Quê tôi có cái hát bộ là nổi tiếng. Cụ Tản Đà từng bảo: “Tuồng
Bình Định, rạp Phú Phong.” Tuồng là tác phẩm viết ra, rạp là chỗ diễn tuồng. Viết
tuồng hay, diễn tuồng cũng giỏi nữa; thế là xuất sắc mọi bề? Tôi nghe vậy, biết
vậy.
Rồi có lần gặp bài Lỗ Tấn về chuyện xem hát ở xứ ông. Chuyện thật ngộ. Xem qua nhớ hoài. Lỗ tiên sinh viết bài ấy năm 1922, tức năm ông vào khoảng tứ tuần. Bảo rằng trong vòng hai mươi năm qua ông chỉ xem hát Tàu ở Bắc Kinh có hai lần. Lần đầu vào năm 1912, tức năm ông 31 tuổi. Ông nghe bạn nói hát tuồng ở Bắc Kinh là nhất, thế nào cũng phải xem cho biết.
Thì xem. Đêm ấy, ông hớn hở vào một rạp hát. Tuồng đang diễn,
kèn trống inh ỏi, sắc màu rực rỡ, khách xem đông đảo... Ông len lách vào chỗ có
mấy chiếc ghế trống, toan ngồi, thì nghe có tiếng la: “Ấy! Ghế đã có người giữ
trước cả rồi đấy.” Loanh quanh tìm mãi không có chỗ ngồi, ông tháo lui, bỏ cuộc.
Lần thứ hai — ông không nhớ năm nào — có đêm hát gây quĩ cứu
trợ nạn nhân bão lụt ở Hồ Bắc. Ông mua tấm vé hai đồng bạc để được vào Đệ Nhất
Hí Viện xem một bổn tuồng do nhiều đào kép ưu tú và có cả diễn viên thượng thặng
là Tan Xinpei đích thân trình diễn. Ai nấy nhấn mạnh vào chỗ đặc biệt quan trọng
ấy. Đến giờ, ông vào thì rạp đã chật cứng, không chỗ chen chân. Trên sân khấu
đang có anh kép đóng vai một bà lão hát ê a. Kép nào vậy? Ông lên tiếng hỏi, bị
người khán giả bên cạnh đáp vắn tắt, tỏ vẻ khó chịu. Từ đó ông không dám hỏi
han quấy rầy ai nữa. Ông lặng lẽ xem một nữ nhân vật cùng hát với con nữ tì bên
cạnh một cụ già, rồi một đám đánh nhau toán loạn, rồi hai người đánh nhau, rồi
ba kẻ đánh nhau v.v... Ông không biết ai là ai. Ông cứ thế xem miết giờ này qua
giờ khác. Tới mười hai giờ khuya vẫn chưa thấy bóng dáng kép thượng thặng Tan
Xinpei đâu. Cuối cùng ông đành len lách thoát ra khỏi Đệ Nhất Hí Viện. Bên
ngoài vắng vẻ: lơ thơ mấy chiếc xe kéo chờ khách, lơ thơ mấy người có lẽ chờ
đón đám đàn bà ra về khi vãn hát. Tuyệt không thấy tăm hơi Tan Xinpei.
Sau lần ấy, Lỗ Tấn nghĩ rằng giữa ông với tuồng hát Trung quốc
thế là dứt tình.
Bỗng nhiên một hôm ông đọc được một cuốn sách Nhật viết về
tuồng hát Trung quốc. Sách có chỗ cho rằng tuồng Tàu nhiều chiêng trống ồn ào
nhảy nhót rộn rịp náo nhiệt quá cỡ, không tiện đem diễn bên trong hí viện;
nhưng nếu đem diễn tuồng ngoài trời và ta ở cách khoảng xa xa mà thưởng thức
thì có chỗ thích thú. Lỗ Tấn tiên sinh lấy làm đắc ý ngay. Ông nhớ ra hồi nhỏ từng
có lần được một bữa xem hát rất thích.
