Duy choàng tay qua đôi vai tôi, đôi môi chàng màu tro nặc
mùi thuốc lá hờ hững đặt lên môi tôi. Nụ hôn chia tay này không còn nồng nàn
như mấy năm về trước. Tôi lách ra khỏi vòng tay ấy, ngoái lại nhìn chàng. Da
chàng trắng nhờn nhợt như da bụng con thằn lằn. Mặt chàng sần sùi và thô nặng
như một tảng đá không còn làm da thịt tôi nháng lửa nữa. Đôi vai rộng và cái
mông tròn của chàng ngày trước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Bây giờ cuộc yêu
đương hờ hững không đem đến cho nhau nhiều rung động nữa. Đàn ông đâu phải chỉ
mê hoặc đàn bà ở cái vai và cái mông. Thân thể của chàng đã xa lạ với thân thể
tôi từ mấy tháng nay.Tôi muốn tìm ở đàn ông sự dịu dàng ở khuôn mặt, một lời nỉ
non, một nụ hôn đơn sơ không cần có kỹ thuật. Tôi đứng nhìn Duy cho đến lúc
chàng khuất sau khúc quanh của ngã tư đường rẽ lên chiếc cầu qua thành phố. Trở
vào nhà tôi ngồi lại bên cửa sổ cạnh chiếc bàn con. Trên bàn, mẩu thuốc lá hút
dở còn bốc khói trong chiếc gạt tàn bằng sứ trắng. Tờ chương trình hát bóng nằm
bên cạnh xâu chìa khóa của tôi. Ly cà phê còn vương chút cặn đen ngòm dưới đáy.
Tôi đã từ chối không làm một cuộc phiếm du với chàng vào chiều thứ bảy này vì
không thích đến những nơi đông người. Tiếng nhạc ầm ĩ ở rạp chớp bóng sẽ làm thần
kinh tôi căng thẳng. Tôi thích ngồi một mình ngắm dòng sông vào mùa nước nổi. Mối
buồn bâng quơ của tôi dâng lên ăm ắp như nước sông đầy.
Gần cửa sổ, những chùm hoa hoàng lan lủng lẳng trên cành. Mùi thơm thoang thoảng
bay khắp mặt sân ùa tới gian phòng ngủ. Mặt trời đang giãy chết bên kia sông.
Những tia nắng cuối cùng đỏ nhạt đang run rẩy trên mái lá. Gió sông ập vào cửa
làm tóc tôi bay bay. Những ý nghĩ về Duy rối rắm như mớ tóc trước gió này. Vài
con dơi từ mái ngói uốn cong bay vụt ra sông. Sự vắng ngắt của buổi chiều ôm chầm
lấy tôi và dìm tôi như muốn ngộp thở. Tôi uể oải đứng dậy đóng ầm cửa sổ rồi lững
thững đi bách bộ một vòng quanh nhà. Bóng tối từ từ chụp lên ngôi nhà hoang vắng
này. Gió sông lùa cơn lạnh vào xương sống tôi và làm cứng nó lại.
Duy đem lại cho tôi những gì? Một gương mặt lì lợm không nói lên được một cảm
xúc nào? Hay chỉ là một không khí ấm áp ít oi không thể làm tôi yêu đời hơn một
phân hay một li nào?
Cứ thường mỗi buổi chiều, khi tiếng chuông của một ngôi chùa xa âm u vọng tới
và khi bóng tối bắt đầu bôi xóa lem luốc những cành cây sà bên khung cửa sổ,
mái nhà và dòng sông, tôi vụt có một ý tưởng rằng: Cơ khổ! tại sao tôi cứ ở
đây, bên dòng sông quen thuộc, nhàm mắt trước cuộc sinh hoạt âm thầm của lối
xóm và trong ảo tưởng lạnh lẽo? Tôi phải rời khỏi bóng tối của căn nhà này, rồi
bóng chập chờn của rèm sáo, đàn dơi trong nắng chiều, những quyển sách nhức cả
đầu và cái ám ảnh vu vơ, nặng nề đè tôi muốn nghẹt thở từ bao lâu rồi.
Cuộc đời sắp tới của tôi sẽ gồm có gì? Một người chồng không phải là Duy? Những
ngày bình thản? Hay chỉ là nếp sống sinh hoạt lạnh lẽo gồm nỗi cô đơn này xỏ
khoen vào nỗi cô đơn khác như sợi dây lòi tói? Tôi đi lần ra sân trước ngắt vài
đóa hoa "nở ngày" màu tím thẫm đem cắm vào lọ sành màu lục, thắp ngọn
đèn Huê Kỳ đặt giữa nhà. Rồi đốt nén nhang và rót nước cúng Phật. Khói nhang
bay nghi ngút. Tôi không biết mình phải khấn gì giữa buổi chiều ảm đạm này. Đôi
mắt Phật Quan Âm lạnh lùng hướng về tôi. Tôi đi từng bàn thờ ông bà, cắm mỗi
nơi vài cây nhang trầm. Trở lại bàn Phật tôi cầm chiếc dùi đánh nhẹ vào cái
chuông đồng rồi có cảm tưởng như mình là một ni cô giữa khung cảnh trang nghiêm
này. Trên kèo nhà, con cắc kè há cái miệng đỏ thén như ngậm lửa hướng về tôi,
chậm rãi kêu lảnh lót. Má tôi thường nói: "Khi cắc kè kêu thì mình phải đếm
như thế này: tiếng đầu thì hên, hai là xuôi, ba là may, còn tiếng thứ tư là rủi.
Nhưng thực là vô duyên. Lúc nào con cắc kè khốn nạn này cũng chấm câu vẫn chỉ bốn
tiếng.
Cầm đèn đi vào phòng ngủ, tôi ngồi lại bàn viết, giở chồng sách cũ. Tôi nghĩ mình
nên ghi những cảm tưởng lên giấy. Từ lâu tôi có cao vọng viết một tập tùy bút lẫn
truyện ngắn. Ở ngoài đời tôi thất bại, cô đơn. Chắc hẳn văn chương không cấm những
giấc mơ lẫn ảo tưởng của tôi thao túng, vẽ vời. Những nhân vật đàn ông của tôi,
phần nhiều nói ra thêm thẹn, toàn là các anh chàng đẹp trai, có phong độ. Và
tôi không ngần ngại chui vào truyện để làm những mỹ nhân để bắt bồ với họ. Chuyện
tầm thường quá, có tốn kém chăng là sự xúc cảm vu vơ của tôi suốt đêm mà thôi.
Vậy mà nó giúp tôi không nghĩ đến hiện tại. Còn bây giờ thì tôi hơi mỏi mệt.
