Ngày thứ ba, 11 tháng 9 năm 2001, khoảng sáu hay bảy giờ
sáng, tôi đứng trong phòng cấp cứu của bệnh viện Richmond. Tay tôi cầm cái khay
nhỏ có bánh xe chứa dụng cụ, từ buồng bệnh đi dọc theo hành lang đến khu vực y
tá. Trên hành lang những chiếc giường do xe cấp cứu đẩy vào nằm la liệt, tôi tự
nhủ, sẽ là một ngày bận rộn. Tôi dừng lại, một điều gì đang xảy ra, trên màn vô
tuyến truyền hình gắn ở cuối hành lang, nhưng không phải chỉ trên màn hình, mà
trong không khí lan toả, trên vẻ mặt mỗi người, y tá và bệnh nhân, nhân viên cứu
thương và nhân viên bảo vệ, cảnh sát và bác sĩ, một điều gì tựa như sự nối kết
vô hình, một thông điệp sợ hãi lập tức nhận ra. Tôi thấy những ngọn lửa đỏ hừng
hực, những đám mây đen, những tro tàn lả tả. Người chạy ngược trên đường, tất tả,
hoảng hốt, chạy ngược về phía tôi đứng.
Đó là một ngày đẹp, quanh tôi trời mờ sáng, mặt trời rẽ mây đi tới, gió mát lướt qua nhấp nhô đồi vàng óng của rừng phong thu đã. Chuyến bay American Airline 11 đã rời khỏi phi đạo ở phi trường Boston, và tiên liệu sáu giờ sau sẽ đáp xuống Los Angles, thành phố thiên thần. Nhưng nó bỗng đổi hướng, về New York. Nó sẽ mang theo chín mươi ngàn lít xăng, với trọng lượng và tốc độ ghê gớm, lao vào toà tháp đôi World Trade lúc 8 giờ 45 phút. Mười lăm phút sau khi chuyến bay ấy cất cánh, từ một phi trường khác, chiếc United Airline 175 cũng lăn bánh chuẩn bị bay về New York. Trên máy bay, một người đàn bà vừa thắt lại dây lưng an toàn, có lẽ đang nhận ly nước ngọt từ tay người chiêu đãi viên, với chiếc khăn lau miệng và gói bánh kẹo ăn vặt,như thường lệ. Mặc dù đói bụng, cô không vội ăn uống, cô rút từ trong túi áo ra chiếc điện thoại di động và nhắn tin cho đứa con gái mười sáu tuổi đang từ nhà tới trường: “mẹ đã lên máy bay, mọi chuyện tốt đẹp, mẹ nhớ các con”. Con bé có một đứa em trai chín tuổi, khi ấy đang ngồi trên xe hơi của ba nó vì chúng học hai trường khác nhau, con bé muốn đi tới trường một mình, đi bộ, vì gần nhà.
Đó là tất cả những gì còn lại, trong điện thoại của đứa con
gái, và trong những gì người lính cứu hỏa tìm được dưới đống gạch đá tro tàn.
Nhưng vào lúc ấy, những câu chuyện như thế chưa ai biết cả.
Vào lúc ấy, thế giới đứng sững lại, nhân loại bàng hoàng, đồng tử mở lớn, chôn
chân xuống, bất động, không tin vào điều mình nhìn thấy. Vào lúc ấy, sự sống dừng
lại. Tôi cầm chặt tập bệnh án trong tay, cố không để rơi xuống. Trên chiếc xe
mà tôi đang đẩy đi có khay dụng cụ để chuẩn bị truyền tĩnh mạch trung tâm cho một
bệnh nhân suy kiệt nhiều ngày, không ăn được do ung thư tụy giai đoạn cuối. Đã
lâu không làm thủ thuật lấy central line này, tôi nghĩ tôi cần đến sự giúp đỡ của
một đồng nghiệp khác, đang chờ anh ta tới, tên này thường xuyên tới trễ. Trên đầu
tôi khói bốc nghi ngút, những người chạy trên đường, đàn ông và đàn bà, người lớn
và trẻ con. Nhưng chuyện đó không chỉ xảy ra ở New York. Hình như nó đang xảy
ra ở nhiều nơi khác, mọi thứ tin tức lộn xộn, tin tức và tin đồn. Chuyến bay
American Airline số 77, chuyến bay thứ ba, rời khỏi phi trường Dulles sớm hơn một
lát vẽ đường bay qua nước Mỹ trước khi phi công và người lái phụ bị khống chế bởi
bọn không tặc và đổi đường bay, lao xuống Ngũ giác đài. Lúc chín giờ sáng ngày
11 tháng 9, một người đàn ông nhắn tin cho vợ mình từ trên chuyến bay 77 ấy,
“em ơi, máy bay của anh bị không tặc”. Đó là tin nhắn cuối cùng.
