Khu mộ dành cho người Á Đông tại Honolulu, Hawaii, nơi có bản
sao kiến trúc đền Byodo-In nổi tiếng của Nhật Bản.Tác giả nguyên là Luật Sư
hành nghề tại Việt Nam trước năm 1975, qua Mỹ năm 1980. Ông hiện là Regional Manager
cho Les Enterprises tại Honolulu, Hawaii.
Con chó nhỏ nhảy qua bức tường thấp, rồi rảo chạy vào bên trong nghĩa địa. Bộ lông trắng của nó thấp thoáng dưới ánh trăng mờ ảo, như ẩn như hiện, như hư như thực. Ma quái làm sao! Tôi bỗng rùng mình nổi da gà…
Cách nay đúng hai mươi năm, hai vợ chồng tôi dọn từ
California sang Hawaii sinh sống. Chúng tôi thuê một căn nhà trong chung
cư ở vùng Valley of the Temples, thuộc thành phố Kaneohe.
Căn nhà có phòng ngủ nhìn về hướng tây, sát đường xe chạy;
phía bên kia đường là nghĩa địa. Đây là một nghĩa địa lớn, có những khu vực
riêng cho mỗi sắc dân. Nghĩa địa được chăm sóc kỹ lưỡng với những đồi cỏ xanh
tươi trông rất mát mắt. Sáng sớm hoặc chiều tà, nhà tôi và tôi thường đi bộ tập
thể dục trong nghĩa địa. Chúng tôi lang thang trên các đồi cỏ xanh, vừa hưởng
những làn gió mát từ biển thổi vào, vừa đọc những giòng chữ khắc trên các tấm
bia mộ. Những giòng chữ ngắn gọn, tràn đầy yêu thương và tiếc nhớ của những người
còn ở lại dành cho người đã ra đi.
Điều đặc biệt của nghĩa địa nầy là có một khu vực riêng dành
cho những con thú cưng. Khu vực nầy nằm trên triền đồi giáp với đường xe chạy,
được ngăn chia với khu vực dành cho người bởi một bức tường đá thấp. Từ
phòng ngủ căn nhà của tôi nhìn xéo về bên trái, có thể thấy rõ toàn cảnh nghĩa
địa vùng Valley of the Temples.
Một tối nọ, chợt thức giấc nửa đêm, không ngủ lại được, tôi
đến bên cửa sổ, nhìn mông lung ra bên ngoài. Ánh trăng như tấm lụa vàng phủ mượt
mà xuống những đồi cỏ chập chùng trong nghĩa địa, toát lên một vẻ tĩnh mịch rất
liêu trai.
Bỗng từ góc nghĩa địa dành cho thú cưng, một bóng trắng nhảy
qua bức tường đá thấp, rảo chạy vào trong nghĩa địa. Tôi nhìn kỹ, thấy đó là một
con chó nhỏ, màu trắng. Có vẻ như nó biết nó đang chạy đi đâu, nên mải miết chạy,
không bận tâm nhìn chung quanh. Dưới ánh trăng vàng mờ ảo, bóng trắng của
con chó nhỏ thoạt biến thoạt hiện, xa dần, xa dần… rồi mất hút bên kia triền đồi. Sự
việc xảy ra như hư như thực. Ma quái làm sao! Tôi bỗng rùng mình nổi da gà.
Sáng sớm hôm sau tôi tò mò vào nghĩa địa xem thử chuyện gì
đã xảy ra. Tôi đi một mình vì nhà tôi rất sợ ma. Tôi đã giấu nhà tôi về chuyện
con chó trắng chạy trong nghĩa địa đêm hôm trước. Đi lòng vòng trong khu vực
dành cho thú cưng, tôi để ý thấy một tấm bia mộ có hình một con chó nhỏ, màu trắng,
thuộc giống Toy Poodle..
Tôi đã từng nuôi hai con Toy Poodle khi còn ở Cali nên biết
rõ loại nầy. Toy Poodle là loại chó rất thông minh và rất ngoan. Đặc biệt là loại
nầy rất có tình, biết bày tỏ tình cảm, và biết giận biết hờn giống như tình cảm
con người, chỉ có điều không biết nói mà thôi.
Đọc kỹ tấm bia con Toy Poodle, thấy nó tên Monique, mất gần
một năm, lúc mười một tuổi. Gia đình chủ nó đã khắc trên tấm bia dòng chữ: “Tưởng
nhớ Monique – một em chó hết mực trung thành đã chết theo chủ.”
