Cuối năm rồi, tôi được nghe T.S Mạc
Văn Trang giới thiệu (qua) về một nhân vật hơi kỳ lạ:
“Cụ K. cán bộ lão thành chuyên làm công tác tuyên huấn, rồi
dạy lý luận Mac- Lê ở trường Đảng của tỉnh, cho đến lúc nghỉ hưu. Cụ vừa tổ chức
mừng thọ 80 tuổi khá hoành tráng. Cụ có nguyên tắc bất di bất dịch là : chỉ đọc
báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, nghiên cứu sách kinh điển, xem VTV, không bao
giờ nghe tin ngoài luồng…”
Cụ K. khiến tôi chợt nhớ đến những vị đồng hương mà mình đã gặp ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani – thuộc miền Bắc Thái. Việt Kiều tại vùng này, bây giờ, đa số là hậu duệ của những người di cư (từ Lào) vào thập niên 1940.
Lớp tiên phong đều đã qui tiên, đám cháu chắt thì
không mấy đứa nói sõi tiếng mẹ đẻ (và cũng chả quan tâm hay tha
thiết gì đến VN) còn lũ con cái thì nay đều đã bước vào tuổi xế
chiều. Trước kia, những người này thường là đảng viên cộng sản hay
thành viên (tích cực) của Hội Việt Kiều Yêu Nước. Nay, tuy không ai đọc
báo Nhân Dân hay Tạp Chí Cộng Sản – như cụ K. ở Hà Nội – nhưng cũng chỉ
đều “xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả!
Khoẻ!
Cũng như ông Nguyễn Thiện Nhân, tôi tuy sinh ở trong Nam
nhưng nói giọng Bắc. Có lẽ nhờ thế nên tôi được các cụ ở Bắc
Thái chấp nhận dễ dàng, và tiếp đãi khá thân mật, dù là người lạ
mặt.
- Thế
ra ông mới từ Hà Nội sang à?
- Vâng
ạ. Tôi “vâng/dạ” cho qua chuyện, chứ thật ra thì chưa bao giờ có
dịp được đặt chân đến Mảnh Đất Ngàn Năm Văn Vật lần nào.
- Đã
đi thăm Nhà Bác chưa đấy?
- Dạ
đã.
- Thấy
thế nào?
- Trên
cả tuyệt vời. Quí hóa lắm ạ.
Tôi lại khen (đại) cho vui lòng người đối thoại, chứ
mấy cái nhà (thổ tả) của Bác mà tôi đã ghé qua chả thấy có gì là
hay ho cả. Chúng đều giống như những cái chùa (trá hình) nho nhỏ,
vậy thôi. Nói là “trá hình” vì xây chùa mà không thờ Phật mà lại
thờ ông Thầu Chín (nào đó) thì e người dân địa phương bất bình nên
mới phải “giả danh” là “Khu Tưởng Niệm” hay còn gọi giản dị (và
“thân thương” hơn) là Nhà Bác!
Ở Việt Nam thì Hồ Chí Minh, đôi khi, được lôi tuột
lên ngồi ké trên bàn thờ Phật. Còn nơi đây (quỷ lộng chùa hoang)
Bác một mình một chợ trên án thờ, với lư hương nhang
đèn và trước mặt, cùng hạc đứng chầu ở hai bên.
Thiệt là quá đã và quá đáng!
Từ khi bước vào tuổi thuận nhĩ (lục thập nhi nhĩ
thuận) tôi trở thành đằm tính, không còn hay buột miệng phát
biểu (“linh tinh”) nữa nên chả làm ai bị phật lòng. Bởi vậy, ai cũng
nở nụ cười mãn nguyện khi bất ngờ gặp được một kẻ đồng hương (và
lại đúng người “đồng điệu” nữa) nơi đất khách.
Miếng trầu là đầu câu chuyện. Rượu bia cũng thế.
Vốn tính Nam Kỳ (đi đâu gặp vịt cũng lùa/ gặp duyên cũng kết/ gặp
chùa cũng tu) nên xà vào chỗ nào tôi cũng mời mọc tất cả
ngồi vào chung bàn, và ân cần cụng ly không sót một ai. Sau khi cạn ly
đầy (rồi lại đầy ly cạn) vài lần là chúng tôi đều nói cười rôm rả,
sôi nổi nhất là khi mọi người đều hào hứng kể lại những hoạt động
(“vào sinh ra từ”) vào những ngày tháng cũ.