Tôi vặn đèn nhỏ lại rồi vào giường. Từ nhỏ, tôi sợ bóng tối chụp lấy tôi. Ánh
sáng vàng vọt của đèn chong sẽ làm tôi bớt sợ hãi. Vắng vẻ quá! Tiếng chuột chí
chóe ở đâu đây. Lấy mền trùm kín lên tận cổ, tôi cố nhắm mắt mong cho cơn buồn
ngủ từ từ xâm nhập vào người tôi và những ray rứt vụn vặt kia sẽ lui dần...
Thình lình tiếng đấm cửa đùng đùng tiếp theo sự la thất thanh:
- Mợ Hai ơi! Con Linh bị mấy thằng thợ sửa cầu hãm hiếp, máu ra đầy quần nè! Mở
cửa mau đi!
Tôi tung mền, nhảy phóc xuống giường chạy ù ra cửa. Tiếng lắc chốt và tiếng tay
đấm mạnh vang dội. Tôi kinh hãi mở vội cửa. Dưới ánh đèn Hoa Kỳ trên tay tôi,
nét mặt nhăn nheo như trái vải khô của bà Điếc, cái miệng méo lệch và đôi mắt của
bà mở trừng trừng như lạc vào một thế giới nào. Bà há hốc miệng và tiếp tục la.
Tôi nắm tay bà gọi giật:
- Bà Bảy, tôi đây nè! Má tôi đã đi làm ăn xa. Còn tôi... có ai làm gì tôi đâu?
Bà dằn tay tôi ra, giọng bà lạc hẳn:
- Rõ ràng tôi thấy đang bị...
Bà ngừng lại, nhướng mắt đỏ ngầu nhìn tôi.
Tôi hét to hơn để cho bà nghe rõ:
- Tôi đây! Má tôi đâu có ở nhà. Bộ bà quên rồi sao?
Mắt bà vẫn dán lên mặt tôi. Đôi mắt bà chệch xuống sau một cơn kinh phong. Những
tia máu nằm vắt ngang trên tròng trắng và mắt bà nổi phồng lên như sắp rớt ra
khỏi lỗ mắt.
Tôi nắm vai bà lắc mạnh, hét:
- Tôi đây, tôi đây nè!
Bà Điếc vẫn la thất thanh:
- Ai cứu nó. Trời ơi! nó là con gái mà...
Nhìn đôi tay run rẩy của bà, tôi chợt hiểu. Bây giờ là lúc bà đang sống ở một
trạng thái mê loạn, quái đản. Tôi gào lên:
- Tỉnh dậy đi bà! Tôi đâu có đi ra khỏi nhà.
Bà Điếc ngẩn người một lúc rồi nhếch cái miệng méo xệch, không còn một chiếc
răng giống hệt cái miệng rùa, cười tỉnh cơn mê:
- Vậy hả! Mày không việc gì sao? Tao thấy...
Tôi đặt tay lên vai bà dỗ dành và đưa bà về cái chòi nằm dưới gốc liễu già cạnh
nhà:
- Vào ngủ đi bà.
Nhà tôi nằm bên dòng sông Long Hồ. Trước nhà là con đường cẩn đá xanh không
tráng nhựa. Chỉ một chiếc cyclo máy vượt qua cũng đủ làm cho lớp cát bụi có dịp
bốc lên và bay tản mác vào thềm nhà. Bên kia đường, một thửa vườn hoang xen lác
đác vài mẩu rẫy chạy dài hút mắt. Những ngôi mộ nằm rải rác dưới mấy tàng dương
thưa lá. Vào ngày nắng ráo, vài con quạ đứng rỉa lông. Thỉnh thoảng chúng cao hứng
kêu thét lên. Tiếng kêu khàn, chát khuấy động bầu không khí oi ả, lặng lẽ. Bên
những líp rau chưa trồng vài đống un bốc khói làm mờ đục cả một góc vườn. Khi
trận mưa dứt, bọn sóc, nheng phóng từ cành cây cổ thụ này sang cây cổ thụ kia.
Đó cũng là nơi trú ẩn của lũ chồn đèn lẫn chồn mướp để rồi đêm đến chúng lẻn
vào xóm bắt gà vịt. Nhà tôi ít khi mở cửa. Mặt tiền tối om om vì nền cao, mái
thấp. Trên nóc nhà những cụm rêu xanh mượt, mịn như trải nhung. Vài ba cây cỏ dại
lẫn rau càng cua mọc trong lòng máng xối.
Ba má tôi đi làm ăn xa tận miền đất đỏ và em gái tôi đã đi lấy chồng ở Rạch
Giá. Là phận em, nó hỗn hào, dám lấy chồng trước chị. Chuyện đó làm tôi ngượng
với chòm xóm khi họ hỏi tôi chừng nào cho họ ăn trầu. Lúc nào tôi cũng rùn vai
bảo rằng không thích lấy chồng, trong khi đó tôi cảm thấy bị chế nhạo sau lưng.
Còn lại mình tôi và bà Điếc thay phiên nhau lo giữ phần nhang khói cho ngôi nhà
hương hỏa này. Bà Điếc không ở chung với tôi, chỉ thích một ngôi nhà riêng biệt.
Bà chỉ giúp tôi quét dọn và làm cỏ trước sân. Hồi còn con gái, bà đã theo bà nội
tôi từ Mỹ Tho về nhà này làm dâu phụ. (Ngày xưa những cô gái nhà giàu thường có
mang theo cô phù dâu về nhà chồng). Vì mồ côi cha mẹ, bà bằng lòng theo bà nội
tôi đến một xứ lạ hoắc. Ngày bà còn trẻ, nhiều trai tráng hàng xóm thường lui tới
với bà. Trong số những người đi qua đời bà, chỉ có ông Tư chăn dê kiêm người
tài xế của ông nội tôi, là mối tình chánh. Đứa con gái của hai người khi được
hai tuổi thì chết vì bị chứng ban đen và chẳng bao lâu ông Tư mắc phải bịnh dịch
tả cũng qua đời. Chưa bao giờ bà có ý nghĩ ra khỏi gia đình tôi, nơi đó đã đem
lại cho bà nhiều kỷ niệm vui buồn suốt đời làm tôi tớ. Bà thường tâm sự với má
tôi:
- Mợ Hai à! thầy bói nói bàn tay tui có đồng tiền vạn nhựt. Số tôi phải ở đây
hoài, nếu ra đi sẽ khổ sở hơn.
