07 October 2021

AO NHÀ - AO NGƯỜI - Trần thị Nhật Hưng

Bà Mai đưa mắt ngắm cô dâu, chú rể. Cô dâu ba mươi sáu tuổi, chú rể hai mươi bảy tuổi. Trông cũng xứng ấy chứ, nhất là đối với người con gái Việt đứng bên cạnh một chàng trai Thuỵ Sĩ. Đã vậy, Trang, tên của cô dâu, vốn dĩ xuất thân từ một gia đình khá giả. Thân phụ nàng từng giữ chức vụ cao trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Mẹ có một cửa hàng buôn. Trong đời sống ăn sung mặc sướng không lo nghĩ tiền bạc mặc dù sau năm 1975 gia đình có sa sút, Trang vẫn giữ được nét trẻ của ngày nào. Với dáng dấp mảnh mai, Trang đứng bên Heinz cao lớn với bộ râu xồm xoàm, cái mức tuổi chênh lệch dường như không thấy nữa.

Đối với người Âu, Úc cũng như Mỹ Châu nói chung và người Thuỵ Sĩ nói riêng, khó mà họ định được tuổi tác của dân Việt. Hầu như cái nhìn của họ đều thấy dân Á Châu trẻ đi, có lẽ vì dáng người Á Châu nhỏ nhắn hay tại không bương chải ra đời sớm nên còn nét ngây thơ. Cũng như bà, khi tới Thuỵ Sĩ, lúc đó đã 32 tuổi, một lần mua vé xe Bus, người tài xế nghiễm nhiên bán cho bà vé nửa giá dành cho người dưới 16 tuổi. Lần khác mua vé xe lửa đi chơi xa, quày vé hỏi bà đã tới 16 tuổi chưa để bán nửa giá dành cho trẻ em. Cũng chính vì điểm này, lúc giới thiệu người phối ngẫu cho Trang, khi bí cùng bà mới tìm cho nàng một người chồng trẻ tuổi.

Bà Mai nhìn lại cô dâu, chú rể. Tuy cả hai đã xứng cặp nhưng trong thâm tâm bà vẫn chưa hài lòng. Đối với bà, một người con gái Việt lấy chồng ngoại quốc, bà cảm thấy như mất mát cái gì, bà làm như tổ quốc Việt Nam thân yêu của bà vừa mất một người con. Tự nhiên bà buồn vu vơ rồi chợt thở dài.

Trước khi làm mai cho Trang với Heinz, thật ra đâu phải bà không nhớ câu “Ta về ta tắm ao ta. Dù trong, dù đục, ao nhà vẫn hơn”. Vốn không muốn con gái Việt lấy chồng ngoại quốc, lẽ đương nhiên bà phải nghĩ đến cái “ao nhà”. Tiếc rằng cái ao nhà của bà không những đục mà còn cạn không có một tí nước. Ao cạn thì làm sao mà tắm đây?! Người Việt vốn ở hải ngoại không mấy đông, có hơn vài triệu rải khắp trên thế giới. Thuỵ Sĩ là một nước nhỏ, diện tích khoảng 41.300 cây số vuông, nhiều đồi núi, số lượng người Việt càng ít ỏi hơn. Đôi khi bà nhìn đám dân Việt của bà ở Thuỵ Sĩ có khác nào dân thiểu số miền rừng núi. Tuy vậy, trước khi tìm cho Trang một tấm chồng, bà cũng đã suy nghĩ nát óc, lùng trong trí nhớ rồi ngồi liệt kê lập thành danh sách những chàng trai … ế vợ trong thành phố, vùng phụ cận, kể cả các nước láng giềng Áo, Đức, Pháp, Ý…

Người thứ nhất bà nghĩ đến là Trần Sinh Thụ. Thụ 45 tuổi, làm nhà máy in. Hồi còn ở Việt Nam nghe nói Thụ đã tốt nghiệp đại học. Cũng chỉ nghe nói, bà không rõ có đúng hay không. Vì đa số người Việt Nam ra hải ngoại, ai cũng phác hoạ cho mình một quá khứ vàng son. Dù ở Việt Nam có đi gánh nước, chữ nghĩa i tờ, ra nước ngoài cũng khoe mình từng là giáo viên tiểu học rồi tự đánh bóng bằng cái dáng vẻ bề ngoài, ăn nói uốn nắn hơn, quần áo trau chuốt hơn nên cũng chả ai biết rõ được. Thôi thì, ai nói sao bà cứ nghe vậy. Tin hay không còn tuỳ ở nhận xét của mỗi người.

