Trong buổi lễ tưởng niệm Ðỗ Ngọc Yến vào tối ngày 23 tháng
Tám 2006 tại phòng sinh hoạt Lê Ðình Ðiểu của báo Người Việt, Bích Liên với giọng
cao vút trong phong cách opéra, đã hát những lời này:
1.
Hồn xuân vừa tàn hơi
Hay nắng ấm lung linh qua đời
Hay gió tuyết mưa sa bay ngang trời
Người yêu dù xa xôi
Xin nhớ tới quê hương u hoài
Trong giá rét đêm đông đang trông vời
Một lần người đưa tiễn nhau
Như vẫn cầu lời hứa năm nào
Ðằm thắm cho vui lòng nhau
Một lần người xa cách nhau
Trái tim sầu còn vẫn tươi mầu
Vì đó... không ai quên đâu...
2.
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang đầu
Người đi vào không gian
Nghe nhớ tiếc đau thương vô vàn
Nghe tiếng hát êm êm ru linh hồn
Người về dần trong cõi mồ
Như lúc nào vừa mới ra đời
Chào đón xuân tươi ngày mới
Cuộc đời từ trong chiếc nôi
Ðã quay về cùng với gió bụi
Về chốn không tên, xa xôi... *
Bài hát nói về cái chết, Phạm Duy dựa vào điệu nhạc Chanson de Solvejg viết lời lâu rồi, đã trên nửa thế kỷ, ít người biết, nhưng chạm sâu xa đến một vùng mà không mấy người có khả năng nói tới. Phạm Duy là một nhạc sĩ hiếm hoi nhiều lần nói về cái chết, và Khúc Ca Ly Biệt trên đây là bài hát hoàn toàn về sự biệt ly của chết chóc, một cách toàn diện, trong không gian, trong thời gian, trong thân phận kẻ lìa trần cũng như trong lòng người ở lại.
Phạm Duy là một nhạc sĩ sáng tác mãnh liệt về khắp các mặt của
cuộc đời, nhưng lại luôn luôn nhắc đến cái chết, tuồng như ông thấy chết cũng
là một hình thái biểu hiện sự sống. Ngay từ khi còn rất trẻ, trong khi say sưa
viết lên cái khí thế bừng bừng đánh quân ngoại xâm giữa thời điểm 1945, ông
cũng đã mường tượng đến sự chết rồi. Ông vừa viết xong bài Xuất Quân lẫm liệt
Ngày bao hùng binh tiến lên thì đã nghĩ ngay đến hình ảnh ma quái của những Chiến
Sĩ Vô Danh
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng
Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến đấu và đã ra người
thiên cổ, ông dùng ngay hình ảnh ấy để lay động lòng người đang đứng trước cuộc
chiến giữ nước
Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.
Một thanh niên đang ở độ tuổi ngoài hai mươi, mang bầu máu
nóng phụng sự cho đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình ảnh của “cõi bên kia” như
thế thì cũng là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng lạ hơn nữa, vừa hiện thực
vừa siêu thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết
Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên.
Ði lang thang tiếng cười vang tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
Nghe phảng phất như Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn
Du! Phải chăng linh cảm mẫn nhuệ của một nghệ sĩ lớn đã khiến Phạm Duy nhìn thấy
trước cảnh chiến tranh tàn phá kinh hoàng trên đất đước Việt Nam suốt ba mươi
năm sắp tới, dù thời điểm viết Nợ Xương Máu là vào năm 1946, trước khi toàn quốc
kháng chiến với Pháp. Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển của thi ca thời đó để
vẽ nên sự chết chóc, nhưng bản chất của tấn thảm kịch chiến tranh thì thời nào
cũng thế
Lá rụng tơi bời
Ðoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt ngang,
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Ðoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường...