Tôi tìm khắp nghĩa địa thú cưng mà không thấy mộ con chó trắng
nào nữa. Phải chăng con chó trắng chạy trong nghĩa địa đêm qua là Monique? Nghĩ
tới đó, dù trời đang nắng ấm, nhưng tôi vẫn thấy lạnh xương sống. Nhìn khuôn mặt
ngoan hiền với hai con mắt ngây thơ tròn đen như hai hạt nhãn, tôi bỗng thấy
thương cảm Monique vô cùng, định tâm sẽ có lúc tìm hiểu hiểu thêm câu chuyện về
nó. Trước khi ra về, tôi chắp tay cầu nguyện cho Monique sớm được siêu
thoát.
Vì bận việc nên mãi hơn một tuần sau tôi mới có dịp ghé vào
văn phòng nghĩa địa Valley of the Temples. Thực tình, khi gặp người quản lý của
nghĩa địa, tôi chẳng biết phải mở đầu câu chuyện như thế nào vì sợ ông ta nghĩ
mình mê tín dị đoan, tin chuyện ma cỏ linh tinh. Vòng vo hồi lâu, tôi mới
kể với ông quản lý rằng tôi có thấy một con chó trắng chạy trong nghĩa địa vào
lúc nửa đêm, chắc là chó của ai đi lạc.
Ông ta nhìn tôi mấy giây, rồi hỏi:
– Ông thấy nó mấy lần?
Tôi đáp:
– Một lần. Tôi cũng chỉ mới dọn đến ở chung cư bên kia đường
không lâu.
Ông quản lý hỏi:
– Ông có tin chuyện ma không?
Câu hỏi đến với tôi khá bất ngờ. Tôi chậm rãi trả lời một
cách chung chung:
– Tôi nghĩ rằng có một thế giới vô hình mà mình không biết
được. Nhưng tôi chưa gặp ma lần nào.
Ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi, nói giọng chắc nịch:
– Ông gặp ma rồi đó. Ma chó..
Dù rằng nghi trong bụng mấy ngày nay con chó trắng chạy
trong nghĩa địa có thể là ma, nhưng bây giờ nghe ông quản lý nghĩa địa khẳng định
đó là ma, tôi không khỏi giật mình. Sao lại có chuyện ma quái như vậy được? Tôi
còn chưa biết nói gì, thì ông ta nói tiếp:
– Thực ra tôi cũng chưa thấy con ma chó đó bao giờ. Tôi ở
ngay downtown của Honolulu, sáng đi chiều về, không ở lại ban đêm, nên không thấy
nó. Nhưng người lao công của tôi ở dãy nhà phía sau nghĩa địa có thấy nó mấy lần.
Tôi vội nói:
– Ông có thể giới thiệu cho tôi gặp người lao công đó không?
– No problem. Tôi sẽ gọi cho anh ta nói rằng ông muốn hỏi
thăm tin tức về con ma chó.
Căn nhà giành cho người lao công nằm ở cuối nghĩa địa, núp
bóng dưới những tàn cây cổ thụ, phía sau đền Byodo-In. Đền Byodo-In này
là bản sao của ngôi đền cổ cùng tên nổi tiếng của Nhật tại thành phố Kyoto.
Ngôi đền tại Hawaii giống y chang ngôi đền tại Nhật, cũng có một tượng Phật to
lớn ở gian giữa, nhưng không có thầy tu và cũng không hành lễ, tất cả chỉ để
cho du khách thăm viếng.
Nhờ có người quản lý nghĩa địa gọi điện báo tin trước, nên
anh lao công tiếp tôi khá niềm nở. Tôi hỏi liền:
– Nghe nói anh thấy con ma chó mấy lần, phải không?
Anh lao công trả lời:
– Dạ phải, cả thảy bốn lần.
Tôi hỏi tiếp:
– Làm sao anh biết nó là ma?