Riêng Thụ, bà tạm tin như vây. Chỉ tạm thôi, vì con người anh rất khó hiểu. Bình thường anh thâm trầm ít nói. Nhưng khi nói cũng đĩnh đạc có trình độ. Chỉ lâu lâu không rõ anh đùa hay nói thật anh phát biểu một vài ý kiến rất khó nghe "Tôi xưa nay không biết đi tán gái. Cô nào yêu tôi cứ việc đến tỏ tình!”. Có người cho anh “mát” và vì lẽ đó anh ế vợ hay tại cái dáng người nhỏ thó không mấy đẹp của anh?!

Một lần trong bữa tiệc tất niên có tính cách thân mật gia đình, mọi người mang anh ra làm đề tài trêu chọc. Có người hỏi:

- Tiêu chuẩn người vợ tương lai của anh phải thế nào, hở anh Thụ?

- Phải lo tính đi chứ. Cũng nên kén vừa vừa thôi.

Thụ điềm nhiên từ tốn đáp:

- Tôi có kén gì đâu. Người vợ của tôi, tôi không cần đẹp lắm, chỉ ưa nhìn và dễ thương thôi. Nhưng phải có dáng dấp thành phố và trình độ học vấn tối thiểu.

- Nếu vậy thì anh nên ghé mắt đến “ngũ long công chúa” nhà họ Đinh. Ở đấy có 5 cô đều đang tuổi cập kê, rất vừa lứa với anh và hợp tiêu chuẩn của anh.

Thụ ngẫm nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu:

- Đàn bà con gái không nên nghiêm chỉnh, khô khan quá. Tôi không thích. Phải cô nào đã một lần yêu rồi đổ vỡ trông mới chững chạc, lãng mạn và ướt át hơn.

Mọi người lại nhao nhao lên:

- Không ngờ anh Thụ bấy lâu chỉ nhắm cặp nào “đổ” rồi anh Thụ tới “hốt”.

- Anh Thụ nhà ta chỉ thích gà mái dầu chứ không thích gà mái tơ bà con ơi!

Người khác lại lên tiếng:

- Nếu thế tôi giới thiệu cho anh Thụ cô Hoa, em cậu Thắng còn một tuần nữa đám cưới nhưng đã hồi hôn rồi.

Thụ vẫn lắc đầu:

- Đổ vỡ nhưng phải còn “dzin” mới được!

Mọi người phá ra cười. Ở thời đại ngày nay trong một xã hội mới, chữ trinh của người đàn bà không được đánh giá ngàn vàng như ngày xưa ở Việt Nam nữa. Chuyện chăn gối của nam và nữ người ta quan niệm thông thường như miếng ăn, thức uống, giấc ngủ hàng ngày. Người ta coi đó như một điều hết sức tự nhiên, không thể tránh được. Ngay tại trường học, trẻ em từ 13 tuổi cũng được giáo dục sinh lý, cách ngừa thai. Và thanh thiếu niên từ 18 tuổi được tự do luyến ái mà cha mẹ không còn quyền hạn can thiệp vào đời sống riêng tư, cá nhân của chúng. Cô cậu nào thích nhau cứ việc thuê nhà sống chung, không cần sự đồng ý của cha mẹ hoặc đánh dấu bằng một tờ giá thú hay đám cưới. Đôi khi chỉ cần qua vài ba câu chuyện, uống với nhau tách cà phê cũng có thể trao đổi sinh lý với nhau rồi. Trước lối sống phóng khoáng buông thả đó, người Việt chúng ta không khỏi bỡ ngỡ ngạc nhiên. Như khi mới đặt chân đến Thuỵ Sĩ, bà Mai cũng như các phụ nữ khác từ 18 tuổi trở lên dù độc thân hay đã lập gia đình được nhân viên hữu trách trại tị nạn triệu tập tại văn phòng để phổ biến y tế thường thức mà đặc biệt là phương pháp ngừa thai. Người ta giới thiệu loại thuốc ngừa thai hữu hiệu nhất và phân phát mỗi người một số dùng thử! Ai nấy tủm tỉm cười nhất là mấy cô gái độc thân hay các bà goá hoặc xa chồng đều lắc đầu không nhận. Có người lên tiếng:

- Chồng tôi chết đã lâu rồi mà tôi cũng 50 tuổi, tôi đâu cần dùng thuốc này.

Nhân viên hữu trách thản nhiên:

- Bà cứ việc nhận lấy rồi có lúc sẽ dùng đến!