Bấy giờ ông mới độ mười một mười hai tuổi, sống ở Luzhen,
theo mẹ về quê ngoại vào mùa hè. Nhà ngoại ở thôn Pinqiao, gần biển. Thôn nhỏ
thôi, dưới ba chục gia đình. Chú bé từ xa về đó được cưng chiều trọng đãi như
khách quí, chú khoái quá trời. Trẻ đồng lứa xúm nhau kéo tới, cùng chơi, vui vẻ
hết cỡ. Đám trẻ, chín mươi chín phần trăm không biết chữ. Bé ở Luzhen về thì đọc
sách vanh vách! Cả bọn đào trùn, câu cá, theo trâu ra bãi cỏ chơi đùa. Nhưng điều
bé Luzhen ao ước nhất là được xem hát ở Zhaozhuang, xa chừng năm dặm. Thôn
Pingqiao thì bé quá, không có nổi một rạp hát; hàng năm, đến kỳ, dân làng phải
đi Zhaozhuang xem hát. Đi đường thủy; một con thuyền sáng đi chiều về.
Khi đám trẻ đưa ra chuyện đi xem hát, bà ngoại nhiệt liệt
tán thành. Nhưng lúc ấy thuyền đã đi mất rồi. Ngoại đốc thúc, vẫn không ai xoay
được phương tiện nào khác. Xế chiều, cậu bé Luzhen tưởng tượng ra cảnh buổi hát
khai diễn, tưởng tượng tai mình nghe tiếng trống tiếng kèn, và nghĩ mấy thằng bạn
ở rạp hát đang uống sữa đậu nành mua ngay bên sân khấu. Cậu đang rầu rĩ thì thằng
Shuangxi chợt nẩy ra ý kiến: Thuyền của ông Tám vừa về. Tại sao không...? Hơn
chục đứa bạn cùng bé Luzhen nhào lên thuyền, rối rít. Lũ trẻ con nhà thuyền
chài đều biết bơi cả, không có gì đáng lo. Bà ngoại hài lòng.
Trăng sáng đầy sông, đám trẻ líu lo nói cười rôm rả; nước vỗ
mạn thuyền, lúa và đậu xanh mướt trên đồng ruộng hai bên sông. Lát sau bắt đầu
nghe tiếng trống kèn, tiếng hát. Rồi Zhaozhuang xuất hiện. Thuyền ông Tám tiến
tới, nhưng không thể chen vào gần sân khấu. Vả lại cái diễn xuất xem ra có vẻ uể
oải: Dân làng sáng phải ra đồng làm việc, nên đã lo kéo nhau về nhà ngủ; các
gia đình khá giả thì rút vào khoan thuyền ăn bánh, ăn trái cây, cắn hột dưa
v.v... Rạp trống khách, đào kép hát xướng múa men không mấy hào hứng.
Cậu bé Luzhen thấm mệt, nhờ thằng bạn mua nước đậu nành uống
chơi. Nó bảo: Ngày hôm nay nó có uống được hai bát, nhưng giờ này lão điếc bán
nước đậu đã về mất rồi. Cậu Luzhen thất vọng. Xung quanh, trên sân khấu cũng
như dưới đám khán giả đều uể oải. Mãi tới lúc một tên hề mặc áo đỏ được dắt ra
buộc vào cây trụ rồi một lão già nhảy lên lưng cưỡi làm ngựa, bấy giờ ai nấy
thích chí cười ầm ĩ. Cậu bé Luzhen cho đó là màn hay nhất của đêm hát.
Lát sau một vai lão bà ra, ngồi trên chiếc ghế giữa sân khấu,
hát hoài hát hoài. Đám trẻ lo không chừng bà ta sẽ hát mãi tới sáng, bèn rủ
nhau rút êm, xuống thuyền, dông về. Xem vị trí vầng trăng trên bầu trời, đoán
chừng cả bọn vào rạp cũng chẳng được bao lâu. Kèn quyển vẫn nổi lên réo rắt,
đèn vẫn sáng trên sân khấu, nhưng không còn sức thu hút đám bạn trẻ nữa.
Thuyền về còn cách Pinqiao chừng một dặm thì mấy tay chèo
kêu mệt kêu đói. Dừng thuyền, xúm nhau nhảy lên bờ, vào các đám đậu của mẹ thằng
Afa và của cụ Liu Yi mà hái lia lịa. Rồi nhóm lửa lên, nấu đậu, xơi thật ngon
lành. Ăn xong, rửa nồi, đổ vỏ đậu xuống sông, không để lại dấu tích gì. Chỉ còn
lại cái đáng lo là thằng Shuangxi đã tự tiện lấy củi và lấy muối ngay trong
thuyền của ông cụ Tám ra dùng. Thuyền về tới bến, cậu bé Luzhen đã có mẹ chờ
đón sẵn. Cả bọn giải tán, cậu Luzhen ngủ vùi một giấc tới trưa hôm sau.
