08 April 2021

ĐÃ TƯỞNG CHỪNG... - Hồ Phổ Lại

Đang đi ngon trớn xơ Mân bỗng bước chậm lại, đưa tay lên, chỉ.

- Còn đây là nơi an nghỉ của đức cha Sanh người sáng lập ra trại cùi Di-linh nầy.

Ngước mắt lên, Nguyện nhìn thấy một ngôi mộ. Một ngôi mộ, thoạt mới trông qua cũng tầm thường như trăm ngàn ngôi mộ khác, với cây thanh giá vươn lên trong nắng. Có khác chăng là vùng cây lá vây quanh thì lại thắm tươi chứng tỏ rằng hàng ngày vẫn được một bàn tay nào tận tình chăm sóc đến.

- Nơi đây chúng tôi gọi tên ngài là tông đồ của người Hủi.

«Tông đồ của người Hủi»! Trong ngơ ngác, Nguyện lặp lại, nhưng cũng tự động nhích người tới trước khòm lưng xuống, lầm thầm đọc.

- Thưa dì, tên khắc trên tấm bia là Jean Cassaigne; con vừa nghe dì gọi tên ngài là đức cha Sanh.

Một nụ cười tươi rói nở bùng ra làm hực sáng khuôn mặt vốn khép kín và rất đỗi nghiêm nghị của người nữ tu còn trẻ.

- Chị chưa bao giờ được nghe ai kể qua về tiểu sử của ngài?

Ngó lơ qua chỗ khác, Nguyện lúng búng trả lời trong họng:

- Thời chưa lập gia đình, con là người ngoại đạo.

- Chị muốn nghe?

Khép nép, Nguyện gật đầu. Đâu lưng lại với dì Mân, Nguyện vén áo ngồi bệt xuống, ngay trên mặt tảng đá đặt kế cận ngôi mộ của cha Sanh. Lợi dụng giây phút xơ Mân còn mê mải trầm ngâm, Nguyện đưa mắt nhìn một vòng bao quát khung cảnh rừng núi bạt ngàn vừa dàn trải ra trước mắt nàng. Điều làm Nguyện thích thú nhất là: đây, lần đầu tiên nàng có dịp và có đủ thì giờ để săm soi nhìn kỹ cả một trời bao la nắng ráo đang buông xuống đâu từ trên mấy tầng mây vòi vọi sáng. Lạ một điều là: cũng cùng một thứ nắng xế trưa, nhưng khi đậu lại trên đỉnh những ngọn cây bị gió làm lay động không ngừng thì huy hoàng và sinh động biết bao, còn lúc trải dài giăng rộng ra nơi đồng không mông quạnh thì lại mang màu sắc của một vũng lầy vừa nhễ nhại vừa ù lì, gần như vô vị.

- Phải, tên thật của ngài là J. C.

Tiếng nói bất thần của xơ Mân làm Nguyện giật mình.

- Cha Sanh gốc người Pháp. Ngài là con trai độc nhất của một gia đình thương gia giàu có. Vừa đến tuổi trưởng thành, ngài lìa cha mẹ khoác áo nhà tu. Năm 1925, lúc tròn 30 tuổi ngài đến Việt Nam. Chỉ hai năm sau (1927) ngài từ chức giám mục địa phận Sài gòn để khăn gói lên đây.

Mới kể đến đoạn đó, chưa gì giọng nói của xơ Mân đã hạ thấp xuống, bùi ngùi bứt rứt đến độ Nguyện phải cố vểnh tai lên để nghe cho rõ.

«Chị cứ tưởng tượng lại coi. Cái tỉnh lỵ Di-linh nầy ngay bây giờ còn lạc hậu như vậy, huống nữa ở vào thời điểm của những năm 26, 27. Vùng nầy quả xứng đáng là đại diện của loại vùng cao vùng sâu, vùng của rừng thiêng nước độc, của bản làng heo hút, của niềm tin và trình độ dân trí còn tồn đọng lại đâu từ ngàn vạn năm trước. Đó là chưa kể tới những vụ lỉnh kỉnh khác: bệnh tật triền miên, nghèo đói bốn mùa, tai trời ách nước, người mạnh lấn kẻ yếu.