Thật vậy, với quan niệm sống dễ dãi đó, cộng với sự trợ giúp với các phim ảnh “Sex” được trình chiếu công khai hàng tuần trên tivi, thử hỏi, nam nữ yêu nhau dù xuất thân trong một gia đình nề nếp có nền giáo dục căn bản vững chắc hay lỏng lẻo làm sao cưỡng chống lại được sự cám dỗ của tình yêu, cho nên, trước ý tưởng ngộ nghĩnh của Thụ không ai nén được nụ cười. Và từ đó đến nay có lẽ chưa tìm được cặp nào “đổ” để “hốt” mà hốt còn nguyên vẹn và cũng chưa có cô nào đến tỏ tình, Thụ vẫn phòng không chiếc bóng.

Bà Mai phon đến Thụ nhiều lần để giới thiệu Trang, nhưng Thụ luôn vắng nhà. Thăm dò bạn bè, bà Mai mới biết Thụ đã dọn sang tỉnh khác và mọi người không biết hiện giờ anh ở đâu.

Người thứ hai bà nghĩ đến là Hoàng Ngọc Ẩn. Ẩn năm nay 43 tuổi. Từ mười năm trước người ta đã thấy anh thui thủi một mình, chả cặp với cô nào kể cả người Thuỵ Sĩ. Anh tốt nghiệp ngành điện toán, lương khá cao nhưng quần áo lúc nào cũng lùi xùi như cả tháng không giặt. Tóc tai bù xù, râu ria lại rậm rạp. Thân hình vừa ốm, vừa cao. Ánh mắt lạnh lùng, khi đi chỉ cúi gằm mặt xuống hoặc nhìn thẳng chẳng liếc ngó ai. Với bộ dạng đó, lại thêm trong tay anh lúc nào cũng cầm theo một cuốn sách, nên người trong tỉnh thường gọi anh là triết gia. Anh cũng trầm lặng ít nói, sống cô lập dường như chẳng muốn giao du tiếp xúc ai. Khi tình cờ có người hỏi anh sao mãi đến nay vẫn chưa lập gia đình, anh lạnh lùng phán một câu:

- Vợ con làm gì cho mệt. Đàn bà con gái qua đây phách lối, khó chiều. Ở một mình cho khoẻ!

Biết được anh như vậy, bà Mai cũng không muốn quấy rầy anh. Vả lại từ bấy đến giờ anh mai danh ẩn tích, bà Mai không biết anh ở đâu mà tìm.

Người thứ ba là Hồ Trọng Cương, bốn mươi tuổi. Cương đến Thuỵ Sĩ với năm người em. Gia đình anh kể ra nề nếp trên dưới thuận hoà nhờ tài điều khiển dẫn dắt của anh. Tất cả đều có nghề nghiệp vững chắc. Cương tốt nghiệp thư ký văn phòng. Thư ký ở đâu bị coi thường chứ với Thuỵ Sĩ là một nghề có hạng, phải học từ hai đến bốn năm, đôi khi tuỳ ngạch còn đòi hỏi thông thạo hai sinh ngữ. Còn các em của anh tuy chỉ là cán sự thông thường xuất thân từ lớp 9 rồi theo ngành nghề chuyên môn, kẻ thì y tá, người làm nhân viên ngân hàng, điện toán, sửa máy, hàng không… nhưng xem ra anh hãnh diện về họ lắm. Tất cả đều đã lập gia đình, trừ anh. Phải nói anh thật xứng đáng vai trò quyền huynh thế phụ lo lắng cho đàn em chu đáo. Có điều không ai ngờ được rằng chính vì đàn em của anh mà anh phải ế vợ. Thoạt nghe ai cũng tưởng các em của anh dữ, chằn, khó tính, khó chiều khiến các cô gái khác né anh chăng? Không. Không phải vậy. Chỉ bởi tại anh đặt họ cao quá. Cao đến nỗi làm như các em của anh là nhân tài khó kiếm trong thiên hạ. Vì thế, để có vợ, anh muốn kén người vợ, ngoài tiêu chuẩn trẻ đẹp, biết chiều chuộng anh và đàn em của anh , cô gái đó còn phải đủ trình độ kiến thức chuyên môn của các ngành nghề các em anh học để trò chuuyện với chúng. Anh không muốn đám em của mình coi thường chị dâu của họ khi vợ anh không có khả năng, chỉ ấm ớ rồi lạc lõng trong gia đình anh. Có người khuyên anh tìm cô nào có kiến thức tổng quát cũng đủ rồi. Anh cao giọng thản nhiên:

- Vậy con bé Tịnh nhà tôi bàn về vấn đề ngân hàng thì làm sao cô ta biết!