Tiếng ầm rung chết chóc đó còn vang mãi trong lòng người
không biết bao nhiêu thế hệ nữa khi họ có dịp ôn lại những trang sử xưa, không
phải những trang chính sử ghi lại một cách vô cảm các biến cố, mà là những
trang sử như của Phạm Duy viết khi “đoàn quân tiến qua làng” với những chiếc áo
rách mướp, những thanh kiếm gãy ngang, những cánh tay không còn nguyên vẹn...
và nói rõ họ đang “tiến về trời.” Lịch sử một dân tộc không thể không ghi những
trang như thế, cũng như mấy năm về sau khi sáng tác ông đã đóng vai một ký giả
chiến tranh tả thực cái cảnh dã man rùng rợn “quân thù đã bắt được con đem ra
giữa chợ cắt đầu” từ một thảm cảnh của làng Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Hoặc một
cách gián tiếp, chỉ dùng một số hình ảnh ước lệ, nhưng hiệu quả gợi cảm thương
về sự chết chóc vẫn lớn:
Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều trận vong.
(Ðường Ra Biên Ải)
Một số năm về sau ông rời khỏi các ám ảnh chiến tranh, đề
tài sáng tác càng phong phú, nhưng cái chết vẫn không rời ông. Ông đã viết về
việc sáng tác của ông vào khoảng đầu thập niên 1960: “Ðối với tôi chỉ có ba điều
quan trọng: Tình Yêu, Sự Ðau Khổ và Cái Chết.” Nhưng cái chết vào thời điểm này
đã được trừu tượng hóa thành một loại tư tưởng, không còn cụ thể có khi đầy ghê
rợn như trong thời kháng chiến Pháp. Như về bài Ðường Chiều Lá Rụng, tác giả đã
tâm sự như thế này: “Lúc này tôi đang yêu đời lắm, nhưng tôi vẫn nói tới cái chết,
chẳng hạn, qua những kiếp lá trong đường chiều. Lá đang như những chiếc thuyền
rung rinh trong ngọn gió, bỗng nghe đất gọi về, lá rơi xuống đất để trở thành
những ngôi mộ úa trên con đường chiều, nơi đó có tôi và người yêu đang đi trong
cuộc tình.”
Lá vàng bay! Lá vàng bay!
Như dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai
Lá vàng rơi! Lá vàng rơi!
Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối!
Khi một người lên tiếng Tạ Ơn Ðời thì tâm hồn hẳn đầy sung
sướng vì những gì đời đã cho mình. Quả thế, tác giả ca ngợi “bao nhiêu là
thương mến, bao nhiêu là quyến luyến,” rồi “tay hái biết bao niềm yêu,” và “đời
vẫn cho ta ngọt bùi”... nhưng cuối cùng vẫn không quên cái chết đang chờ ở cuối
đường
Mang ơn đời nâng đỡ
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn thương nhớ
Còn vấn vương trong chiều tà.
Bài Một Bàn Tay là một bài hát triết lý, qua hình ảnh bàn
tay mà thấy ra toàn diện cuộc đời, từ bàn tay bà mụ “đưa anh ra khỏi lòng người”
đến bàn tay làm lụng, bàn tay yêu đương..., nhưng cuối cùng, cũng sẽ bàn tay ấy
làm động tác giúp kết thúc một đời người
Một mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa đông khăn tang mây bỏ đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi.
Suốt cuộc đời sáng tác của mình, kể cả khi còn rất trẻ, Phạm
Duy không bao giờ quên cái chết, và ông diễn tả nó một cách tài tình, khiến ta
khi hát lên cảm thấy như vừa chạm vào cái cõi bi thương đáng sợ ấy. Thật ra ông
không đi sâu vào chính cái chết như Tolstoi tả phút hấp hối của André trong Chiến
Tranh và Hòa Bình, ông chỉ nói về tình huống bề ngoài, nhưng cách nói nghệ thuật
của ông khơi dậy gần như đầy đủ “kinh nghiệm chết” hình như vẫn luôn luôn có sẵn
trong mỗi chúng ta. Ðó có thể là kinh nghiệm tử biệt sinh ly về cái chết của
bao người khác ta hằng chứng kiến, nhưng cũng rất có thể là của chính ta, lưu
trữ bằng một cách nào đó sâu trong tâm thức sau hàng vô số kiếp luẩn quẩn trong
vòng tử sinh. Ðôi khi ta vẫn có cảm tưởng “nhớ” lại một cái gì đó không hề được
kinh nghiệm trong đời này.