Cũng nhờ đó...

Và, cũng vì đó...

Dầu, gặp phải sự trở ngại trong vấn đề ngôn ngữ; dầu, gặp phải bức rào cản kiên cố từ muôn xưa đã được xây dựng nên bằng những loại mê tín, bùa chú, ếm trù, trừ tà, yểm quỷ của dân chúng địa phương; dầu, từng giờ từng phút phải tự mình làm sao khắc phục và bình địa cho bằng được cái khoảng cách nghìn trùng gây ra bởi nếp sống giàu sang rất mực và văn minh tột cùng nguyên là xuất xứ của bản thân ngài, với sự nghèo khó tự căn bản và sự chậm tiến muôn đời nguyên là vốn liếng do ông bà tổ tiên chúng ta để lại; bất chấp hết, ngài quyết định ở lại và ở lại mãi mãi tại nơi chốn nầy.

Từ đó...

Từng phiến đá, từng khúc cây, từng sợi mây, từng nhánh lá...; lượm lặt, quơ quào, gói bó, kéo lôi, gánh gồng, khuân vác... Ngày gió đêm mưa, thú dữ vờn, sên vắt đeo. Mặc kệ. Thui thủi trên những con đường trơn như mỡ. Bám đôi chân vào phiến đá lởm chởm nầy, víu đôi tay vào mỏm núi nhọn hoắt kia. Cày cục từng bước. Để cuối cùng, ngài rị mọ dựng nên một trại cùi. Và, lần đầu tiên, nhóm người Thượng với cặp chân què quặt, với khuôn mặt sứt mẻ, với đôi mắt kèm nhèm lở loét; từ đời thuở nào vẫn kéo lê lối sống chui nhủi, hoặc giữa lùm cây hoặc dưới hốc đá, có một chỗ để về. Có mái nhà để che nắng tránh mưa, chưa đủ, họ còn cần cơm ăn áo mặc, nước uống, bông băng thuốc men v.v. Một hình một bóng, cha Sanh tất tả ngược xuôi. Hai năm sau (năm 1959), lúc trại cùi đầu tiên trở thành một làng cùi tương đối đầy đủ và có hệ thống, cha Sanh nhuốm bệnh. Chứng bệnh đầu tiên chiếu cố đến cơ thể ngài là bệnh sốt rét kinh niên. Là một trong những loại bệnh vẫn thường xuyên có mặt tại miền núi non ẩm thấp và bầu không khí đầy sương lam chướng khí ở đây. Mà, càng bệnh hoạn ngài càng quần quật: lấy đêm làm ngày. Không những chỉ miệt mài xây dựng, ngài còn dùng chính đôi tay gầy yếu của mình để vỗ về, nâng đỡ, chăm sóc từng bệnh nhân một. Chuyện phải đến, phải đến: mười năm sau nữa, ngài bị lây chứng bệnh cùi. Với cha Sanh, yếu tố thời gian qua đi, tuổi tác kéo đến, bệnh tật chất chồng...; không phải là những chướng ngại vật đáng kể mà chỉ là những động cơ thôi thúc cái ý chí sắt đá và tấm lòng sâu như biển cả của ngài. Vẫn tiến tới và tiến tới không ngừng. Làng cùi càng bành trướng, bệnh nhân cùi từ bốn phương tám hướng càng lũ lượt bò về thì cơ thể của cha Sanh càng kiệt quệ. Chỉ mấy năm sau nữa, ngài mắc thêm bệnh lao xương. Qua năm 1963, sau khi tạo dựng được 38 căn nhà nuôi bệnh, ngài vướng phải chứng nan y thứ tư: lao phổi.

Năm 1973, nằm trong gian nhà gỗ rộng trên dưới 10 thước vuông, giữa khung cảnh y nguyên của thời điểm từ 50 năm trước, - thuở ngài vừa chân ướt chân ráo đặt bước tới vùng nầy - cực kỳ giản dị, đúng nghĩa nghèo nàn, cha Sanh hấp hối. Sau đây là những lời ngài trăng trối lại : Hãy chôn cha tại đây, giữa những người bệnh thân thiết của cha. Hãy xây đắp phần mộ cho cha bằng thứ đất đỏ của miền cao nguyên núi Thượng nầy. Hãy đẽo gọt cây thánh giá cho cha bằng thứ gỗ lấy từ góc rừng nầy...»