Nghĩ đến điều này, bà Mai ngao ngán lắc đầu.

Người thứ tư ế vợ là Đỗ Mạnh Tùng. Tùng năm nay 38 tuổi. Thân hình anh thấp bé, nhỏ con. Khuôn mặt anh choắt lại. Thường những người như thế vốn đã rất tinh khôn huống gì đầu óc ấy còn được đào tạo từ trường đại học thương mại. Với anh, làm việc gì anh cũng tính toán cân nhắc cẩn thận. Hôn nhân là chuyện hệ trọng cả đời, lẽ đương nhiên, anh càng tính kỹ hơn. Anh tính kỹ đến nỗi anh đem cân tiểu ly để cân nhắc đo lường sự lợi hại. Anh thường nói: “Tôi đâu dại dọn cổ sẵn cho nàng đến xơi!”. Nên người vợ anh kén phải là người tốt nghiệp đại học như anh, mà không được cùng ngành với anh. Có hai lý do: Thứ nhất, có tốt nghiệp đại học, mức lương của vợ anh mới cao. Thứ hai, có khác ngành, phòng khi kinh tế suy thoái anh bị thất nghiệp thì ngành vợ anh còn vớt vát được. Đã thế anh còn đòi hỏi vợ anh không thể là người vợ già, vợ xấu. Công anh ăn học bấy lâu, anh phải được đền bù, anh phải cưới vợ trẻ, vợ đẹp để xứng đáng với cái bằng của anh. Tiếc thay, số sinh viên Việt Nam tại Thuỵ Sĩ đếm trên đầu ngón tay, nữ sinh viên càng ít ỏi hơn. Mà thông thường ở đời, mấy cô đẹp bận tô son điểm phấn ít cô nào học giỏi đến nơi đến chốn. Cho dù người đẹp có lọt vào tới đại học, những đêm dài thức trắng miệt mài với sách đèn cũng làm các cô héo mòn, già, xấu đi.

Nội bấy nhiêu tiêu chuẩn cũng đủ khiến anh ế vợ. Anh còn đòi hỏi thêm nhiều điều kiện khác. Gia đình vợ anh không được ở quanh anh. Ở càng xa càng tốt để khỏi xía vào chuyện của vợ chồng anh hoặc xúi giục vợ anh làm những điều anh không thích. Nhưng nếu gia đình cô ta còn kẹt ở Việt Nam thì càng không nên nữa. Vợ anh sẽ rỉa hết tiền trong băng của anh để gởi về xây nhà dựng cửa cho cha mẹ. Điều đó càng tai hại vô cùng. Đắn đo cân nhắc mãi, anh quyết dùng bốn tuần hè hằng năm đi du lịch đây đó, nhất là hai nước láng giềng Pháp - Đức (hai nước này dùng ngôn ngữ như Thuỵ Sĩ) để lùng vợ như ước muốn, nhưng đến nay, anh đã qua ba mươi tám cái xuân xanh, người trong mộng vẫn chưa xuất hiện.

Nghĩ cho cùng, sự suy tính của anh cũng không phải là sai, cũng không xa thực tế. Vì nhan nhản trong cuộc sống quanh anh thường xảy ra những điều đáng tiếc đã khiến anh băn khoăn nhìn đời bằng lăng kính phức tạp. Tuy vậy khách quan mà nói, cái nhìn của anh có hơi phiến diện. Đâu phải nhà vợ nào cũng đáng chê, đáng trách, cần phải e dè xa lánh. Đã biết bao chàng rể nhờ nhà vợ mà no cơm, ấm áo, công thành danh toại, như ngày xưa có Đào Duy Từ, từ một người chăn trâu nghèo khó nhờ nhà vợ mà có cơ hội phát triển tài năng lập nên sự nghiệp lưu danh muôn thuở. Bên Trung Hoa có Tưởng Giới Thạch được sự hỗ trợ của gia đình Tống Mỹ Linh mà danh tiếng lẫy lừng. Vấn đề là duyên phận của mỗi người có may mắn lọt vào những gia đình hiểu biết, có cách cư xử khéo léo tế nhị hay không mà thôi. Ai bảo thân trai không mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu? Chả thế mà sau năm 1975, thời bĩ cực của đất nước, bên cạnh những người đàn bà tác tệ hại chồng hại con, vẫn có những người vợ, gia đình vợ tử tế hết lòng tiếp tế thăm nuôi lo lắng cho chàng rể lúc sa cơ chu đáo.