Cụ Liu Yi tới, rầy quở đám nhóc về chuyện hái trộm đậu và
phá phách, thì thằng Shuangxi đáp ngay là bọn chúng đã tiếp đãi một khách từ
phương xa về mà: “Nè, khách nè, cụ xem!” Cụ Liu trông thấy bé Luzhen, niềm nỡ
ngay:
— Cậu Xun! hát tuồng đêm qua cậu thấy hay không?
— Thưa hay.
— Thế cái đậu ăn đêm qua, ăn có thích không?
— Cháu thấy ngon lắm.
Cụ Liu Yi hân hoan tuyên bố: Người ở đô thị lớn, có học, quả
là biết ra ngay cái xấu cái tốt. Tôi đã chọn lựa đậu giống từng hạt một, mà dân
nhà quê không nhận thấy đậu tôi hơn hẳn đậu thiên hạ! Tôi sẽ bảo đem tặng mẹ cậu
một mớ đậu ngay hôm nay, ăn thử xem...
Nghe nói rồi khi gặp bà mẹ, cụ Liu có lời khen cậu nồng nhiệt:
Cậu ấy còn bé mà đã biết rành rẽ đâu ra đấy. Rồi về sau thế nào cũng đậu đạt
cao. Thật là phúc nhà...
Từ đó tới giờ chưa bao giờ cậu được ăn thứ đậu nào ngon bằng
và được xem đêm hát nào hay bằng đêm hát hôm ấy.
Lỗ Tấn viết vậy, tôi cũng biết vậy thôi.
Cụ Tản Đà bảo xem tuồng này ở rạp nọ, cụ không có lời chê
khen rõ ràng, tôi bất quá có thể đoán cụ vừa ý, chứ đâu dám đi xa hơn.
Cụ Lỗ Tấn hư hư thực thực. Trong bài văn, nhân vật là “tôi”;
nhưng bài viết được xếp vào thể loại truyện, không phải là ký. Mình đâu dám tự
tiện gán mọi cái làm cái nghĩ của “tôi” cho tác giả! Thí dụ cái mà “tôi” tán
thưởng nhiệt liệt nhất trong đêm ấy là cảnh người nhảy thót lên cưỡi lưng ngựa
hề và bữa ăn đậu hái trộm. Cho vàng mình cũng không dám bảo đó là quan niệm của
Lỗ tiên sinh về tinh túy của tuồng hát Trung quốc.
Dù sao tôi vẫn cứ lưu luyến với câu chuyện của Lỗ Tấn. Chuyện
tiên sinh kể về đám trẻ con xem hát bên Tàu làm tôi liên tưởng tới một kỷ niệm ấu
thời về chuyện trẻ con xem hát bên ta. Xem “tuồng Bình Định”, như cụ Tản Đà đã
xem. Nhưng xem ngay tại làng tôi, không phải ở “rạp Phú Phong”.
Bấy giờ — độ chừng năm 1935 hay 1936 — tôi cũng vào khoảng
tuổi như nhân vật của Lỗ Tấn. Đám hát do ông lý trưởng tổ chức nhân dịp mừng
nhà mới xây cất.
Ông lý có đứa con gái cỡ tuổi tôi, hàng ngày vẫn chơi với
đám trẻ con trong xóm; nhờ đó chúng tôi có thể theo dõi diễn tiến trong gia
đình tổ chức đám: Dựng rạp hát giữa đồng; dựng rạp tiếp khách trước sân nhà, lợp
bằng lá đùng đình; mượn ván gỗ, mượn bàn ghế khắp xóm; mua heo, mổ bò... Lại có
cuộc đi Qui Nhơn mua bún song thần, mua bắp sú, mua cả mấy cân củ hành tây, bún
tàu, tương xại... Thím Tư Qua tự mang con dao riêng từ nhà thím đến xắt rau chuối:
con dao cán dài cả thước tây, cán mài mặt đất lâu ngày mòn đi như bị vạt đứt một
nhát. Chuối cây, đã chọn sẵn những cây non, nhỏ. Thím Tư xắt rau chuối khéo nổi
tiếng; thím ngồi xắt suốt ngày, giúp bà lý. Rồi thợ thịt đến...