Tương truyền bản nhạc Sombre Dimanche (Chủ nhật buồn) là một
bản nhạc gây chết chóc, vì không hiểu sao nhiều người nghe nó đã tự tử. Quả là
thỉnh thoảng vẫn có những tác phẩm mang cái ma lực kỳ dị như vậy. Bản nhạc ấy
vào tay Phạm Duy đã mang lời Việt Nam như sau:
Chủ nhật nào tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai
Bước chân người nhớ thương tôi
Ðến với tôi thì muộn rồi
Trước quan tài khói hương mờ bốc lên như vạn nghìn lời
Dẫu qua đời mắt tôi cười vẫn đăm đăm nhìn về người
Hồn lìa rồi nhưng em ơi tình còn nồng đôi con ngươi
Nhắc cho ai biết cuối đời có một người yêu không thôi
Ơi hỡi... ơi... người!...
(Chủ Nhật Buồn)
Ðó là luyến tiếc, vướng víu, là không siêu thoát, phải
không?
Khi chúng ta còn nhỏ, sự chết đối với chúng ta là chuyện...
của người lớn. Khi vào đời ở tuổi thanh niên thì đó là chuyện của... người già.
Chính mình thì chối hết. Nhưng khi bắt đầu vào tuổi già thì như một khả năng tự
nhiên, càng ngày ta càng cảm nhận được trong thân tâm mình cái “khả năng chết”
một rõ hơn, mãi đến một lúc, hết chối nữa, đành nhận nó là của mình. Nó dần dà,
tự nhiên biến thành một phần của sự sống. Phạm Duy là một người hiếm hoi “biết”
cái chết, “sống” với cái chết ngay từ tuổi thanh niên. Tại sao? Ðể làm gì?
Trong nhân loại, thỉnh thoảng nẩy ra một người có khả năng trình bày hộ cho mọi
người khác ý nghĩa toàn bộ cuộc nhân sinh mà thông thường người phàm mắt thịt
chỉ thấy rất ngắn, toàn là chuyện eo sèo trước mắt. Chứ sao, phải nói về cái chết
chứ, làm sao có sự sống nếu không có sự chết? Cái chết chờ bên đầu kia cuộc đời
mỗi người, nào có xa xôi gì, trong chớp mắt của thời gian đã tới nơi, để bắt đầu
một chuyển hóa mới, một cuộc du hành mới
Người
là ai? Từ đâu tới?
và người ơi, người sẽ bước chân về nơi nao?
Người vì sao mà chớm nở?
rồi sớm tối cánh hoa tươi tơi bời theo với những lá úa?
Người là chi? là cơn gió? là giọt mưa?
là cát trắng hay bụi xanh lơ?
Người từ xưa, thuyền theo lái về bến cũ?
Người lên xe đi từ hư vô qua hư vô?
(Xuân Hành)
Một loạt câu hỏi từ muôn đời của loài người nhưng không bao
giờ cũ, vì ngày nào con người không còn biết đặt ra những câu hỏi như thế về
thân phận mình thì cũng có nghĩa là đã dừng lại trên con đường hoàn thiện chính
mình.
*
Chết là cái mà không ai có kinh nghiệm, nhưng không phải vì
thế mà người ta hoàn toàn không thể viết gì về cái chết. Ðang sống mà “chuyển
sang từ trần” là một sự bí nhiệm, từ ngàn xưa con người vẫn suy nghiệm, vẫn cảm
xúc đau đớn và vẫn... thờ phượng cái chết. Ðặc biệt các tôn giáo và các tín ngưỡng
lo săn sóc đến cái chết một cách kỹ lưỡng nhất, vì biết rõ đó không phải là một
cái gì có thể đối xử một cách bình thường theo cung cách cuộc sống trần thế.