Còn chuyện tiền bạc giữa hai vợ chồng, sao Tùng không đặt suy nghĩ của mình vào tâm trạng của những phụ nữ Việt Nam sống ở xứ người để có cái nhìn đứng đắn đại lượng hơn. Đâu phải ở bên này đàn ông nào cũng hiền bị các bà, các cô đè nén. Trên thực tế không thiếu những người đàn ông hẹp hòi, ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình và gia đình mình: “Em chỉ được phép giúp đỡ cha mẹ và gia đình em trong nửa số lương của em ” hoặc “Đàn bà lấy chồng chỉ biết phục vụ chồng và gia đình chồng” hay " Lấy chồng phải thuộc nhà chồng, không được liên hệ nhà mình. Nếu còn cha mẹ, chỉ được phép thăm viếng một lần là đủ". Những câu nói thoáng nghe đã gợi cho ta hình ảnh những ông chồng độc đoán, độc tài chuyên lấn lướt và hà hiếp vợ. Đàn bà cũng là con người, nhất lại xưa nay vẫn được mệnh danh là phái yếu, qua bên đây, ngoài việc chợ búa nấu nướng lo toan chăm sóc chồng con nhà cửa, họ còn đi làm cực nhọc ngày tám, chín tiếng miệt mài nơi hãng xưởng như đàn ông, còn người chồng thì, sau công việc ở sở, về nhà chia sẻ được gì giúp vợ? Hoạ lắm chỉ rửa vài cái chén, tắm cho con, lâu lâu hút bụi một lần thì kêu ca nỗi gì? Sau 75, đất nước lâm vào cảnh lầm than, mọi nhà đều đói khổ chỉ còn mong sự giúp đỡ của thân nhân ở nước ngoài. Trong khi đó: “Em chỉ được phép giúp đỡ cha mẹ và gia đình em trong nửa số lương của em ” và “em chỉ phải biết phục vụ anh và gia đình anh” vậy còn gia đình em thì giao cho ai đây nếu không có người con trai nơi xứ người, thử hỏi có phải là ức hiếp đàn bà lắm không? Và nếu trong hoàn cảnh đó, lấy được người vợ chỉ biết có chồng rồi phó mặc sự sống chết của cha mẹ ruột thì đó là một người vợ tốt ư?! Có điều vấn đề gì cũng có chừng mực giới hạn của nó. Sao không thông cảm hoàn cảnh chung để có những phương cách giải quyết hợp tình hợp lý.

Riêng Tùng, anh vốn là người cẩn thận, anh không muốn lâm vào những tình trạng rắc rối “phòng bệnh hơn chữa bệnh” nên anh quyết ở vậy chờ thời dù phải ngắm thời gian và tuổi đời vùn vụt trôi qua.

Đấy là tiêu biểu của vài cái “ao nhà”, không kể những ao cạn không ai có thể tắm được, ngay cả những ao đục người ta cũng dùng kẽm gai rào lại, khoá kỹ rồi kén chọn người vô. Đó là bà Mai chưa nói đến còn những ao nhà nước trong veo chủ nhân xây tường xung quanh, trạm trổ chỉ đợi… tiên xuống tắm. Người phàm tục không được phép bén mảng. Như trường hợp của Trần Thanh, 36 tuổi. Anh là Luật sư, nhờ hội đủ các ưu điểm: đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi nên anh tự treo giá ngọc. Người vợ anh kén phải thuỳ mị đoan trang, trẻ đẹp, hiền lành, biết nấu ăn, ngoại giao giỏi, biết đánh đàn, (đàn tranh hoặc Piano), phải thông minh, tốt nghiệp đại học, phải đứng đắn nhưng tâm hồn hơi lãng mạn ướt át một chút để thưởng thức văn thơ dù là văn thơ con cóc của anh: “Nếm chút men tình chếnh choáng say. Tình không là ớt tại sao cay?” và đặc biệt nữa, người vợ đó phải xuất thân con nhà giàu sang quyền quý, giá chót cũng là con của sĩ quan cấp đại uý trở lên. Và thân mẫu cô ta là người mẹ hiểu biết, để các con anh về sau, nếu không giống cha, giống mẹ, nó sẽ không giống ông bà ngoại dở hơi của nó. Ngoài ra cũng còn những ao nhà trong veo nhưng các bà, các cô vào tắm làm vẩn đục khiến chủ nhân rào lại rồi bế quan toả cảng. Đó là trường hợp của bác sĩ Thông cũng 36 tuổi, anh làm việc miệt mài, một tuần tám, chín chục tiếng tại bệnh viện không kể ngày đêm và thứ bảy, chủ nhật. Mải mê với công việc anh bỏ quên mất cô vợ trẻ đêm đêm mòn mỏi rồi với thời gian sừng trên đầu anh cứ từ từ nhú lần lên. Đến một lúc nào đó anh khám phá sừng của anh đã khá dài, nhất là cái sừng do vợ anh rút từ đầu người bạn thân của anh để cắm lên đầu anh, anh đau khổ chán chường, mất niềm tin trong cuộc sống rồi từ đó không tha thiết vợ con gì nữa.