Con Vân, đứa con gái vừa nói của ông lý, điểm mặt từng đứa
trong đám bạn chúng tôi, tuyên bố: “Thằng Cang: Được! Thằng Kiểu: Được. Lát nữa
được cho vô coi hát. Con Phi sẽ ngồi với tao. Thằng Chiếu: Được! Thằng Điểm:
Không cho coi hát, nghe chưa v.v...” Thằng Điểm cười to, nham nhở... Con Vân trừng
mắt, nhắc lại: “Thằng Điểm không được vô coi hát.”
Xế chiều, ban hát gồng gánh kéo tới thì nhà ông lý đã tràn
ngập khách khứa. Cánh nhỏ chúng tôi lạc nhau.
Chiều, cử hành lễ gia tiên. Bàn thờ được trần thiết huy
hoàng như chưa từng thấy bao giờ trong khắp làng. Ông lý, bố của bé Vân, mặc áo
thụng xanh, đội chiếc khăn mới tinh. Lễ cử hành. Ban nhạc của gánh hát với bao
nhiêu thứ kèn trống cùng nổi lên. Trước đôi mắt ngơ ngác của bé Vân, bố nó đứng
lên, quì xuống, lạy, vái, theo tiếng xướng ngân nga đĩnh đạc.
Suốt hai ngày ba đêm, con Vân không có dịp kiểm điểm đám bạn.
Cả bọn khi tụ khi tán, tản mác, tung tăng, khi đến rạp, khi về nhà, chăn bò, cắt
cỏ, khi ngồi ăn những món hàng bày bán xung quanh rạp. Hai gánh xu xoa, ba gánh
bánh tráng thịt lụi, bày bán suốt ngày đêm. Xu xoa là quà ngọt, nấu bằng rau
câu vớt dưới biển, nấu tan ra nước, để nguội đọng cứng lại. Múc vào chén, dùng
muổng xắn nhỏ, chan nước đường vào. Còn thịt bò ướp sả, tiêu, tỏi, ớt..., nướng
than, thơm điếc mũi, cuốn vào bánh tráng với rau thơm, chuối chát non, khế, chấm
tương đậu phộng... Ăn tại chỗ, ngồi trên những chiếc chiếu trải ngay giữa ruộng
khô, hay mang đi chọn chỗ thích ý, ngồi trên các bờ ruộng, hưởng gió mát trăng
thanh, nhẩn nha thưởng thức món ngon. Với bạn, với bồ. Vừa ăn, vừa chuyện trò,
vừa nghe hát, nghe nhạc...
Những dịp ấy, đám bạn chúng tôi gặp nhau, trao đổi ý kiến
inh ỏi. Thích nhất các trận đấu ác liệt trên sân khấu, rồi các màn hề nói xạo.
Không đứa nào trong bọn có chỗ ngồi trong rạp. Cứ len lách chui ra chui vào,
thoắt biến thoắt hiện. Tôi có cảm tưởng đứa được xem hát nhiều nhất là thằng Điểm.
Đứa xem ít nhất là con Vân.
Ra vào rạp hát không phải chuyện dễ dàng. Rạp trống bốn bề.
Không có chiếc ghế nào. Không có thứ chân ghế vững chắc có thể chịu đựng nổi sự
xô đẩy ác liệt trong một rạp hát; chỉ có những tấm ván lát trên những cây cọc
đóng sâu xuống đất, trói kết vào nhau chặt chẽ bằng dây cật tre tươi. Khán giả
chiếm được chỗ gần sân khấu nhất thì ngồi. Lớp sau nhướng mắt xem qua khe cổ của
những người ngồi trước. Lớp sau nữa: phải quì gối, phải nhấp nhổm. Lại sau nữa
thì đứng trên phản, vịn vai nhau, ôm cổ nhau cho vững. Lớp khán giả muộn màng, ở
vòng ngoài cùng thì chân đứng trên ván, tay giơ cao bấu vào mái rạp.
Trong hoàn cảnh như thế, mỗi khi có người — hoặc lớn hoặc bé
— từ trong lách ra hay từ ngoài chui vào, vẹt một lối đi, là cả một nhốn nháo
chí chóe, rất bực mình. Cánh phụ nữ khoái xem đào hát than thở: đang theo dõi một
cô đào đẹp đẽ lâm ly cảm động muốn chết, mà bị xô đẩy xiêu vẹo cả hàng ngũ
thì...