Dì Mân ngồi lẳng lặng một hồi lâu, trước khi chịu mở miệng nói tiếp:

- Hơn 40 năm trôi qua rồi, kể từ ngày cha Sanh khuất bóng. Nơi đây chỉ còn sót lại nắm xương tàn và công trình được tạo dựng nên bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương và trọn một cuộc đời dâng hiến. Ngài tình nguyện dâng hiến gia đình mình, giòng họ mình, quê hương mình và cả thân xác mình nữa chỉ để sống và để chết cho những kiếp người không cùng màu da, không cùng máu mủ, không cùng chủng tộc, không có bất cứ liên hệ xa gần nào với mình. Chỉ vì... Họ đã lỡ sinh ra đời với số phận hẩm hiu, đành rồi, bên cạnh sự xui rủi tột cùng đó họ còn là nạn nhân trường kỳ của sự ghẻ lạnh, kỳ thị, độc ác đến từ thân nhân ruột thịt và từ những con người được mệnh danh là cùng một nguồn gốc và cùng một quê hương với họ.

Dừng lại, thở dài, xơ Mân tần ngần đi đến kết luận:

- Dựa theo gương của ngài, chị định nghĩa ra sao về hai từ to lớn sau đây: Ta với Người.

Câu hỏi bất ngờ của xơ Mân, dầu muốn hay không muốn, Nguyện vẫn cảm thấy như nàng đang bị du vô cái thế phải liên tưởng tới sự gần gũi và thân thiết của hai từ na ná khác: Ta với Tôi. Không dưng, Nguyện đâm ra thẹn thùng. Một nỗi thẹn không hiểu đúng hay sai, không hiểu nhiều hay ít, và có căn cứ hay hoàn toàn vô căn cứ. Nhưng chắc chắn một điều là Nguyện có thẹn, đến lặng ngắt cả người. Thấy Nguyện cứ ngồi im thin thít, như chợt hiểu ra xơ Mân phủi tay, đứng dậy. Hướng về phía con đường cái quan, xơ Mân cất bước. Cũng lồm cồm đứng dậy, Nguyện lầm lũi bước theo dấu chân xơ. Yên lặng một hồi, xơ Mân lại lên tiếng hỏi:

- Tuần sau chị về bên đó? Biết đến bao giờ xơ mới được gặp lại chị lần nữa?

«Biết đến bao giờ »; có thêm một lần, Nguyện lại ú ớ. Vì, sự thật Nguyện cũng hoàn toàn mù tịt về bất cứ câu hỏi nào có liên can xa gần tới cái tương lai vô định của chính nàng.

*

Xe lăn bánh, chạy đi.

Ngoái đầu lại, Nguyện mường tượng như còn nhìn thấy dãy nhà cùi thấp thoáng sau hàng hàng lớp lớp cây hoang, thấy ngôi mộ của đức cha Sanh phủ toàn đất đỏ và, sau hết, thấy cái bóng của xơ Mân trong chiếc áo dòng đen thẫm đứng chênh vênh bên đường. Xe càng chạy, đôi mắt Nguyện càng mờ mịt hẳn đi.

- Bà có họ hàng gì với xơ Mân không?

Câu hỏi của bác tài đột ngột vang lên làm Nguyện thấy nhẹ nhõm cả người. Không muốn bỏ lỡ cơ hội, Nguyện bắt chuyện liền.

- Anh cũng quen xơ Mân?

- Nội quanh đây, ai không quen xơ Mân.

Lối nói chuyện thân tình, cởi mở và không cần rào trước đón sau của bác tài làm Nguyện vô cùng thoải mái.

- Anh có biết xơ Mân đi tu vào năm nào không?

- Năm nào thì tôi không nhớ, nhưng có một điều chắc chắn là xơ Mân có mặt tại đất Di-linh nầy ít ra cũng xấp xỉ 20 năm.

- Nói vậy, lúc tới đây xơ còn trẻ lắm?

- Bây giờ xơ cũng còn trẻ chán; nói gì hồi đó.