Trên tất cả bốn chuyến bay, mỗi chuyến có bốn hay năm tên
không tặc Hồi giáo, trong đó có một được huấn luyện kỹ để lái máy bay phản lực.
Chuyến bay United Airline 93 bay về hướng thủ đô Washington DC đã bị chệch hướng,
do những hành khách dũng cảm đứng lên đương đầu với bọn không tặc, cướp lại
phòng lái, và cuối cùng tất cả đã lao xuống một cánh đồng gần thành phố
Shankville, Pensylvania lúc 10: 03 AM. Những hành khách anh hùng ấy sẽ được tưởng
nhớ, không có cố gắng tuyệt vọng của họ, hàng ngàn người khác đã chết ở khu vực
gần Bạch cung hoặc đồi Capitol quốc hội Mỹ, một trong hai đối tượng mà chuyến
bay nhắm tới.
Tôi nhìn ra ngoài cửa, mặt trời đã lên cao, mây bay đầy trời,
mỏng dần như những chiếc khăn lụa trắng. Tôi tưởng tượng mặt đất đầy mùi hương
của mùa tường vi muộn, oải hương, thanh cẩm tú, hoàng cẩm tú. Một con ong cuối
cùng bay qua. Nhưng những bệnh nhân nhỏ tuổi bị gãy xương của tôi vẫn cứ la
hét, những người già lú lẫn ngồi trong xe lăn vẫn rên rỉ, xe cứu thương vẫn tới
tấp đổ người vào, dây chuyền nước biển vẫn phải tí tách nhỏ giọt, các y tá chạy
đi chạy lại, một Code white, một Code blue được phát trên loa đâu đó nhưng tôi
không có thì giờ quan tâm đến. Tôi nhìn bảng phân công trên tường biết là chỉ
có ba bác sĩ trực, hai nội trú, và một bác sĩ sản khoa hôm nay, trên tổng số
giường ba mươi hai, y tá rất thiếu, nhìn quanh toàn thấy khuôn mặt lạ, những nữ
y tá giỏi mà tôi trông cậy biến đâu mất.
Tôi nhìn thấy một trong hai tòa tháp đôi sụp đổ, trong khi
cái kia vẫn còn. Sau này tôi biết đó là South Tower. Cái thứ hai, North Tower,
vẫn còn, một lúc nữa. Tôi nhìn thấy rõ như vậy. Tôi biết chắc rằng tôi nhìn thấy
cái thứ hai thủng một lỗ lớn, gọn ghẽ, khói đen phụt ra, khoảng nửa giờ sau bắt
đầu lảo đảo ngã xuống. Tôi không nhớ đó là cảnh quay trực tiếp, live, hay quay
lại, nhưng nếu quay lại thì cũng gần như ngay lập tức. Lúc đó là bảy hay tám giờ
sáng, giờ các y tá đang giao ban ở phòng bên cạnh. Nếu có một cảnh tận thế nào
cần được dựng lên trong phim ảnh về sự kết thúc của loài người hay trái đất,
hay của vũ trụ, hay sự kết thúc của bất cứ điều gì mà bạn hằng tin, tôi không
thấy một thí dụ nào hoàn hảo hơn sự sụp đổ của buổi sáng hôm ấy. Khi mọi người
nhìn thấy tòa tháp thứ hai đổ xuống, không ai còn tin rằng đó là tai nạn, cũng
không ai tin rằng nó là một vụ không tặc thông thường.
Đây là sự tiêu diệt nước Mỹ và nhân loại. Đã có 2,977 người
vô tội đủ mọi chủng tộc bị giết, trong đó có 340 lính cứu hỏa và 72 cảnh sát,
25 ngàn người bị thương hay tàn tật, hàng ngàn gia đình đau khổ vì mất cha mất
mẹ mất anh em. Kinh tế thế giới đình trệ, nhiều người trong các nước thứ ba mất
việc lây, lâm vào cảnh bần cùng, bao nhiêu bất trắc và bất tiện cho người đi lại
hàng không, cuộc sống vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn, nhân loại trở nên nghi
ngờ nhau, khởi động các âm mưu trong bóng tối, các đầu óc bệnh hoạn, các biên
giới dựng lên cao ngất giữa các quốc gia và chủng tộc, giữa các tôn giáo và
lòng người.