Xế chiều ngày thứ hai, thằng Điểm gặp tôi trong lúc nó đang
ngồi trên một bờ ruộng, bên ngoài rạp hát, vừa ăn vừa nói huyên thiên. Do nó,
tôi biết mấy chuyện động trời:
— Ngay đêm đầu tiên, có một bà từ làng bên đến xem hát, bị mấy
đứa ngỗ nghịch khiêng chạy. Bà nọ kêu la inh ỏi náo động: Trai làng xông ra đuổi
theo, giải thoát. Nạn nhân khóc sướt mướt, được hộ tống đưa vào chỗ ngồi gần
sân khấu.
— Đêm thứ hai, một cô gái đứng ở tấm phản gỗ mép rạp, tay
bám vào mái rạp, bị thanh niên ngồi sát đất, ngửa mặt thổi bông bồn bồn vào ống
quần, thổi ngược lên. Cô gái ngứa gãi như điên; không chịu nổi, cả bọn kéo nhau
về...
— Một đứa bạn của nó (tức thằng Điểm) mang quả thị chín, lẻn
vào hậu trường, bị bắt gặp, bỏ chạy. Suýt bị đòn v. v...
Thằng Điểm cao hứng mời tôi một cuốn bánh tráng thịt lụi. Nước
mắm rắc sẵn đủ độ mặn. Ngồi ăn ngay tại bờ ruộng. Tôi chưa từng được ăn cuốn
bánh nào ngon thơm như cuốn bánh hôm ấy.
Sau đám hát, lũ bạn trong xóm chúng tôi lần hồi tụ tập sinh
hoạt, bàn tán, cãi cọ. Tôi không thấy bé Vân cho biết đã thích tuồng tích nào
nhất. Chỉ thấy nó tỏ vẻ quyến luyến cô đào chính, và đôi lần khoe với chúng tôi
những chuyện đã biết về cái son cái phấn của cô ta; nó rất “thương” cô ta khi
cô nức nở khóc trên sân khấu.
Thằng Cang bảo bố nó bận công việc, chỉ vào rạp được một buổi;
nhưng đêm nào ông nằm nhà cũng theo dõi tiếng hát từng vai tuồng, tiếng trống
chầu của quan khách. Tiếng hát, gió đưa về, có lúc nghe rõ mồn một. Bố nó nhiều
lần lên tiếng hát theo — í a í á — từng đoạn dài. Gặp bạn hoặc đến nhà hoặc
ngoài đồng, ông chê ông khen...; ông bảo “thằng” (kép) này giọng còn tốt hơi
còn mạnh lắm, “thằng” kia — tội nghiệp — không bám sân khấu được bao nhiêu năm
nữa đâu v.v...
Đám hát kết thúc, bà mẹ con Vân vùi đầu ngủ li bì luôn một mạch
hai ngày một đêm, bỏ ăn bỏ uống.
Ngót năm mươi năm sau, tôi gặp lại “con bạn” ở Mỹ. Nó rời Việt
Nam theo diện O.D.P., “nó” đã thành bà, cháu nội cháu ngoại đủ thứ. Có cả chắt.
Nó không còn nhớ được bao nhiêu về đám hát. Mối cảm tình, lòng hâm mộ đối với
cô đào hát đã phai lạt nhiều. Hình ảnh nổi bật còn giữ lại là ông cụ mặc áo rộng
xanh trong buổi lễ gia tiên: Chiêng trống, đàn địch..., ông cụ của “bé Vân” uy
nghi, đứng trên mọi nhân vật khác. Tôi nhận xét: “Nhân vật ấy vượt thời gian!”
Bà bạn già cười: “Vượt tuốt hết.” Và thêm: “Mẹ tôi không ra tới rạp, không
trông thấy sân khấu. Nhắc lại đám hát, cụ vừa lòng nhất là mớ củ hành tây mua tận
Qui Nhơn. Được bà con xóm làng chú ý đến nhất. Trầm trồ: “Hành ta nhỏ mà thơm;
hành tây to tướng mà chẳng có chút mùi vị gì. Tây, cái gì cũng buồn cười.”
