Bà chị đi lấy chồng đúng vào lúc tôi vừa đủ lớn
để giã từ tuổi thơ, vĩnh biệt cá chim/diều dế (chia tay những trò
chơi của thưở ấu thời) để bước vào một thế giới khác với khói
thuốc lá Bastos, nhạc Beatles, café noir, bière 33, và tràn lan phim
truyện.
Nhà vốn nhỏ hẹp nên vắng chị tôi được “thừa hưởng” nguyên cái giường trống (khỏi phải nằm chung với bố hay mẹ nữa) cùng một tủ sách nho nhỏ có đủ mặt Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Lan Khai, Đinh Hùng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Minh Đức Hoài Trinh, Võ Hồng, Thanh Nam, Mai Thảo, Nhật Tiến, Tuấn Huy, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Văn Quang, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc …
Tôi đọc tuốt luốt nhưng “chịu” Doãn Quốc Sỹ, và vẫn
cứ tiếp tục lẽo đẽo theo ông cho đến lúc xế chiều. Theo Nguyễn
Mộng Giác: “Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi
móc những ngóc ngách xấu xa của họ.” Võ Phiến cũng có nhận xét (gần)
tương tự: “Các truyện của ông Doãn nhân vật nào cũng tốt, việc gì cũng có khía
cạnh hay. Ông bất lực không tạo được người xấu, kể nổi việc xấu. Đọc sách ông
thơm tho cả tâm hồn.” (Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Westminster, CA:
Văn Nghệ, 1999).
Quả là đúng thế nhưng tưởng cũng cần nên nói thêm
là tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ rất ít những hình ảnh hư cấu, và
không thiếu những cảnh tượng não lòng:
“Chỉ mới sang khoảng 1947, anh đã nhận chân rằng thuộc thành
phần địa chủ như gia đình anh, gặp nhiều khó khăn lắm trong cuộc sống song hành
với những đảng viên đảng Lao Động đương lãnh đạo cuộc kháng chiến. Biết là sống
lộ liễu ở quê hưong không nổi, anh đơn độc lẳng lặng dọn đến làng Cốc…và sinh sống
bằng nghề buôn thuốc Tây và chích dạo. Gia đình anh đóng thuế nông nghiệp.
Khánh tận của chìm của nổi rồi, mẹ già anh vừa mất, chắc chắn u uất mà chết, chỉ
còn vợ anh và lũ con thơ.
Mẹ anh được chôn cất xong, công tác bao vây địa chủ tiếp tục
tiến hành. Họ bao vây nhà anh bằng trống lớn, trống nhỏ thay phiên nhau gõ liên
miên như hổ huê riễu cợt, như chửi rủa thúc dục. Nhưng vợ anh quả không còn một
đồng một chữ trong tay để trả thuế nông nghiệp. Ruộng bán không ai mua, nhờ cầy
nhờ cấy không ai giúp, vì tránh liên hệ với địa chủ. Họ đánh trống liên miên
như vậy suốt ba ngày đêm, tiếng trống bỗng ngưng bặt vào sớm tinh sương hôm đó
giữa sự bỡ ngỡ của chị Cò Đùm. Chị bước ra sân, và chị rụng rời tưởng có thể khụyu
xuống ngất xỉu.
Ba cây cau cao ngất ngoài sân trước nhà, cây cau chính giữa
phất phới một lá cờ đỏ sao vàng to gấp đôi lá cờ vuông cổ truyền vẫn treo phất
phới trước sân đình vào những ngày hội ngày xuân xưa cũ. Đó là bản án tử hình
căn nhà và năm mẹ con chị mà đao thủ phủ sẽ là một phi công địch nào chợt bay
qua đó. (Doãn Quốc Sỹ. Cò Đùm. Westminster, CA: Văn Nghệ,
1997).
Ngoài vợ chồng Cò Đùm, vào thời điểm này, còn có
thêm bao nhiêu người dân Việt Nam khác nữa cũng nhận lãnh bản án tử
hình với lá cờ đỏ sao vàng (phất phơ) trước cửa nhà hay ghim trước
ngực?
Tác giả Bảo
Giang ghi nhận:
“Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất
phơ là y như có sự chết rình rập. Bởi vì, sau đêm Việt
Minh về là ngay sáng hôm sau, trên đầu cái cọc cắm giữa đường làng,
nơi có nhiều người qua lại là có cái đầu của một viên chức, hay của người có
con em làm việc trong thành phố, đôi khi là những phú hộ, treo ở đó. Rồi ở
ngay phía bên dưới là một cái lá Cờ Đỏ với hàng chữ có khi sai
cả chính tả. ‘Việt Minh xử tử Việt gian bán nước’!… Làng tôi ở
Thái Bình là một làng tề nổi tiếng. Sau ngày 20-7-54 cả làng đã di cư vào Nam.”
Vào đến miền Nam chưa hẳn đã yên. Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam được khai sinh tại Hà Nội vào hôm 20 tháng 12 năm 1960.
Từ thời điểm này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, thêm bao nhiêu mạng
sống của người dân miền Nam đã được cái “mặt trận” này “giải phóng”
? Rồi sau đó, theo nhiều nguồn tin khả tín (*) có vài trăm ngàn thuyền
nhân đã vùi thây trong lòng biển cả chỉ vì muốn từ bỏ cờ đỏ sao vàng.