Sau cái chết của ông Tư chăn dê, bà dan díu với ông Năm Còm bạn chè chén của
ông Tư. Ông này tặng cho bà một thứ bệnh ngặt nghèo làm ung mủ cả hai chân răng
và chúng thi nhau rời khỏi niếu của bà cũng bị rụng mất. Tiếng nói của bà ngọng
nghịu. Sau cơn bệnh ấy, bà mất cả thăng bằng. Tính tình gắt gao, nóng nảy. Cách
giải phẫu của y sĩ chẳng những không làm tình dục bà tắt đi, mà trái lại còn chụm
thêm củi đuốc để cho cơn cuồng loạn xác thịt của bà chồm lên cao. Bà khao khát
đàn ông đến nỗi không còn biết hổ thẹn là gì nữa.
Tôi không rõ bà Điếc đã đến đây được bao nhiêu năm rồi. Khi tôi còn thơ ấu thì
tóc bà có vài sợi bạc. Những nếp nhăn trên mặt bà như nếp nhăn chiếc lồng đèn
giấy. Tuy vậy, bà vẫn tỉa lông mày, đánh lên đôi má nhăn nheo một chút phấn bột.
Thỉnh thoảng tôi nhìn trộm bà đang tẩn mẩn trước tấm gương con. Hai hàng lông
mày của bà cong và nhỏ mức như hai sợi chỉ. Bà thích mặc chiếc áo màu sặc sỡ bó
sát lấy cái thân khô đét như cây da. Bao nhiêu tiền má tôi cho đều qui về ăn diện,
dù số tiền quá ít chỉ đủ ăn quà vặt. Bà quên hẳn mình già.
Tánh tình bất thường của bà Điếc càng lúc càng tăng.
Một hôm, gần cận Tết, má tôi gọi một ông tá điền ở tận dưới quê lên giúp chăm
sóc và quét dọn nhà cửa để chuẩn bị rước năm mới. Ông Tư Tấn đã ngoài sáu mươi
nhưng vẫn còn khỏe mạnh. Mặt ông lúc nào cũng đỏ au như vừa uống rượu mạnh. Tóc
ông trắng như phủ một lớp muối bọt. Ông có thói quen sau ngày làm việc cặm cụi
là thường lấy cây đờn cò ra dạo vài bản Kim Tiền. Tiếng đàn ấy tuy không dội được
vào tai bà Điếc nhưng bà thích thú ngồi ngắm ông Tư Tấn kéo đờn và thỉnh thoảng
đôi mắt lõm sâu của bà tình tứ hướng về ông. Ông Tư Tấn đắc ý với tiếng đờn trầm
bổng của mình, chốc chốc ông lại gật đầu theo tiếng nhịp nằm gọn giữa lòng bàn
chân khẳng khiu của ông. Ông lỏn lẻn cười đáp lại với bà...
Sau vài cuộc tình ái phất phơ, bây giờ tôi mệt mỏi thật sự. Tôi bất chấp dư luận
để sống, mà rồi vẫn cô đơn. Tìm được kẻ mà mình đắc ý, tính cho chàng ta đắc cử
vào giấy hôn thú thì tôi gặp cảnh hụt đõi luôn luôn. Bây giờ, tôi bám vào Duy để
lấp vào những ngày trống rỗng. Chàng nhạt nhẽo quá. Tôi lại mơ cao để rồi số tuổi
càng ngày càng chồng chất theo nỗi chán chường.
Bây giờ tôi sống bên bà già bịnh hoạn, khủng khiếp như thế này, ngôi nhà rộng
và hưu quạnh như cái chùa. Em gái tôi lâu lâu về thăm nhà. Một con đàn bà trống
trải, ngu muội. Nó thường nói toẹt rằng: "Các cô chưa chồng nhìn phớt qua
thì thấy trẻ, nhưng xem kỹ lại thì chát ngầm". Tôi soi kiếng, sót sa. Con
gái chỉ có một thời. Tôi đã đánh mất cái hấp dẫn tươi trẻ. Mình mẩy càng ngày
càng đầy ra, co kéo suông đuột như cây cột nhà. Đã lùn lại mập. Con em gái chẳng
tha, có dịp lại quở: "Chị giống như con heo thiến". Uống dấm, cữ ăn
mà tôi vẫn "giàu sang" về thịt mỡ. Lại nữa, đã làm thân con gái, tôi
lại sanh vào năm dần, bất lợi biết bao! Đi đâu, tôi khai rằng mình tuổi Mùi,
làm con dê cho bớt khủng khiếp trong số mười hai con vật tượng trưng cho mỗi tuổi
trong một con giáp. Các chàng thích bắt bồ với tôi không mảy may tính chuyện trầu
cau vì sợ tôi ăn hiếp lúc về sống chung. Cái thứ đàn bà tuổi Dần cao số thật.
Thôi! tôi chẳng tính chẳng mơ gì nữa. Cứ ăn uống thỏa thích. Dầu sao mình vẫn
còn có Duy, già nhơn ngãi non vợ chồng. Nhiều lúc đưa tay rờ bụng, vòng eo mà
mình muốn đi hiến máu để làm phước. Tuy vậy Duy vẫn nịnh hỗn, cho rằng da tôi
mát rượi như bánh đúc, mịn như sa ten.
Tôi chán viết văn. Văn chương nào phải là cái cớ để cho phụ nữ giải tỏa ẩn ức.
May mà tôi không đem bài vở đăng báo. Có một chàng văn sĩ đòi bạt tai lũ đàn bà
cầm bút, hăm he đuổi họ trở về chỗ bếp núc và chỗ ngồi lê đôi mách. Thái độ du
côn đó chẳng những không làm tôi giận mà tôi còn mê chàng nữa, rồi vẽ ra trong
óc là chàng đẹp trai hấp dẫn như James Bond, chàng điệp viên 007.
Một hôm bà Điếc gọi ông thợ hớt tóc dạo đi ngang qua nhà. Bà đưa cho ông ta năm
đồng nhờ cạo lông mặt. Ông thợ cạo hơi do dự. Tôi giục:
- Ông cứ làm cho bả vui lòng.