Trước sự chết, con người bàng hoàng và sợ hãi, phải tìm mọi cách trấn an nỗi sợ.
Ðông hay Tây đều đặt ra sự tự kỷ cho mình về một cõi sau khi chết: sinh ký tử
quy, sống gửi thác về, về với ông bà, về ngôi nhà Cha, về miền Cực lạc... cố dẫn
dụ mình rằng cuộc sống trần thế này tuy ai cũng tưởng là quan trọng cần hết sức
bám víu lấy, nhưng thực chất chỉ là cái rất phụ, chỉ là một sân khấu tạm bợ để
múa may trong một thời gian thoáng qua, rồi sau đó thì “về” với cái đích thực.
Lời hứa hẹn và giải thích thì rất nhiều, người ta nghe theo lời này hay lời
kia, hoặc chẳng nghe lời nào cả, là tùy khuynh hướng và căn cơ của mỗi người,
nhưng nhìn chung mọi tín ngưỡng đều nhằm khuyên làm tốt khi sống để được an ổn
khi chết, làm như cả cuộc đời chỉ là một chuỗi dài chuẩn bị cho cái giây phút
không còn cuộc đời nữa. Thế mới biết cái chết nó ám ảnh con người đến thế nào.
Ám ảnh đến gần như biến thành một mục tiêu của sự sống.
Riêng Phạm Duy chấp nhận hết trong sáng tác của mình: Tình
Yêu, Khổ Ðau và Cái Chết. Ðó là thái độ của một nghệ sĩ lớn, sống tận cùng từng
phút giây của cuộc nhân sinh. Và, nghe như có vẻ mâu thuẫn, cũng “sống” tận
cùng với phút giây không còn sự sống nữa, là lúc Cõi Chết bắt đầu.
(2006)
Phạm Xuân Đài
* Viết thêm :
Trước khi Phạm Duy mất một thời gian không dài lắm, anh có gửi
cho tôi một email cho hay anh sửa một ít lời trong bài Khúc Ca Ly Biệt (lời Việt
cho Chanson de Solvejg của Grieg).
Ở phân đoạn 1
Người yêu dù xa xôi
Xin nhớ tới quê hương u hoài
Trong gió rét đêm đông đang trông vời
Phạm Duy sửa thành :
Người yêu đang đi về xa xôi
Như sống suốt âm u một đời
Như gió tuyết đêm đông tuôn vời vợi
Ở phân đoạn 2 :
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang đầu...
Phạm Duy bảo thay hai chữ khóc lóc thành lóc cóc :
Nghe lóc cóc xe tang đưa sầu.
Cách đó mấy dòng có câu
Người về dần trong cõi mồ
Như lúc nào vừa mới ra đời
Chào đón xuân tươi ngày mới
Anh dặn sửa chữ mồ thành chữ mơ,
Người về dần trong cõi mơ.
Đến đây thì tôi hiểu tâm trạng của ông già ngoài chín mươi,
ông nhìn cái chết thản nhiên rồi, không khóc lóc nữa mà chỉ có tiếng lóc cóc của
chiếc xe ngựa đưa tang, có thể nghe cũng vui tai! Và cõi mồ thành cõi mơ, diễn
tả một tâm thức nhẹ nhõm thảnh thơi lắm rồi...
Rõ ràng đó là lời nhắn gửi cuối cùng của Phạm Duy cho tôi :
Tôi đã nhìn ra cõi đó rồi, chẳng sao cả, thích lắm...
Xin chia sẻ với các bạn.
Phạm Xuân Đài
Phản hồi từ nhạc sĩ Phạm Duy.-
Sau khi đọc bài trên đây của Phạm Xuân Đài, nhạc sĩ Phạm Duy
từ Việt Nam đã thực hiện một bài nói chuyện ghi hình và ghi âm về mảng âm nhạc
đề cập đến cái chết của chính mình. Quý độc giả có thể bấm xem ở đường link này
:
https://www.youtube.com/watch?v=8uzseMiSGOo