Tôi đã gặp một trí thức trẻ, biện hộ cho cuộc chiến đấu của
Taliban, những kẻ thời ấy đứng ngay sau lưng bọn khủng bố, nếu không phải chính
họ chủ trương. Kẻ nào đổi giọng trước tội ác và sức mạnh chống lại phụ nữ và trẻ
em, chống lại giáo dục, tự do, nhân phẩm, không phải là bạn của chúng ta. Tiêu
diệt nước Mỹ không phải chỉ là tiêu diệt nước Mỹ, mà là mở đường cho sự tiêu diệt
thế giới văn minh. Không có thỏa hiệp nào giữa một bên là những kẻ khủng bố cực
đoan, những người bao che cho chúng hay đầu hàng chúng khắp thế giới, và một
bên là nhân loại vô tội. Một lần tôi đến New York sau sự kiện 911, khi mọi thứ
còn hoang tàn đổ nát, và một lần khác nhiều năm sau, khi khu tưởng niệm đã xây
xong, một khu tưởng niệm theo tôi chưa xứng đáng với sự mất mát và những tấm
gương quên mình, cũng như bức tường chiến tranh Việt Nam, chưa xứng đáng, mặc
dù vậy cũng tạm thu xếp xong. Cả hai lần, tôi đều có cảm giác lạ lùng khi đăm
đăm ngước nhìn bầu trời, không hình dung ra điều gì.
Nhiều năm sau nữa, ký ức làm việc trở lại, khi tôi có dịp đi
qua hành lang cũ của bệnh viện Richmond, gặp đúng chiếc màn hình mới, gắn trên
vị trí ti vi cũ, nhưng lớn hơn, sáng hơn. Tôi đứng đó, buổi sáng mùa thu, nhìn
ra cửa sổ, sương mờ trên cỏ bắt đầu tan, và tôi nhớ lại. Tôi đã nhìn thấy những
chấm đen li ti liên tiếp rơi từ trên hai tòa nhà, mới đầu tưởng đó là những tàn
lửa, về sau nghĩ đó là đám chim tan tác bay đi, nhưng bây giờ thì tôi tin rằng
tôi đã nhìn thấy những cái bóng người lao xuống. Tất nhiên không có gì chứng
minh tôi đúng, vì các hình ảnh quá xa, tôi chỉ biết một mình thầm tin như thế.
Mới đây đọc được một bài báo, không nhớ tác giả, kể chuyện một
người quay phim đã bắt được cảnh tượng hai người cầm tay nhau nhảy qua cửa sổ từ
trên tầng lầu cao chót vót, tôi suy nghĩ thêm.
Tôi tự hỏi: họ là ai? Không ai biết.
Họ là hai người bạn làm cùng phòng? một cặp tình nhân? một cặp
vợ chồng? hay một nhân viên trong giờ làm việc đang ngồi tiếp một người khách
hàng mua bảo hiểm của cô?
Dưới sức nóng của địa ngục hàng ngàn độ Celcius, họ đã nhảy
qua cửa sổ. Không ai có hy vọng nào sống sót từ độ cao khủng khiếp ấy. Họ không
đi tìm sự sống, họ biết rõ điều ấy. Họ quyết định đi tìm cái chết, dẫu là tan
tác, trên một mặt đất yêu dấu, tráng nhựa hay cỏ mềm xanh, và vào giây phút ấy
họ cầm chặt lấy tay nhau, như một phản ứng tự nhiên, dù đó là người họ đã gặp mỗi
ngày nhiều năm nhiều tháng hay những người mới gặp lần đầu, không biết họ tên
không quê quán. Họ quyết định mang theo số phận kẻ khác, một con người, trong
bàn tay nhỏ bé của mình. Tôi thường nghĩ tới hình ảnh hai bàn tay nắm chặt lấy
nhau ấy, trong một giây ngắn ngủi và dài vô hạn.
Nguyễn Đức Tùng
9.11.21