Những “ao nhà” như vậy, bà Mai không còn sự lựa chọn nào khác đành ghé mắt nhìn qua các “ao người”. Ao người tuy vẩn đục nhưng họ biết đánh phèn cho trong lại rồi cẩn thận chọn người tắm. Bà Mai liền nghĩ đến Heinz. Heinz lui tới nhà bà với tư cách thầy giáo kèm tiếng Đức. Thời gian đi lại thường xuyên mỗi hai tiếng trong tuần và những bữa ăn thân mật bà Mai đích tay nấu nướng mời Heinz, từ món chả giò, bún riêu, phở, mì hoành thánh, thịt bò nhúng dấm mắm nêm đến cả những bát canh mồng tơi mướp riêu cua ăn với cà pháo chấm mắm ruốc, tiết canh - lúc ăn Heinz thường bảo mọi người giống Dracula - vịt lộn đã khiến tình thân giữa Heinz và gia đình bà thắm thiết hơn. Từ đó tâm tình cởi mở, bà hiểu rõ nếp sống của người Thuỵ Sĩ và ngược lại Heinz cũng rất thích thú nếp sống gia đình ấm cúng của người Á Châu. Trước đây hơn năm, Heinz sống chung với Erika, cô bạn gái người Thuỵ Sĩ. Cả hai thuê một gian nhà ba phòng (ở Thuỵ Sĩ phòng khách được kể như một phòng) sắm sửa đầy đủ tiện nghi giường tủ chén bát bàn ghế tivi…như một cặp vợ chồng mới cưới. Cái lối sống thử một thời gian để tìm hiểu nhau trước khi chính thức kết hôn, hợp thì sống luôn, không hợp thì chia tay, vẫn là chuyện thông thường đối với người Thuỵ Sĩ. Tiếc thay, chỉ mới nửa năm, giữa Heinz và Arika đã có những dấu hiệu “cơm không lành, canh không ngọt”. Cả hai thường cãi vã nhau vì Heinz là người sành ăn mà Arika lại là người không thích nấu. Chẳng những không thích bếp núc, Arika còn có những cố tật làm biếng ham chơi, hoàn toàn thiếu trách nhiệm, bổn phận. Không chỉ bổn phận của người đàn bà mà bổn phận của người đối với người sống chung một nhà. Hằng ngày, Arika không chia sẻ giúp Heinz được việc gì. Thỉnh thoảng có rửa vài nồi niêu bát đĩa – sau khi Heinz phụ trách nấu ăn – nàng cũng tỏ vẻ uể oải mệt nhọc. Căn phòng nhỏ dành làm việc lặt vặt trong nhà không bao giờ được nàng quét dọn. Nàng biến nó như là phòng chứa đồ cũ, xả bừa bãi còn thua phòng chơi của trẻ em. Chỗ này tập ảnh, chỗ kia cây đàn, quần áo giày dép, bàn máy may, ghế lớn ghế nhỏ, thùng, rổ, sách báo… la liệt không còn lối đi. Tủ lạnh chứa đồ ăn thức uống cho hai người thường trống trơn nếu Heinz không để ý chợ búa. Nói chung, mọi việc nhà dường như Heinz thầu hết. Gần đây Arika còn đi chơi khuya mịt mới về. Có hôm ngủ qua đêm ở đâu đó. Những lúc như vậy, nàng thản nhiên gọi phon về cho Heinz, bảo Heinz cứ an tâm, nàng chẳng đi chơi với ai xa lạ ngoài Peter, bạn của Heinz! Sau một năm, sức chịu đựng của con người có hạn, Heinz thật sự mệt mỏi chán chường, anh quyết định trả lại nhà và bàn với Arika thanh toán đồ đạc, cái nào không dùng hai người đem ra chợ trời bán tống bán tháo rồi cả hai chia tay, ai nấy trở về ở tạm nhà cha mẹ.