Lá cờ đỏ – do thế – còn được gọi là “cờ máu” và
bị không ít người lên tiếng phủ nhận, kết án, hay chế riễu:
Lê Diễn Đức:
“Theo tôi, cờ đỏ sao vàng không phải là cờ của Tổ quốc Việt Nam (VN), của dân tộc
Việt Nam, mặc dù tôi đã từng học tập, lớn lên dưới lá cờ này và nhiều lúc đã tự
hào vì cha ông tôi đã chiến đấu dưới nó. Nhưng chính xác mà nói thì đó là cờ hiệu
của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt
Nam (ĐCSVN) cầm quyền.”
Song Chi:
“Một đảng phái có quá nhiều tội ác với nước với dân như vậy thì không thể được
vinh danh và lá cở đỏ sao vàng của đảng cộng sản cũng vậy.
Bùi Bích
Hà : “Cùng lắm, chỉ có hơn ba triệu đảng viên người Việt đứng dưới lá
cờ ấy, nhìn nhận nó khi tuyên thệ nhận căn cước Cộng Sản của họ.”
Trương
Duy Nhất: “Tặng ảnh ông Hồ cho người già. Tặng cờ cho dân … ăn Tết. Không
biết tự bao giờ, người ta nghĩ ra được những món quà khốn nạn đến thế.”
Mai
Tú Ân: “Nhưng phải nói lá cờ máu này xui thấy mẹ. Mang đi ủng hộ đội tuyển
bóng đá, màu cờ đỏ ngập tràn sân vận động thì ta thua liểng xiểng. Vác cờ đỏ
sao vàng đi biểu tình thì CA cứ thấy thằng mang cờ đỏ sao vàng là xông vào đánh
tơi bời.”
Tôi không tin dị đoan nhưng vẫn phải đồng ý với Mai
Tú Ân là “lá cờ máu này xui thấy mẹ.” Đụng tới nó nếu không lôi
thôi lớn thì cũng lôi thôi lâu, và lôi thôi lắm. Ngày 17 tháng 11 năm
2017, ông Nguyễn
Đình Túc đốt cờ nên bị công an tỉnh Hà Tĩnh khởi tố về tội
“xúc phạm quốc kỳ.” Trước đó không lâu, một công dân VN khác, bà Huỳnh
Thục Vy cũng bị cáo buộc tương tự vì đã “xịt
sơn lên lá cờ đỏ sao vàng.”
Theo theo điều 276 Bộ Luật Hình Sự 1999 của nhà đương
cuộc Hà Nội qui định: “Người nào cố ý xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, thì bị phạt
thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm.” Sở dĩ họ không nhắc nhở chi đến đảng kỳ vì tự
thâm tâm những kẻ “vẽ” ra cái điều luật này (chắc) đã mặc nhiên xem
quốc kỳ với đảng kỳ … là một!
Tuần qua, trên trang FB của bà
Huỳnh Thục Vy, đọc được vào ngày 5 tháng 11 năm 2018, có một stt
ngắn (nguyên văn) như sau:
“Ba mình ở tù 10 năm từ 1992 đến 2002 dưới điều 88 Bộ luật
HS. Dù tuổi thơ đói khổ vì không cha không mẹ bên cạnh, việc ở tù dưới điều 88
là cái gì đó đáng tự hào đối với mình. Giờ mình bị truy tố dưới điều 276 vớ vẩn,
sẽ ra tòa dưới một tòa án cấp huyện, cảm thấy thật vớ vẩn và không cam lòng. Hức
hức.”
Bà Huỳnh Thục Vy, rõ ràng, không hề nao núng trước
chuyện giam cầm. Với tâm thế này thì bản án của phiên toà sắp tới
(dù xử kiểu gì chăng nữa) cũng sẽ chả răn đe được ai mà chỉ là một
vết lọ đen, bôi thêm vào bản mặt trơ tráo của chế độ hiện hành.
Tưởng Năng Tiến
- Jacqueline
Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The
Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around
65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985 Dept.
of State Bulletin article on Vietnam.
- Orange
County Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and
165,000 died.
- Northwest
Asian Weekly (5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners
unaccounted for.
- Estimates
for the number of Boat People who died:
- Elizabeth
Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High
Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600
reached asylum
- The
20 July 1986 San Diego Union-Tribune cites the UN
Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since
1975.
- The
3 Aug. 1979 Washington Postcites the Australian immigration
minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
- Also:
“Some estimates have said that around half of those who set out do not
survive.”
- The 1991
Information Please Almanac cites unspecified “US Officials” that
100,000 boat people died fleeing Vietnam.
- Encarta estimates
that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
- Nayan
Chanda, Brother Enemy (1986): ¼M Chinese refugees in two
years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated
by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
- Rummel
- Vietnamese
democide: 1,040,000 (1975-87)
- Executions:
100,000
- Camp
Deaths: 95,000
- Forced
Labor: 48,000
- Democides
in Cambodia: 460,000
- Democides
in Laos: 87,000
- Vietnamese
Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese
government)