Bà Điếc bắc cái ghế đẩu chễm chệ ngồi bên lu nước mưa. Ông thợ cạo quàng trước
ngực bà chiếc choàng trắng rồi ông ta cầm cái bông phấn xoa nhẹ trên da mặt. Lưỡi
dao sáng, mỏng được rút từ trong bao da. Ông liếc dao xoèn xoẹt trên bàn tay
chai cứng rồi dùng hai ngón tay banh những nếp nhăn chìm sâu trên màu da mặt
đen sẫm của bà Điếc. Bày con nít xúm coi như xem đám hát Sơn Đông. Vì ỷ mình là
một khai quốc công thần của gia đình tôi, nên bà tha hồ muốn làm gì thì làm. Ai
cũng nể bà vì tuổi tác và cho những trò lố bịch của bà là trạng thái sanh tật của
tuổi già. Có lần bà túm áo má tôi quật xuống thềm nhà vì má tôi cản không cho
bà đi uốn tóc. Tuy đã gần ngoài sáu mươi tuổi nhưng bà còn mạnh lắm. Má tôi bị
đánh bất ngờ nên ngã quỵ. Lúc đầu tôi và em gái đứng xem sự tranh sức của hai
người rồi cười ngất vì tưởng má tôi thế nào cũng quật bả sụm. Nhưng bất ngờ bà
Điếc dìm má tôi xuống và leo lên mình đấm đá túi bụi. Cuối cùng má tôi kêu cứu:
- Tụi bay đứng đó nhăn răng cười được hả? Để bả giết tao luôn đi.
Chúng tôi xông vào gỡ tay bà Điếc nhưng vì cơn cười của hai chị em tôi sôi sùng
sục nên không đủ sức mạnh rứt bà rời khỏi má tôi. Thấy chúng tôi vào can, bà la
to vu khống:
- Bớ làng xã, bớ mã tà, mẹ con nó giết tui!
Hàng xóm nghe la chạy sang rồi có hai ba người hì hục tiếp chúng tôi lôi xển bà
Điếc. Tay bà vẫn ghì chặt áo má tôi miệng không ngớt chửi rùm lên:
- Mồ tổ cha nó, ai cũng binh nó hết.
Hàng xóm được dịp cười đùa bàn tán, không khí vui tươi có cơ hội hâm sôi lên
trong khu xóm buồn tẻ này.
Khi ông Tư Tấn trở về quê với vợ con bà tư lự suốt mấy tháng. Bà không buồn ngó
ngàng đến công việc nhà. Má tôi phải nấu cơm và hầu hạ bà như mẹ chồng. Biết
hàng xóm vì nể má tôi nên bà càng có dịp chửi mắng họ vô duyên cớ. Chẳng có ai
phản ứng gì. Trái lại những lời nguyền rủa của bà biến thành những câu hài hước.
Bà nghi ngờ ai cũng mê ông Tư Tấn nên bà ghen tuông đáo để.
Một buổi sáng bà xách gáo xuống cầu gội đầu. Tóc bà đã bạc hơn nửa mái đầu. Gội
đầu xong, bà vào thay bộ đồ lục soạn trắng lốp rồi đội khăn the màu hường õng ẹo
đi chợ. Tôi chận lại hỏi:
- Bà Bảy đi đâu sớm vậy?
Bà nguýt tôi một cái:
- Tao đi uốn tóc. Khéo hỏi!
Tôi vịn vai bà can:
- Bữa nay Chúa nhựt tiệm uốn tóc đóng cửa hết rồi.
Tôi cố nhịn cười để cố làm cho bà tin tưởng, nhưng bà nhìn tôi lộ vẻ nghi ngờ.
Cô bạn láng giềng của tôi chơi ác kề tai bà:
- Chị Linh nói gạt, bà đi mau để người ta uốn cho kịp.
Bà gạt phắt tay tôi, phủi đít rồi ngoe nguẩy đi một nước. Khi đứng trước cửa tiệm,
bà len lén nhìn vào, rồi cố bạo dạn bước vô trong.
Bà chủ ngồi ở quày hàng cất tiếng hỏi:
- Bà kiếm ai?
- Tôi đi uốn tóc. Giá bao nhiêu?
Bà chủ ngạc nhiên hỏi vặn:
- Phải có người nhà bằng lòng chúng tôi mới dám uốn tóc cho bà.
Bà trả lời đầy giọng cương quyết:
- Tôi có tiền để trả cho cô mà.
Trong khi bà chủ còn đang cố giải thích cho bà Điếc hiểu thì tôi và cô bạn đạp
xe đạp chạy như bay đi lùng mấy tiệm uốn tóc. Vừa thò đầu vào tiệm Nam Hiệp,
chúng tôi thấy hai người đang bàn qua cãi lại. Tôi không dám nói năng với bà chủ
tiệm chỉ sợ bà Điếc biết tôi vào cản mũi. Tôi giục Thảnh (cô bạn láng giềng)
cho bà chủ biết rằng bà Điếc khật khùng. Bà chủ nhoẻn miệng cười rồi khẽ gật đầu.
Bà Điếc nhìn Thảnh rồi quay sang bà chủ tiệm cố lắng nghe sự đối thoại giữa hai
người. Sau rốt, bị từ chối, bà Điếc đoán được sự có mặt của Thảnh nơi đây. Bà
nguýt dài bà chủ tiệm rồi bỏ về.
Hai đứa chúng tôi đã lỏn về trước. Vào nhà tôi vờ vào phòng đọc sách lắng nghe
từng tiếng động của bà trước thềm nhà. Bà rì rầm chửi rủa một mình. Không thấy
tôi đâu, bà xông vào buồng lục kiếm. Tiếng guốc lộp cộp của bà gần về cửa buồng.
Tôi cố giữ vẻ thản nhiên chúi mũi vào quyển sách. Bà chỉ về phía tôi nhiếc:
- Cái con này nó vô dang (bà muốn nói vô duyên) ghê! Tao đi uốn tóc mắc mớ gì
mày mà mày xúi con Thảnh qua cản trở? Sao mày biết uốn tóc mà mày cấm cản tao hả
con mập kia? Con chó thiến này làm chuyện lãng òm...
Cố nén tràng cười đang chực tuôn ra, tôi chối phắt:
- Nãy giờ tôi ở nhà, đâu có xúi biểu ai đâu.
Bà chẳng chịu tha:
- Mày cứ sợ ai cũng ngộ hơn mày nên mày ganh ghét tao. Thấy cái bản mặt phì lũ
của mày mà ứa gan...
Tôi vẫn lặng thinh. Mắng nhiếc chán, bà trở về căn nhà nhỏ lầm bầm rủa xả suốt
buổi. Không ngờ bà Điếc có địch thủ để ganh duyên đọ sắc. Tội nghiệp! Kẻ đó lại
là tôi...