So với con người Arika, Heinz thấy bà Mai khác hẳn. Dường như trong bà tuy thể chất bé nhỏ nhưng chất chứa sức chịu đựng gian khổ và lòng hy sinh cho chồng con vô bờ bến. Nhiều khi Heinz nhìn thấy niềm hạnh phúc tràn ngập trong bà qua những lúc bà chăm sóc chồng con từng miếng ăn thức uống. Bà quả là một người đảm đang. Ngoài việc hãng, về nhà bà quán xuyến mọi việc, từ nhỏ đến lớn một cách tài tình thật xứng đáng những điều tốt đẹp mà từ lâu anh thường nghe nói về phụ nữ Á Châu, mặc dù nhiều lần bà Mai đính chính phụ nữ Á Châu ngày nay đã không còn như xưa nữa. Nhưng trong Heinz, cái không khí ấm cúng cởi mở vui tươi của gia đình bà Mai vẫn lôi cuốn anh và tạo trong anh nhiều ấn tượng đẹp về phụ nữ Việt Nam.

Bà Mai cũng thường kể với anh:

Đàn ông Việt Nam lúc còn ở quê nhà như một ông vua, anh ạ. Dù được vợ chăm sóc tử tế, họ vẫn chưa hài lòng còn kiếm thêm nhiều vợ khác nữa. Ở xứ tôi “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng”, nên các ông lên mặt lắm.

Ông Huân, chồng bà Mai cười ha hả:

- Riêng anh chỉ có mình em thôi, thế mà qua đây cũng cảm thấy bị …hạ giá đôi chút.

Bà Mai nguýt chồng:

- Thì cũng là luật bù trừ còn kêu ca nỗi gì!

Heinz cũng chen vào pha trò:

- Tôi rất muốn được làm “ông vua” Việt Nam. Ông bà nghĩ sao?

Nói chơi vậy mà sau đó Heinz làm thật. Từ ngày chia tay với Erika, anh có ý muốn kết bạn với một thiếu nữ Việt Nam và trung gian, lẽ đương nhiên phải qua bà Mai, người Việt Nam đầu tiên và duy nhất anh quen biết. Bà Mai không chê Heinz, vì anh là người đàng hoàng tốt bụng, nhưng nếp sống và cách suy nghĩ giữa người Á và Âu có nhiều khác biệt quá, lại nữa bà vẫn quý cái “ao nhà” nên bà cứ e dè ái ngại. Đùng một cái, Trang xuất hiện. Trang là em gái của Hân, người bạn thân thiết trong hội… ăn uống với bà Mai. Hân và bà Mai cả hai đều rất thích nấu ăn. Thỉnh thoảng cuối tuần hai gia đình thường qua lại bày vẽ nấu nướng, tâm tình nên tình thân càng ngày càng đậm đà gắn bó. Tuy không nói ra nhưng đôi bên cảm thấy gần nhau, lo lắng giúp đỡ nhau để chia sẻ những ưu tư vui buồn trong cuộc sống.

Trang đến Thuỵ Sĩ với tư cách du lịch. Ngoài mục đích thăm chị còn mục đích quan trọng khác: kiếm chồng để ở lại Thuỵ Sĩ. Đây là phong trào bộc phát mạnh từ vài năm nay, một phương cách trốn tránh chế độ cộng sản Việt Nam an lành, hữu hiệu nhất. Tuy nhiên, thời gian được phép du lịch chỉ trong vòng ba tháng, thật ngắn ngủi để kiếm một tấm chồng vừa ý, các bà các cô đành đánh đổi cái giá tự do bằng chính hạnh phúc trăm năm của đời mình. Có những cô gái trinh nguyên ép mình kết hôn với người đàn ông góa năm con, hoặc một cô mười chín bằng lòng lấy người chồng 45 đáng tuổi cha mình. Thương thay, họ không còn quyền lựa chọn người mình yêu thích mà chỉ biết nhắm mắt chấp nhận người nào chịu lấy mình. Và trường hợp Trang cũng là một trong những hoàn cảnh đáng thương đó.

Sau khi Hân và bà Mai đôn đáo bằng nhiều cách để làm mai cho Trang, vì thời gian gấp rút, phần Trang lớn tuổi, những người đồng hương cùng trang lứa thì đóng chặt cửa lòng. Cuối cùng, Trang đành nhận lời kết hôn với Heinz, một người Thuỵ Sĩ nhỏ tuổi mà Trang chưa hề có một chữ Đức để nói chuyện. Điều đó đối với Heinz không thành vấn đề vì anh là một nhà giáo. Nay mai anh dạy và tập cho Trang nói, chả sao. Hiếm nỗi ban đầu hai người gặp nhau để tâm tình trò chuyện luôn có bà Mai hoặc Hân đi theo để thông dịch.

