kỵ nhỏ nhen. Hồi đó Phạm Đình
Chương đã ở Mỹ, Thái Thanh cũng vậy, nhạc “đồi trụy” bị cấm, bị tịch thu, chắc
là cho đến khi nhắm mắt ông cũng chưa bao giờ thấy được đứa “con gái yêu” của
mình trở thành cô dâu xinh đẹp mà mắt thì đẫm lệ vì thiếu vắng “cha”! Ước gì
lúc này, được đứng trước mộ ông thay vì mời rượu tôi sẽ mở bài Đôi mắt người
Sơn Tây để mời ông.
Ông và Phạm Đình Chương, bằng tài năng và đồng cảm đã làm
nên một tuyệt tác, rồi lại được tiếng hát “vượt trùng dương” của Thái Thanh thể
hiện, quả thực không biết tìm đâu ra lời để ngợi ca. Tôi chỉ muốn nói, qua giọng
ca của Thái Thanh và chỉ của Thái Thanh, người nghe mới thấy được và thấm được
cái nỗi nhớ và nỗi đau nó da diết thống thiết đến chừng nào. Cái cảm giác nghèn
nghẹn đau đớn được cô luyến láy qua hai tiếng u uẩn quả
thực thần kỳ, khiến nó trở nên quằn quại ray rứt và buồn viễn xứ
khôn khuây như uốn lượn theo hình “sin”, khiến cho, giả dụ rằng có
Phạm Đình Chương và Quang Dũng cùng ngồi nghe, nhất định nước mắt sẽ chảy tràn
trên mặt hai người, vì xúc động và vì lòng biết ơn.
Trên đây là 3 ví dụ cho các cuộc hôn phối giữa thơ và nhạc.
Giống như những cuộc hôn nhân giữa tài tử và giai nhân, người ta cho rằng hẳn
phải có một sự sắp đặt của số mệnh, thì thơ và nhạc gặp nhau cũng vậy, chắc phải
do một bí mật huyền nhiệm nào đó. Ngày mà Phạm Duy hay Phạm Đình Chương cầm cây
đàn lên vừa lẩm nhẩm đọc thơ vừa lựa từng âm thanh đưa vào năm dòng kẽ, rất giống
một nghệ sĩ điêu khắc cầm búa và đục, đánh thức cái tác phẩm tuyệt mỹ đang ngủ
giấc ngủ hàng ngàn năm trong đá. Đó là lúc, cũng có thể gọi là giờ phút
thiêng liêng đã khởi đầu, khi thi nhân và nhạc sĩ gặp nhau trong giây phút
thoát thần của sáng tạo.
Nhưng, một bài thơ phổ nhạc chỉ thành công khi nào được công
chúng đón nhận. Như bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan, người
nghe thích bài của Dzũng Chinh hơn bài của Phạm Duy, mặc dù tên tuổi của Phạm
Duy lớn hơn. Ấy là nhờ Dzũng Chinh thực sự xúc động vì cái chết của người vợ trẻ,
còn Phạm Duy chỉ muốn thử tài của mình mà thôi.
Những đồi hoa sim, ôi những đồi hoa sim tím cả chiều
hoang biền biệt!. Dzũng Chinh đã làm mới lời thơ, và khoác lên cái chết của
người vợ trẻ không phải một màu tang u tối mà là một màu tím lãng mạn, khiến
người nghe như đang trôi vào một giấc mơ buồn.
Phạm Duy, chẳng những đổi tên thành Áo anh sứt chỉ
đường tà mà còn đổi cả hồn khi cho rằng, vì không chết người
trai chiến tuyến mà chết người em gái hậu phương theo lời ông, chính
là một khúc anh hùng ca trong thời kháng chiến, nên ông đã dùng tiết điệu trầm
hùng để diễn đạt! Có vẻ như ông muốn biện hộ cho Hữu Loan, người bạn bị vùi dập
chỉ vì bài thơ khóc vợ dù dấu kín trong đáy ba lô vẫn được lan truyền khắp nơi,
khiến cho những người lính vệ quốc mất hết tinh thần chiến đấu.
Như thế là cưỡng hôn nên đứa con đầu thì to, chân thì vẹo mà
trái tim thì không có hoặc quá nhỏ! Theo tôi, đây có lẽ là một thất bại hiếm
hoi của ông và là một thất bại đáng buồn vì ông đã đem cái ý chí chứ không phải
cái tài vào nghệ thuật, nên chẳng những phá hỏng bài thơ mà còn làm sứt mẻ tình
bạn. Tôi tin là Hữu Loan chẳng xúc động chút nào khi nghe bài hát này.
Dù vậy, ông vẫn rất xứng đáng được tôn vinh là một nhạc sĩ
vĩ đại vì, chẳng những ông để lại cho chúng ta và con cháu mai sau nhiều bài ca
bất hủ, mà còn có công khám phá, từ bóng tối đưa ra những viên ngọc xù xì rồi gọt
dũa để trở thành ngọc quý, là những bài thơ sẽ mãi mãi bị vùi lấp trong quên
lãng nếu không được ông để mắt tới.
Xin cảm ơn ông, cảm ơn Phạm Đình Chương… và cảm ơn những giọng
hát của thế kỷ, những Thái Thanh, Lệ Thu,.. !
Nhờ các vị mà miền Nam dù đã mất nhưng hãy còn và vẫn còn một
chút gì để nhớ, để quên!
Bài này được viết sau khi nghe tin Thái Thanh và Lệ Thu
qua đời. Như một nén tâm hương của người ái mộ, tưởng nhớ đến hai bà. Những chữ
in nghiêng trong bài, tác giả mượn của các thi sĩ.
Khuất Đẩu