Có vị đã từng dắt đường cho bộ đội ta tấn công vào căn cứ Ubon của Mỹ hồi năm 1970. Nhân
vật này may mắn thoát chết trong khi có đến 5 chiến sỹ đặc công bị
lính canh phòng Thái bắn hạ ngay tại chỗ. Nói chung, phần đời tuổi
trẻ của họ ở Thái đều rất gian truân và phải trải qua nhiều khó
khăn cũng như thua thiệt. Tất tần tật đều bị đối xử phân biệt, bị
kỳ thị vô cùng khắc nghiệt.
Dân Thái tương đối phóng khoáng. Chính phủ Thái cũng
không hay “ganh ghét” gì với tình cảm mà đám kiều dân dành cho cố
quốc. Cộng đồng người Hoa sống “chùm gửi” trên đất nước này rất là
ổn thoả, an bình, và phú túc.
Tập thể người Việt tị nạn ở Thái Lan, tiếc thay,
đã không có được sự ưu ái tương tự. Họ bị coi là những phần tử nguy
hiểm (phá rối trị an) nên bị nhà cầm quyền Thái sách nhiễu, cấm
đoán đủ điều (*).
Tất nhiên, đây không phải là chuyện hoàn toàn vô cớ.
Hồ Chí Minh đã từng đến đất nước này, và đã reo rắc mầm mống cộng
sản trong đám dân Việt tha hương:
- “Từ
châu Âu trở về Xiêm, lấy bí danh là Thầu Chín, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
không quản ngại khó khăn, vất vả, hiểm nguy tìm cách tiếp cận với cộng đồng
người Việt tại Xiêm để vận động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin, kêu gọi
tinh thần đoàn kết, yêu nước, và vận động đồng bào, đồng chí Việt Kiều tại
Xiêm sẵn sàng cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.” (H.H. “Thầu Chín ở Xiêm và hành trình thành lập tổ chức Đảng
gian khó.” Dân Trí – 03/02/2015).
- “Trong
khoảng thời gian hơn 1 năm (1928-1929), Bác Hồ thận trọng và kiên trì mở rộng
hoạt động tuyên truyền cách mạng tới bà con Việt kiều đang sinh sống tại
nhiều địa phương thuộc Đông Bắc Thái Lan như Phi Chit, U Đon, Nakhon
Phanom, Sa Kol, Nong Khai, Mucdahan.” (Nguyễn Tiến. “Bác Hồ Truyển Lửa Cách Mạng Cho Việt Kiều Thái Lan.”
Dân Vận – 18/05/2020)
Những “hoạt động tuyên truyền cách mạng” của Người đã
gây ra cớ sự và hậu họa khôn lường cho mấy thế hệ kế tiếp. Mãi đến
thập niên 1990 – sau khi Chủ Nghĩa Cộng Sản đã chuyển qua từ trần –
nhà nước Thái mới hết lo ngại về những “quả bom
nổ chậm” do Hồ Chí Minh gài lại, và bắt đầu nới tay với đám
Việt Kiều. Từ đó, họ mới ngóc đầu lên được.
Đến nay thì trên những đường phố chính ở Nong Khai,
Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani… đã có không ít những căn nhà
khang trang ̣(cùng với những cửa hàng Việt Nam) xuất hiện, bên cạnh
Hoa Kiều.
Nếu Thầu Chín không lò mò đến Thái để “tuyên truyền
chủ nghĩa Mác – Lê” thì cuộc sống của đám dân Việt ở xứ này đã dễ
thở hơn nhiều, và đã khá giả từ lâu. Hồ Chí Minh đúng là một tên
phá thối (trouble maker) rất vô duyên, và là một tay xách động
(agitator) vô cùng ngu xuẩn.
Sự xuẩn động của Bác đã được nhà đương cuộc Hà Nội
“thăng hoa” qua phim Thầu Chín Ở Xiêm.
Cuốn phim “cúng cụ” (đối thoại nghe cứ như kịch nói, cùng với nhiều
tình tiết rất cường điệu và lố bịch) này, dù đã công chiếu nhiều
lần nhưng ngay cả đám nhi đồng Việt Nam cũng không đứa nào để mắt.