- “Nó” nói gì vậy chị? Trang hỏi.

- À, anh ta bảo Trang dễ thương. Bà Mai trả lời.

- Cô ta nghĩ gì về tôi, thưa bà?

- Trang nói anh dễ mến.

Rồi Trang học tiếng Đức. Đến ngày đám cưới thì nàng đã bập bẹ được những chuyện thông dụng trong gia đình. Còn Heinz chỉ nói nhuyễn ba chữ tiếng Việt "Anh yêu em". Tình yêu đến với Heinz quá nhanh không đắn đo suy tính khiến bà Mai và cả Hân không khỏi phập phồng lo ngại...

Hôm nay ngày đám cưới của Trang và Heinz. Cả hai súng sính trong chiếc áo dài cưới có những đốm tròn hình chữ hỉ. Áo Heinz màu xanh, khăn đóng cũng xanh. Áo Trang màu đỏ kèm bên ngoài là chiếc áo khoác màu vàng có những đường viền kim tuyến lấp lánh cùng màu với khăn vành mà Hân đã đặt may cho họ từ Paris. Bộ quần áo cổ truyền Việt Nam tuy hơi tương phản với cặp mắt xanh, bộ râu quai nón xồm xoàm và mái tóc vàng óng của Heinz nhưng vẫn không lấp được khuôn mặt rạng rỡ pha lẫn nét ngộ nghĩnh hiền lành của anh. Anh đứng sát bên Trang, khoành một cánh tay để cho Trang khoác vào. Cả hai đang niềm nở tươi cười nép bên cửa ra vào đón mừng quan khách. Khách được mời không đông. Tuy vậy buổi lễ cũng khá trang trọng, vui nhộn.

Đối với người Thuỵ Sĩ, khách dự cưới kể cả hai họ thông lệ trên dưới năm mươi người. Thường họ mời bà con gần và một vài người bạn thân nhất. Nhờ ít, sự tổ chức được gọn gàng, ấm cúng thân mật hơn. Từ buổi trưa, sau khi làm lễ theo nghi thức tôn giáo, họ bao xe Bus cùng khách khứa đưa nhau đến một nhà hàng tĩnh mịch giữa vùng đồi núi phong cảnh thân mật hữu tình quanh năm có khói sương lãng đãng bên cạnh một dòng sông hay trên một cánh đồng lúa mì có rừng cây bao bọc. Ở đây họ dùng qua loa một ít thịt nguội, trà nước, cà phê, vui chơi trò chuyện ngắm cảnh, đợi chạng vạng lại kéo nhau về nhà hàng thành phố dự bữa chính thức. Tiệc cưới của người Thuỵ Sĩ khá đơn giản gần như ngày thường. Một chén súp, một đĩa salat và sau cùng gọn gàng với một đĩa gồm thịt chiên, ít mì nui hay khoai tây chiên hoặc khoai tây nghiền kèm với ít rau luộc. Khác với đám cưới của dân ta ăn uống rình rang, đông đảo đến bốn, năm trăm người, rồi rượu vào lời ra không kiểm soát được hành động lời nói đôi khi gây ra nhiều điều đáng tiếc…

Bà Mai được mời trong danh sách họ nhà gái, vì Trang, ngoài người chị và một số bạn bè của chị, nàng không còn người thân nào khác. Giờ đây nơi xứ lạ, bà coi Trang như người nhà. Tìm được cho nàng một tấm chồng để ở lại Thuỵ Sĩ bà cảm thấy lâng lâng vui mừng như vừa cứu thoát một kẻ ra khỏi vòng tù tội. Tuy nhiên, cái cảm giác đó không được trọn vẹn khi bà chợt nghĩ đến cái “ao người”. Qua đó không biết có giúp cho Heinz và Trang tắm mát suốt đời, hay chỉ là giai đoạn của kẻ đắm tàu mong vớ được phao?! Dù gì mọi chuyện cũng đã an bài, bà chỉ cầu mong cho cả hai tươi đẹp hạnh phúc mãi mãi như ngày hôm nay mà chính bà cũng có phần trách nhiệm vì đã dại dột làm ngược điều ca dao vẫn thường răn dè: “Ở đời có bốn cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu” và: “ Ta về ta tắm ao ta. Dù trong, dù đục, ao nhà vẫn hơn”.

Trần thị Nhật Hưng