Rồi một cái Tết trôi qua. Lật bật đã đến ngày đưa ông Táo. Trước nhà mấy chậu hồng
và thược dược đua nhau nở vào buổi sáng. Tôi đang ngồi tỉa những cành lá úa. Thảnh
nảy ra ý kiến mời bác thợ chụp hình cho tôi vài kiểu. Tôi bác bỏ ý kiến chụp
hình ngoài trời vì bữa hôm đó trời âm u quá, và tôi đề nghị cắt vài bông hồng kết
thành một bouquet đem vào tiệm chụp lấy rõ mặt mũi. Để điểm trang cho bó hoa,
tôi tẩn mẩn cột vào một cái nơ lụa màu thiên thanh. Bây giờ thì tới phiên tôi
ngồi vào gương đánh phấn nước, kẻ hai bên lông mày cho mắt sáng lên. Đôi môi của
tôi được tô bằng một thứ son đỏ hoét. Trang điểm xong, tôi nhìn vào gương ngắm
nghía lần chót, hai đuôi lông mày tôi vẽ đậm xếch ngược giống như mày của Liz
Taylor. Tôi mím đôi môi làm duyên và chọn cho mình một góc cạnh khác hẳn để
tránh chưng cái mặt đầy thịt hai bên má như cái bánh bao. Tạm hài lòng về cách
hóa trang của mình, chúng tôi đi qua tiệm hình cách nhà vài ba mươi thước. Thảnh
trịnh trọng gói bó bông lại cẩn thận. Tôi ngồi trước máy hình do sự đạo diễn của
ông ba Tàu. Ông ta xoay đầu tôi nghiêng qua bên này bên kia để ngắm nghía. Chưa
vừa lòng, ông sửa lại bó bông trên tay tôi.
Tôi áp bó bông vào má. Thú thật tôi không dám cười vì có mặc cảm cái miệng mình
rộng như miệng cá vồ, nên cố mím môi lại cho nó mỏng bớt và cho đôi mắt mơ màng
huyền ảo thêm.
Về nhà, trước gương tôi cố diễn lại cái màn cũ, ngồi ưỡn ẹo bên bó bông rồi tự
mãn chờ ngày lấy hình.
Như mọi chiều thứ bảy, Duy trở lại thăm tôi. Trên tay chàng, tờ báo Điện Ảnh cuốn
tròn. Chúng tôi ngồi cạnh cửa sổ hướng ra sông. Tôi giành tờ báo và lật vội.
Hình ảnh chàng Hercule đưa cái ngực dày và những bắp thịt ở bụng chia làm sáu mảnh
nổi bật lên. Quay lại nhìn Duy. Ồ! cái bụng của chàng cao lên như cái mả mới đắp.
- Anh bự con, nếu anh cố tập thể thao thì chẳng bao lâu ngực anh sẽ nở, nhứt là
bụng anh sẽ chia ra làm sáu miếng như bụng Hercule.
Duy nhìn tôi rồi nhìn xuống cái bụng binh rinh như giấu cái nồi trong áo. Chàng
cười:
- Bụng phải để cho nó thống nhất một khối thì mới mạnh được. Chia ra nhiều khối
e mất tinh thần đoàn kết đi.
Trước vẻ yên lặng bất mãn của tôi, Duy lấy điếu thuốc lá ra đốt. Tôi vẫn dán mắt
vào tờ Điện Ảnh. Những chuyện không đâu cũng dễ đem đến cho nhau những bất mãn.
Những cuộc gặp gỡ như thế đã giết lần những tình cảm tốt đẹp. Không khí buồn tẻ
nhốt chúng tôi. Tôi cảm thấy sắp chết ngộp, cần phải dãy dụa để thoát.
Thảnh đem hình về. Mấy con bạn láng giềng giành nhau coi. Chúng nó xuýt xoa
khen hoa đẹp, cái nơ xinh. Cơ khổ! Chúng nó quên cái điều quan trọng nhất là
khen hình tôi. Tôi giành lấy hình. Sao mà đôi môi tôi dày dục nằm vắt ngang như
hai con đỉa trâu. Đôi mắt tôi đánh "phong" xanh gớm ghiếc. Chụp chung
với bông hoa là điều bất lợi cho tôi. Người ta mắc ngắm những vật gì làm phụ
tùng cho tôi, hơn là thích ngắm khuôn mặt tôi.
Duy sắp đi quân dịch. Tôi sẽ kéo dài đời sống cô đơn với số mỡ thừa thãi dưới
làn da mát như bánh đúc, trơn như sa-ten và bên mụ già càng lúc càng chìm đắm
trong một thế giới ma quái. Cứ xem buổi điểm tâm hàng ngày mà mình ngán ngược.
Với một tô hủ tiếu tôi chưa thấy thấm tháp gì ở bao tử. Dùng thêm một ly cà phê
sữa, tôi chỉ mới no lưng lửng thôi. Phải thêm một khúc bánh mì dồn thịt nguội nữa,
tôi mới vững dạ đi làm ở một tiệm may gần nhà lồng chợ Vĩnh Long. Ăn uống như vậy
đó, ngoài hai buổi cơm chánh, tối nào tôi cũng ăn hột vịt lộn hoặc hai vắt mì
trước khi đi ngủ. Cái ngực tôi đồ sộ, và cái bụng cũng bề bộn không kém. Phen
này chắc phải đi đóng phim giả làm đào Ấn Độ. Có đôi lúc tôi soi gương thấy
mình giống hệt con đào Savitri. Đôi mắt ốc bươu này nếu vệt thêm một quầng đen,
phải vẽ thêm một vết son đỏ giữa hai chân mày, phải gắn hột xoàn ở một bên sống
mũi, phải đứng trước tấm phong vẽ hình hai con rắn hổ phun xòa bàn nạo. Như vậy
tôi có thể thủ vai chính trong phim "Công Chúa Cá Phò Mã Cùi" hoặc
trong "Xe Duyên Chỉ Thắm". Có nhiều lúc tôi muốn lấy chồng Chà và để
được ăn CA-ri để cho xong cuộc đời. Dáng đi ột ệt của tôi làm đề tài hài hước
cho trai trong xóm. Có nhiều lúc ngồi may, chợt nghĩ tới cái "ben"
chít trên áo dài mà mình tủi thân. Lúc sau, tôi phải xoay qua mặc "rốp xắc"
cho tiện.
Ông Tư Tấn có dịp trở lên chợ và ghé thăm bà Điếc. Bà dọn cho ông một bữa cơm
bĩ bàng gồm có rượu, thịt hầm, cá bống chưng. Ông ngồi ngâm nga uống từng ngụm
nhỏ. Hôm đó bà bận rộn suốt ngày. Dan díu được mười bữa thì ông Tấn bỏ đi, tiền
bạc mà bà cắc ca cắc củm mấy tháng nay bị ông Tư Tấn vuột sạch. Từ đó, chứng bịnh
sống bên lề thế giới quái đản tăng dần. Cơ hồ bà rời khỏi cuộc sống chung đụng
với người chung quanh. Bà tự tạo cho mình một thế giới khác, nhiều mơ ước kỳ quặc.