Ngẩn người ra, Nguyện nhớ lại. Nhưng, một phần vì muốn tự mình làm quên lãng bớt nỗi buồn phiền còn đầy ăm ắp trong lòng, một phần vì muốn thâu ngắn lại quãng đường còn xa thăm thẳm, Nguyện cố tình tìm mọi cách để câu chuyện được tiếp tục.

- Có bao giờ anh nghe ai nói qua về lý do vì sao xơ Mân đi tu không?

Vẫn chăm chăm chú chú nhìn suốt con đường bụi mù trước mặt, bác tài co tay lên gãi tai, ra chiều đang cố gắng nhớ lại một câu chuyện theo thời gian đã trở thành xưa cũ, nhưng dầu gì, vẫn là loại chuyện hiếm hoi của vùng núi non xa cách nầy.

- Nói về cái lý do thầm kín đó, là kẻ đứng ngoài làm sao chúng tôi hiểu hết được. Nhưng điều tôi còn nhớ rõ là xơ Mân tới đây lúc xơ còn rất trẻ. Nghe đâu lúc đó xơ vừa tốt nghiệp đại học.

- Xơ có bằng đại học? Vậy, anh có nghĩ rằng xơ đi tu chỉ vì muốn đi tu, hay vì...

Không đợi Nguyện nói dứt câu, cũng không cần giữ gìn ý tứ nữa, với giọng điệu bực tức bác tài la toáng lên.

- Chớ còn gì nữa! Xơ trẻ, đẹp, có học vấn, con nhà giàu.

Biết mình lỡ lời, Nguyện đành ngậm cứng miệng lại, dằn lòng đợi. Mãi đến khi thấy bác ta đã dịu giọng xuống rồi Nguyện mới dám e dè bắt chuyện lại.

- Anh có thường xuyên gặp mặt xơ Mân không?

- Có ngày nào tôi không gặp xơ đâu.

- Anh chở khách vô thăm dòng?

- Đâu cần phải vô tận dòng mới được gặp mặt xơ. Suốt ngày xơ đi đó đi đây. Buổi sáng xơ qua nhà thương lo săn sóc bệnh nhân cùi; buổi xế xơ xuống trại cô nhi - là tập hợp những đứa bé do cha mẹ cùi sanh ra và được nuôi riêng từ lúc mới lọt lòng mẹ - dạy tụi nhỏ học chữ học hát học làm thủ công; buổi chiều xơ dành riêng cho việc đi thăm viếng những bà mẹ mới nằm nơi, những người già cả phải sống một mình.

Ngạc nhiên quá đỗi, Nguyện đưa tay lên, chỉ một vòng vu vơ trước mặt.

- Đường sá quanh co trơn trợt, trồi lên trụt xuống kiểu nầy, xơ đi lại bằng cách nào?

- Còn cách nào nữa, ngoài cách lội bộ! Với cái gùi trên vai, xơ Mân trèo đèo lội suối, chui bụi nầy luồn hang khác tài tình và mau lẹ không thua kém bất cứ người đàn bà Mường Mán nào.

- Một năm có bốn mùa xuân hạ thu đông, chẳng lẽ ngày nào xơ Mân cũng chu toàn chừng đó công việc?

- Cũng có ngày vì đau ốm hay vì nhà dòng có lễ lạc, xơ Mân không đi được thì chính những thân chủ của xơ lại... rồng rắn kéo nhau vô tận dòng thăm xơ và để xin được nhận lãnh về số lượng thuốc men, sữa bột, đường muối...; nguyên là những loại quà biếu mà, khi cần, họ vẫn được xơ đem đến cung cấp tận nhà.

- ?

- Do gia đình xơ từ dưới Sàigòn gởi lên, một tháng một lần qua hệ thống xe hàng xuyên tỉnh.

Đã quá đủ cho một đoạn đường dài và cũng quá đủ cho một lần thăm viếng. Co rút hai cánh tay lại, Nguyện ngồi im phăng phắc và bắt đầu suy ngẫm: hai câu chuyện, hai mẫu đời. Họ, những anh hùng không tên tuổi. Sống cho người và chết cũng cho người. Sống cho xó rừng nầy và chết cũng tại xó rừng nầy. Trong khi đó thì... Nguyện, một khung trời hoàn toàn xa lạ, một nền văn minh bậc nhất và một cuộc đời: sống cho mình và chết cũng cho mình.