Vân hỏi tôi. Tôi nghĩ ngợi: “Cảm tưởng có đổi thay theo thời
gian. Các vai hề phai lạt dần, vì những điều họ đã nói hồi ấy, mình quên mất nhiều.
Cái còn lại đậm đà ở tôi là những trận giáp chiến náo nhiệt trên sân khấu. Đặc
biệt, những trận đánh nhau có kép đeo cả lục lạc bầu, mỗi múa nhảy mỗi kêu lên
rôn rổn.”...
Bà Vân xen lời: “Đeo lục lạc bầu ở chân, mặt vẽ đen đỏ dữ dằn:
đánh lớn đấy, có tướng cưỡi ngựa xông pha. Rổn rổn là ngựa đấy...” Tôi ngạc
nhiên: “A! Chị thạo há!” Bà Vân bảo: “Anh Điểm nhà ta giải thích cả. Tướng đánh
trận, thắng trận rồi, đứng nghênh ngang vuốt râu rung chân rổn rổn, hát ông ổng
một hồi như trong cuộc đá dế con thắng đứng vểnh râu, kêu inh ỏi...”
Tôi cười, bà Vân cười. Hướng về đêm hát những tình cảm giễu
cợt âu yếm.
Tôi hỏi thêm: “Anh ta bây giờ ở đâu?
— Ai?
— Điểm.
— Thì ở làng chớ ở đâu? Ở nguyên tại làng chúng ta từ ngày ấy,
có nhích đi đâu bước nào!
Một lát, bà bạn lại nói:
— Ngày xưa cứ loi choi như bắt cóc bỏ dĩa, bây giờ bám riết
xóm làng. Sợ buông ra, người ta ăn cắp mất xóm Cây Cầy không bằng...
Tôi bật cười: “Tới bây giờ chị vẫn còn cay cú về anh chàng ấy.
Điểm láu cá như thế ở đâu chẳng được, gặp hoàn cảnh nào chẳng thích nghi được,
việc gì chạy đi đâu cho... mệt?
— À há!
Tản Đà, và Lỗ Tấn, và sách Nhật v.v.. như thể cùng nhau toa
rập trong thái độ đối xử với món hát tuồng. Chuyện kép trẻ đóng vai bà già, cảnh
chờ đợi ngất ngư, cảnh chen chúc lộn xộn trong rạp, việc ăn đậu hái trộm giữa đồng,
trò đánh đá rùm beng, giễu cợt rẻ tiền v.v... là những tinh hoa của nghệ thuật
sân khấu cổ đại sao? Tuồng Trung Quốc, tuồng Bình Định, rạp Bình Định, rạp Phú
Phong... đều buồn cười! Vậy cái gì thu hút được số khán giả luôn luôn chật ních
ở các rạp đô thị Trung Quốc, ở cả các đám hát làng Bình Định?
Các cụ không nói đến, không giải ra, sức mấy mình dám mạnh
miệng liến thoắng? Các cụ không giải mà các cụ cũng không kết (tội). Thời này
nhìn lại thời kia, ánh mắt không giấu được chút ngỡ ngàng, giễu cợt; nhưng cái
nhìn rõ ràng là một cái nhìn tò mò, chăm sóc, đầy thiện cảm. Noi gương các cụ,
tốt nhất.
Đời sống tiến tới, biến cải. Sự đào thải cái cũ, xưa chậm
nay nhanh. Kỹ thuật truyền thông tiến mạnh, cách viết cách xem văn thơ, cách
thưởng thức mọi thể loại nghệ thuật đổi khác vùn vụt, quan niệm thẩm mỹ nhảy từng
bước dài. Những cái mình đang hè hụi thực hiện lúc này, chúng nó sẽ chịu sự đối
xử kiểu nào mai sau? “Mai sau” không phải là vài ba thế kỷ tới, e cũng không phải
một thế kỷ tới đâu. Ngắn ngủi hơn thế nhiều:
“Bất tri tam thập dư niên hậu...”
Quận Cam, 11-2004
Võ Phiến
1 Chuyện Village Opera, trong cuốn Lu Xun Selected Works, tập
một, do Foreign Languages Press ấn hành tại Bắc Kinh, lần thứ 2, năm 1980.
2 Tôi tiếc không phiên âm được ra Việt ngữ hầu hết các nhân
danh địa danh trong bài này.