Ít khi bà có mặt với thực tại, bà không mơ mộng, suy nghĩ, bà sống trong cơn đồng
thiếp, hay một vũ trụ lạ lùng mà tôi không sao hiểu nổi.
Vào một buổi trưa hè, tôi đang ngồi tra mấy cái nút vào một chiếc áo. Bà chạy ù
vô đóng cửa ầm ầm miệng gào lên:
- Cọp vô nhà! Mày phụ tao đóng cửa mau đi.
Tôi vẫn thản nhiên tiếp tục công việc, mặc tình cho bà hò hét và cuống cuồng
đóng cửa nọ bế cửa kia. Thấy tôi vẫn ngồi lì trên võng, bà vừa đóng cửa vừa nhiếc:
- Cái con này đáng cho cọp nhai lắm. Mày không sợ cọp ở núi Tà Lơn xuống sao?
Mặt bà xanh lét mồ hôi rịn ra hai bên mép và trán. Cửa đóng xong bà đến bên tôi
thở hồng hộc.
Chán cái trò cọp rượt bà lỏn lẻn rút êm về chòi.
Theo lời đề nghị của hàng xóm, tôi đưa bà đi y sĩ chuyên môn chữa thần kinh.
Nhưng y sĩ trả lời bà vẫn là người bình thường. Bà chỉ bình thường vào ban
ngày. Khi đêm về, bà sống trong thế giới người chết. Gào thét suốt đêm làm khuấy
động cả giấc ngủ hàng xóm.
Lại một buổi chiều, gió lốc trên mái ngói tuôn ồ ạt xuống những ngọn hoàng lan
quanh nhà. Bóng tối đầy ắp trong khắp mọi gian buồng. Tôi hé cửa nhìn sang chòi
bà Điếc, ngọn đèn dầu hôi vàng vọt đang rung rinh qua mắt cáo. Tiếng càu nhàu đều
đặn của bà cũng bắt đầu nổi lên. Cứ mỗi buổi chiều khi nắng đã đi trốn khỏi mái
nhà bên kia sông là đến giờ bà Điếc bắt đầu phát thanh. Bà nói luôn miệng, thỉnh
thoảng lại cười thét lên ra vẻ khoái trá. Bóng tối đã đưa bà vào một thế giới
ma quái. Bà gọi tên những người khuất mặt và lảm nhảm trò chuyện với khoảng
không. Hình như có ai ngồi bên bà để bà hỏi rồi trả lời lấy một mình như thế suốt
đêm, gần đến sáng bà mới lăn ra ngủ. Thình lình bà hét lên mừng rỡ:
- Vợ thằng Hưởng đó à? Lâu quá mới gặp mày. Sao bây giờ mày ốm vậy?
Bất giác tôi thấy lạnh xương sống. Người đàn bà mà bà Điếc vừa nói chuyện là
thím dâu tôi đã giận chồng uống thuốc ngủ tự tử ngay trong nhà tôi ba năm về
trước. Hình ảnh cuối cùng lúc thím hấp hối đang diễn lại trước mặt tôi. Đôi mắt
thím mở tròn sau khi y sĩ chích cho thím một mũi thuốc hồi dương. Đôi môi màu
trái mồng tơi của thím mấp máy sau cơn hôn mê suốt mười tiếng đồng hồ. Những đường
gân trên người thím chuyển động. Chiếc giường run rảy nghiến ken két. Thím nhìn
chòng chọc vào những người có mặt chung quanh giường, tay quơ lên không gian. Đôi
bàn tay trắng xanh, dài, tím đen bỗng co quắp lại. Bọt hai bên mép thím trào ra
giữa tiếng khóc thét của đàn con nhỏ cơ hồ như vẳng đâu đây. Tôi lẹ làng quay lại
sau lưng, hình như có tiếng khua động. Tôi chạy đến vặn đèn to lên. Càng sợ tôi
lại hướng mắt về bàn thờ của thím. Đôi mắt của thím như lườm tôi. Trong bóng tối
chập chờn tôi có cảm tưởng thím sắp rời khung kiếng để lần về hướng tôi đứng? Vội
mở cửa tôi chạy tuôn ra ngoài đi băng qua nhà Thảnh năn nỉ.
- Mày qua ngủ với tao đêm nay, nếu không tao sẽ bỏ nhà đi chỗ khác.
Thảnh gắt:
- Hồi đó tới giờ sao chị không sợ mà hôm nay lại bày đặt lộn xộn vậy?
Tôi thuật cho Thảnh nghe chuyện bà Điếc. Thảnh níu tôi chạy về hướng chòi bà.
Lúc này bóng tối dày đặc úp kín khu ngoại ô thành phố. Gió vẫn rít mạnh. Hình
như trời nổi cơn giông. Mảnh trăng lúc này nằm vắt qua cây nguyệt quới đã bị
trăng che khuất. Tôi nắm chặt tay Thảnh. Chúng tôi đứng bên hè, vạch nhẹ mắt lá
đưa mắt nhìn vào trong. Bà Điếc ngồi khoanh tay trên bộ ngựa gõ. Ngọn đèn dầu
hôi đặt trên chiếc bàn trầu với hai ly nước trà bốc khói. Bà vui vẻ nhìn đăm
đăm vào khoảng không:
- Mày có gặp thằng Thế không?
Ngừng một lúc như để nghe kẻ đối thoại vô hình trả lời, bà tiếp:
- Mày không gặp nó sao? Hôm qua nó vô đây đòi ngủ với tao nè.
Đôi mắt Thảnh mở to nhìn tôi. Chúng tôi đứng sát vào nhau. Bàn tay lạnh cóng của
tôi chạm phải làn da đầy gai ốc của Thảnh. Thằng Thế mà bà vừa nhắc đến là chú
của tôi đã chết vì chứng bịnh phong đòn gánh mấy năm về trước cũng trong căn
nhà này. Hỏi chán, bà lăn ra nằm sát vào vách, tay gối lên đầu, còn cái gối của
bà đặt phía ngoài. Bà nép mình tránh và nói tiếp:
- Tao nằm đây, mày có mỏi lưng thì nằm xuống đi vợ thằng Hưởng.
Gió sông ào vào cổ tôi. Tôi lạnh cóng cả người như bị ướp nước đá. Chúng tôi
quay vào nhà. Đi độ vài bước, tiếng cười sằng sặc của bà Điếc lại vang lên:
- Tụi bay rình rập gì tao đó? Tao không có đem thằng nào về ngủ đâu.
Tôi chạy nhanh, tiếng cười ghê rợn của bà như đuổi theo.