Ngoài cửa xe gió thổi ào ào. Trời Cao nguyên se lạnh, nhưng dường như Nguyện vẫn mơ hồ ngửi thấy có một cơn sốt váng vất đang vần vũ đâu đây. Rồi, không hiểu do một mãnh lực vô hình nào thúc đẩy, Nguyện vọt miệng, nói bừa:

- Anh biết không, tôi cũng muốn noi gương cha Sanh và dì Mân.

- Bằng cách nào vậy, bà?

- Tôi sẽ bỏ bên đó, trở về; lên đây và sẽ ở lại làm việc tại trại cùi...

Như vừa chạm phải lửa, bác tài nhảy nhổm người lên. Quay đầu về phía Nguyện, với hai con mắt trợn ngược thiếu điều rách cả khoé, bác hỏi lại, vành miệng gần như dí sát rạt vào tận lỗ tai Nguyện:

- Bỏ bên đó? Té ra bà mới từ ngoại quốc trở về!

Nguyện tê tái gật đầu.

- Bà sống ở ngoại quốc được bao nhiêu năm rồi?

Nhếch mép, Nguyện trả lời, hai vành môi trễ xuống như đang mếu.

- Trên ba mươi năm rồi.

- Trời đất, tới 30 năm lận!

Không cần đợi lời than vãn chấm dứt, bác hùng hổ quay mặt lại, hả rộng miệng ra, cười hô hố. Cười cợt một hồi, không biết nghĩ sao bác loay hoay cử động tay chân liên hồi, xê xê dịch dịch đôi mông cho cách xa chỗ vẫn ngồi từ nãy; cốt dành một khoảng trống cho cái nhìn soi mói được tha hồ đậu lại trên toàn bộ con người của vị khách vừa tự phương xa trở về. Ngắm nghía đã đời, bác lên giọng.

- Suy nghĩ kỹ lại đi; không phải chuyện giỡn đâu, bà Việt kiều ơi!

Rồi, lập nghiêm, bác từ tốn nói tiếp.

Ở đời, đôi khi nói thì nghe dễ ợt, vì hễ cứ mở miệng ra là nói được, nói huyên thuyên, nói vô hồi kỳ trận, hứa hẹn đủ điều; nhưng, khi bắt tay vào việc là lập tức... co vòi lại.

«Bà Việt kiều», thứ danh xưng mới mẻ và lạ đời nghe đã chối tai lại là một trong những nguyên nhân xây dựng lên hàng rào ngăn cách giữa người đi và kẻ ở; dầu không phải lần đầu tiên được nghe nhắc đến, nhưng đặc biệt lần nầy vì mặc cảm tự ti hay vì nông nỗi «giận cá chém thớt», Nguyện bỗng... nổi khùng. Gân cổ lên, Nguyện ra sức cãi lại cho bằng được:

- Cha Sanh, dì Mân làm được; tại sao tôi không làm được?

Suýt chút nữa, Nguyện đã lếu láo tuyên bố tiếp câu nầy: «Nếu tôi nói rằng, hồi đó tôi đi để có một ngày tôi trở lại thì anh có tin không?»

Nhưng, than ôi, khi nhìn thấy cặp chân mày nhíu kín và, nhất là, nhìn thấy ánh mắt lộ đầy ắp nét nghi ngờ pha lẫn nét thương hại của bác ta, Nguyện khựng lại. Gật gù, Nguyện nói nhỏ vừa đủ cho mình nghe: «Mười voi chẳng được chút nước sáo»; lời thật mất lòng. Trong lơ mơ, Nguyện hình dung nhớ lại hình ảnh những con đỉa đói, mình mẩy đen nhẻm, cong queo, ướt nhẹp, bám dai nhách trên bàn chân mốc meo của mấy bác cày ruộng mà nàng từng thấy ở quê mình, thời sơ tán.

Con đỉa đói và cái bến bờ lạnh giá phía bên kia! Bồi hồi, Nguyện bật khóc.

Québec, tháng 12/2007

Hồ Phổ Lại