Khán giả mộ điệu – có chăng – chỉ là mấy cụ cao niên, vẫn còn đang
sống sót ở (tận) bên Xiêm.
Họ hãnh diện về Thầu Chín, cũng như hãnh diện về
những “hoạt động” cách mạng của chính mình – vào những năm tháng xa
xưa cũ – bất chấp đúng/sai và hậu quả. Đủ chân thật để có thể nhìn
nhận cả một quãng đời thanh xuân bị lừa gạt không phải là chuyện dễ
dàng chi (đối với rất nhiều người) nên trong đoàn quân tiến về Sài
Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 – dường như – chỉ có mỗi mình nhà văn
Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha
chết, một cảm giác vô cùng hoang mang và cay đắng.”
Bởi thế, tôi không ngạc nhiên lắm khi biết ra rằng quí
vị nhân sỹ VN ở Thái cũng “chỉ xem VTV và không bao giờ nghe tin
ngoài luồng” cả. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ và thông cảm với cái tâm
trạng “dễ hiểu” này nên chưa bao giờ dám “đặt vấn đề” với bất cứ
ai.
Chỉ đôi lần, khi chén chú/ chén anh/ chén
tôi/ chén bác thân tình (và tưng bừng nhất) tôi mới
dám đặt một câu hỏi nhỏ với tất cả chân thành :
- Có
khi nào các bác nghĩ đến chuyện về sống hẳn ở quê mình không?
Sau vài giây phút tần ngần của những người đối ẩm
(rồi) tôi cũng nhận được câu trả lời, cũng giản dị và chân tình
không kém:
- Chúng
tôi ở đây nó cũng quen rồi, về Việt Nam sợ cũng có nhiều điều
bất tiện.
Nhiều vị Việt Kiều ở bên Tây cũng thế, theo như lời
kể của đạo diễn Song Chi: “Nhớ có lần sang
Paris được ‘hân hạnh’ gặp một nhóm người, toàn dân ‘trí thức văn nghệ sỹ’ chống
Mỹ, thân Cộng ở MN trước kia, nay đã sống mấy chục năm ở Pháp, nhìn chế độ độc
tài do ĐCS lãnh đạo ở VN nhưng vẫn không thấy không hiểu ra, sung sướng khi được
đăng được in một cuốn sách gì đó ở VN, tiếp tục hăng hái bênh vực chế độ này,
nhưng lạ một cái là vẫn cứ sống ở Pháp, bảo về VN sống thì không về…”
Thế mới biết là Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc chưa
chắc đã hợp với cái “tạng” của tất cả mọi người nên kính
nhi viễn chi (cho nó chắc ăn) là chuyện không có gì đáng
trách, hay đáng để phàn nàn. Dù giữa kinh đô ánh sáng Paris hay ở
tận những tỉnh vùng ngược, thuộc miền thượng du Bắc Thái (giáp giới
với Lào) những kẻ “khôn ngoan” và “thức thời” đều xử sự y như nhau
cả.
Tưởng Năng Tiến
————————–
(*) Thái thành lập Sở Quản Lý Việt Kiều, một bộ phận riêng
trực thuộc tổng nha cảnh sát và nhiều luật cấm được ban hành:
- Mọi
công chức, cảnh sát, binh sĩ, không được lập gia đình với Việt kiều, nhất
là người trong quân đội: phải giải ngũ hoặc ly dị.
- Việt
kiều chỉ được phép định cư tại 9 tỉnh qui định và không được ra khỏi quận
mình cư ngụ. Ra khỏi quận phải có giấy phép để trình tại các trạm kiểm
soát dọc đưòng (để kiểm soát VK và cộng sản Thái), nếu không muốn bị bắt
tù.
- Cấm
hội họp, cấm dạy Việt ngữ (sợ cán bộ CSVN dạy lý thuyết CS, tuyên tuyền chống
chính quyền).
- Không
được học đại học.
- Cấm
làm một số nghề dành cho người Thái hay ngoại kiều hợp pháp.
- Cấm
mua đất đai, cấm mua xe, cấm xuất ngoại.
- Cấp
sổ gia đình và giấy chứng minh riêng cho Việt kiều. (Paulle. “Thân Phận Việt Kiều Tại Thái Lan.
” Nghiên Cứu Lịch Sử –
09/13/2016).