Chúng tôi xẹt vào buồng ngủ đóng kín cửa. Ngọn đèn chong vẫn để cháy tỏ. Khi
chúng tôi vào giường, tiếng rì rầm của bà vẫn còn văng vẳng. Chẳng bao lâu tiếng
thở của Thảnh đều đặn. Lấy mền bịt tai lại, mắt tôi nhắm nghiền. Cuối cùng, cơn
buồn ngủ vẫn không đến. Tôi lò mò đi tìm viên thuốc an thần. Tiếng đồng hồ bên
hàng xóm đều đặn buông hai tiếng. Sự sợ hãi vu vơ từ chập tối đến giờ lên tiếng
từ giã tôi.
Thảnh rón rén bước xuống giường, tôi vẫn nằm co ro trong mền ngủ nướng. Ánh nắng
buổi sáng len lén bước vào thăm theo đường song cửa sổ. Tiếng hàng quà vọt lên
như vòi nước. Tiếng guốc của Thảnh lốc cốc trở lại, nó tung mùng lôi xểnh tôi dậy:
- Mau ra coi bà Điếc nè!
Tôi chạy ụt ịt sau Thảnh. Đến sàn nước, bà Điếc đang ngồi cạnh lu nước súc miệng
bằng bàn chải với kem, bọt bèo ứa ra hai bên mép, chiếc bàn chải đưa qua đưa lại
đều đặn trên hai nướu không còn răng. Chúng tôi vịn nhau cười sằng sặc. Bà Điếc
ngẩng lên, đôi môi trắng xóa y như râu con lân. Tôi đến vịn vai bà, hỏi:
Răng cỏ đâu mà đánh bằng bàn chải. Coi chừng chảy máu miệng bây giờ.
Bà nhổ xong ngụm nước đầy bọt xà bông rồi há miệng chỉ vào trong cùng:
- Tao còn một cái răng cấm nè.
Thảnh lăn ra cười:
- Hèn chi, hôm trước chị Nguyệt nói là chỉ bắt gặp bả đang ngồi ăn mía ghim.
Mưa đêm ồ ạt, cơ hồ như muốn trút xuống trần gian để lôi cả nhà cửa trôi theo
dòng nước. Nóc nhà tôi tuôn ngói rổn rảng trong cơn lốc. Tôi cầm đèn đi xuống
nhà bếp đẩy hé cửa sổ nhìn về chòi bà Điếc. Cái chòi lắc lư trước gió. Ngọn đèn
bên trong tắt phụt tự bao giờ. Bà Điếc không nói nhảm. Vẫn không có tiếng động
nào ngoài cơn gió dữ dội và khối nước ụp xuống mái nhà. Tôi khoác áo mưa cầm
chiếc đèn bấm chạy vụt ra chòi. Vệt ánh sáng xanh quét vào chòi. Bà Điếc vẫn ngủ
say. Tôi yên trí trở vào giường nằm co rúm trong mền như con tôm kho tàu trong
lòng chảo. Hình như tôi đang chìm trong không khí ngột ngạt sâu thẳm không có
cách nào ngoi lên được. Những kỷ niệm lợt lạt từ đâu lũ lượt kéo về. Đã bao lần
tôi cố tránh né những thứ bận rộn đó, nhưng nó cứ rỉ rả lọt vào cuộc sống bên
trong của tôi. Tôi sợ những đêm khuya rả rích như thế này. Ngọn đèn chong đang
nhảy múa trong ống khói pha lê trong suốt. Âm thanh đều đặn của những giọt nước
mưa trên mái ngói dần dần rủ tôi vào giấc ngủ.
Như thường lệ, cứ mỗi sáng tôi xuống sông lội một vòng cho tiêu bớt những thớ mỡ
sa đang tích trữ dưới nây bụng tôi. Cái quần đùi đen để lộ đôi chân ú nần như
hai cái ống nhổ và trắng xanh như bụng con cá tra. Tôi đi ngang chòi bà Điếc để
xuống cầu. Bất chợt tôi hé vách nhìn vào. Bà đang nằm quay mặt vô vách, thỉnh
thoảng lại cựa mình rên khe khẽ. Tôi lách cửa vào trong, rờ lên trán của bà. Sức
nóng chuyển sang bàn tay tôi. Bà vẫn chưa hay sự có mặt của tôi. Tôi lay và gọi
giật bà. Bà Điếc cố cựa mình một cách khó khăn rồi nhướng đôi mắt lõm sâu nhìn
tôi, phều phào nói:
- Tao đau hồi hôm đến giờ.
Giọng bà chìm lỉm trong cổ. Bà run lẩy bẩy, đôi tròng mắt vàng như nghệ.
Sau khi khám bệnh, bác sĩ trầm ngâm giây lát, nói:
- Bà ta bị chai gan. Nên đưa bà vào nhà thương.
Nghe tiếng nhà thương bà phản đối, cho rằng nằm nhà thương là bị bỏ rơi rồi sẽ
chết để cho ruồi bu kiến đậu. Đành chịu thua, tôi để cho bà ở nhà, rồi nhờ Thảnh
đi bổ thuốc theo toa bác sĩ và thay phiên nhau săn sóc bà. Tuần lễ sau, bịnh bà
Điếc không thuyên giảm và cái bụng của bà to như bụng ễnh ương. Tay chân bà khô
gầy như bộ xương trong phòng thí nghiệm. Tôi nhờ bao nhiêu người đến thuyết phục
bà đi nằm nhà thương. Bà Điếc vẫn cho rằng nếu ra khỏi nhà này bà sẽ chết. Cuối
cùng tôi nhờ hai ông hàng xóm khiêng bà lên xe xích lô. Bà cố dãy dụa nhưng sức
bà đã kiệt nên bà không tài nào ra khỏi vòng tay lực lưỡng của họ. Trên chiếc
giường sắt phủ ra trắng, bà Điếc nhắm nghiền mắt, đôi môi khô tái nhợt. Thỉnh
thoảng, bà nhướng mắt lên đỉnh mùng rồi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn. Thi
(cô em họ tôi) ngồi bệt nơi góc phòng lẩm nhẩm đọc tiểu thuyết. Chốc chốc, Thi
ngẩng lên liếc vội về phía bà Điếc.
Nửa tháng chầm chậm trôi qua. Chúng tôi thay phiên nhau ngủ nhà thương. Cứ mỗi
buổi chiều, hàng xóm lũ lượt tới thăm. Những gói quà chất đầy ngăn tủ. Độ vài
ba hôm bà được y sĩ rút nước thừa chứa trong bụng. Nước ào ào chảy xuống thùng
thiếc, sủi bọt trắng ngần. Ruồi nhặng mở cuộc liên hoan quanh mép thùng. Số mỡ
thặng dư của tôi rút lui dần sau nhiều đêm bị đánh thức. Thân thể tôi như rã rời
từng mảnh. Người tôi nhẹ bớt nhưng đầu óc tôi nặng nề. Hai con mắt màu tím xanh
như đánh phông. Tôi giao bà Điếc lại cho cậu em (con cô tôi) để về nhà nghỉ
ngơi một lúc. Đẩy cửa vào nhà, mùi ẩm ướt trên nền gạch xông lên. Tôi đặt chiếc
giỏ trên tay xuống lần ra sàn nước. Dòng nước mát dội từ trên đỉnh đầu chạy dọc
xuống tận chân đã lôi tôi ra khỏi cơn nặng nhọc. Mùi cay nồng của chất alcool
và mùi tanh tanh của bệnh viện trôi theo dòng nước. Tôi trở vào nhà quăng mình
lên võng. Tiếng kẽo kẹt đều đặn vang vang trong căn nhà âm u. Gió sông lòn vào
khung cửa. Tấm màn màu da trời bay bay. Mí mắt tôi mỏi mệt ôm choàng lấy tròng
mắt. Một ý tưởng chợt nảy lên đầu óc tôi. Nếu bà Điếc chết. Nếu... Tôi giật
thót cả mình mảy. Không, không thể nào... Tôi không dám nghĩ xa hơn. Bà điên rồ,
mê muội... Nhưng cuộc đời bà gắn liền cuộc đời tôi từ lâu. Nước mắt tôi trào
ra. Tôi không thể sống ở nhà này với những bóng ma.
Tôi chợt nhớ ra mình đã tắt kinh từ một tháng nay. Duy đã đi Saigon hơn một tuần
rồi. Ôi! tôi phải đi khám bác sĩ. Đàn ông thường không nghĩ tới hậu quả của một
phút bồng bột. Tôi lấy tay rờ lên bụng. Từ lúc bà Điếc đau ốm tôi quên tất cả,
chẳng để ý đến sự phòng ngừa. Nhưng sự bồn chồn vẫn không làm giảm cơn kiệt quệ.
Tôi mơ hồ như cái đầu tôi rớt qua một bên võng, mọi sự việc đã chuồn khỏi óc.
Màu trắng chập chờn của bốn bức tường vôi bệnh viện và những chiếc giường sắt
phủ drap lùi xa rồi mất hút.
Anh Duy! Sau vụ phá thai em sụt mất mười hai ký thịt. Em gày gò, xanh xao. Đàn
ông như anh là kẻ vô trách nhiệm. Anh chớ tưởng sức mấy mà em trả đũa chuyện
anh bỏ em bơ vơ với cái bào thai trong bụng được ba tháng. Đêm đêm em giật
mình, có cảm tưởng mình là kẻ sát nhân. Mai sau, xuống âm ti địa ngục, cũng
riêng mình em chịu tội. Càng tội hơn là lúc đầu em chẳng mảy may bị lương tâm cắn
rứt.
Bà Bảy Điếc đã chết rồi. Tới phút lâm chung bà chịu rửa tội để về với chúa. Lẽ
nào, một cô gái trẻ tuổi như em ở bên lề cái thế giới âm hồn như vậy mãi sao
anh.
Bây giờ em chỉ còn có hai lượng vàng và một cái máy may. Đợi cho đỏ da thắm thịt
để che mắt thế gian, em sẽ tiếp tục may thuê cho thiên hạ. Đời em chưa hẳn tàn như
là cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ. Em
sẽ cho bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại., sẽ nhờ ông ta vá lại màng
trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức. Nhứt định là đời em
chưa lâm vào ngõ bí đâu. Trả thù anh, chẳng lẽ em mướn du côn đánh anh. Em sẽ
làm một người đàn bà phong nhã. Đôi lúc em còn mơ đi học hát để trở thành ca sĩ
phòng trà.
Giờ đây thì em cô đơn quá. Ba má em trị cái tội lầm lỡ của em bằng thái độ hắt
hủi, bỏ liều. Quần áo em bây giờ rộng phùng phình. Phải sửa sang lối ăn mặc,
trưng diện, em mới báo thù anh cho anh sáng mắt ra là con Linh này không phải
là thứ gái gặp chuyện rủi ro là đem nước mắt ra giải quyết.
Nhìn trẻ em lối xóm, em đau lòng. Phải chi anh chịu làm cha thì con chúng ta sẽ
chường mặt với thế gian. Trời sẽ phạt em. Mai sau dù có chồng đàng hoàng, em sẽ
tuyệt tự, phải xin con nuôi. Em vốn hiền lành, nhân đạo, tại anh, tại anh đó,
em mới làm kẻ sát nhân.
Em sẽ ra đi khỏi tỉnh nhà, chạy trốn ám ảnh quá khứ. Mùa này có ốc gạo và xoài
tượng. Các bà mang bầu tha hồ ăn cho thỏa thích bù tới lúc nằm giường cữ chỉ ăn
cơm trắng với cá kho khô. Bây giờ em bịnh hoạn, chẳng ăn gì ngon, lại ngủ không
được. Nhắm mắt lại em thấy đứa nhỏ bò qua bò lại, nhe hai cái nướu trống trơn ra
cười với em. Lại nữa, hình ảnh bà Điếc ám ảnh em từng giây phút, ban đêm lẫn
ban ngày. Biết đâu em sẽ là phản ảnh của bà sau này, điên cuồng vì khát vọng
quên mất tuổi già.
Ôi! em sẽ chết trong êm vắng, trong ám ảnh dày vò chăng? Em phải đi, phải đi...
Em nhìn ra một chân trời khác. Em sẽ tìm yên ổn cho mình. Nơi đó, em chỉnh đốn
lại cuộc đời. Để rồi anh xem! Kẻ nào khinh rẻ em, kẻ đó sẽ hối hận. Anh đừng tưởng
rằng anh xuôn sẻ mãi đâu. Trời phạt anh thất nghiệp. Anh lường gạt tiền bạc
thiên hạ nên anh bị tù.
Tuy vậy, em sẽ mở cho anh một con đường khi anh ra khỏi khám. Con đường ấy sẽ
đưa anh vào vòng tay rộng lượng của em. Trời sinh chúng ta gắn bó với nhau. Dù
có khinh nhau, nhưng chúng ta khó mà bứt sợi dây oan nghiệt đã ràng buộc chúng
ta từ kiếp trước...
Nguyễn Thị Thụy Vũ