– Lần đầu em cũng không nghĩ nó là ma. Số là tối hôm đó, nửa
đêm thức giấc, em chợt nghĩ không nhớ mình đã khóa cửa đền hay chưa. Sẵn trời
sáng trăng, lại có gió mát, nên em đi vòng ra phía trước để coi lại cửa đền. Đi
được nửa chừng, nhìn lên khu mộ của người Nhật phía bên phải, em thấy một con
chó nhỏ, màu trắng, ngồi cạnh một ngôi mộ ở trên triền dốc cao, gần giáp ranh với
khu mộ của người Tàu và người Việt. Em nghĩ chắc là chó của ai đi lạc, lại thấy
nó nhỏ, sợ ở ngoài trời suốt đêm tội nghiệp, nên em bước lên triền dốc để bắt
nó, rồi sẽ tìm cách giao lại cho chủ của nó sau. Nào ngờ khi em ngước lên nhìn,
thì không còn thấy nó nữa. Em nghĩ chắc lúc em đang lúi cúi leo lên dốc, nó
nghe tiếng động, nên chạy mất.
– Rồi sau đó thì sao?
Anh chàng lao công đáp:
– Em nhìn kỹ chung quanh, không thấy con chó trắng đâu nữa.
Nghĩ rằng nó đã chạy mất, nên em đi xuống.
Tôi hỏi:
Thế còn lần sau?
Khoảng hai tháng sau, cũng vào một đêm trăng, em lại tình cờ
thấy con chó trắng ngồi bên ngôi mộ ở chỗ cũ. Lần nầy em leo lên triền dốc nhẹ
nhàng hơn, cố gắng không gây tiếng động. Nhưng lên đến nửa chừng, con chó lại
biến mất. Em lấy làm lạ, nó chạy đi đâu nhanh vậy? Em lên đến tận ngôi mộ mà
con chó đã ngồi. Đó là mộ của bà Yoshiko Fukuda. Em tìm kiếm chung quanh, cũng
không thấy bóng dáng con chó nhỏ đâu cả. Em nghĩ trong bụng có gì kỳ lạ đây, thấy
hơi sợ sợ. Em đi xuống mà cứ trông chừng sau lưng, sợ có ai đi theo mình.
Nghe kể đến đây, tôi hỏi tiếp:
– Còn mấy lần sau thì sao?
– Hai lần sau cũng vậy. Con chó cũng xuất hiện vào những đêm
trăng, cũng ngồi hoặc nằm tại ngôi mộ bà Fukuda, và cũng biến mất khi em lên đến
nơi.
Tôi hỏi:
– Anh có sợ không?
– Sợ chứ! Nhưng thấy nó không làm hại gì, nên em cũng quen.
Vả lại, sau khi biết rõ câu chuyện về nó, em lại thấy thương nó hơn.
Thấy câu chuyện có vẻ hấp dẫn, tôi tò mò hỏi:
– Chuyện nó là chuyện gì?
Người lao công đáp:
– Một hôm, em gặp người em gái của bà Fukuda đi thăm mộ chị..
Em kể cho chị ấy nghe về chuyện có một con chó ngồi bên mộ của bà Fukuda vào những
đêm trăng sáng. Nghe xong, chị ấy vừa ngạc nhiên vừa sững sờ, rồi hỏi: “Có phải
đó là con chó nhỏ màu trắng không?” Em nói: “Phải”. Chị ấy ngần ngừ một chút, rồi
nói: “Anh hãy đi theo tôi. Tôi chỉ cái nầy cho anh xem.”
Sốt ruột, tôi xen vào:
– Chị ấy đưa anh đi đâu?
– Chị ấy dẫn em ra khu vực nghĩa địa dành cho thú cưng, chỉ
vào một tấm bia mộ, hỏi: “Có phải nó đây không?” Nhìn vào hình trên tấm bia, em
bật miệng kêu lên: “Đúng là nó rồi!” Em còn chưa biết nói sao, thì chị ấy trầm
giọng nói: “Nó là Monique, con chó cưng của chị tôi. Chị tôi coi nó như là con
gái cưng của mình”. Em gái bà Fukuda ngồi xuống, lấy khăn giấy lau sạch tấm
bia, kể tiếp: “Sau khi chị tôi mất, Monique buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống, rồi mất
theo chị sáu ngày sau.” Nghe thấy giọng chị ấy đượm đầy nước mắt, em đứng lặng
thinh, cũng nước mắt lưng tròng.
Tôi cũng lặng thinh, thấy thương Monique vô cùng, và thấy
mũi mình cay cay. Một lúc sau, anh lao công kể tiếp:
– Trước khi ra về, chị ấy nói khi nào rảnh, sẽ kể cho em
nghe nhiều chuyện về Monique.
Tôi bỗng thấy hiếu kỳ, muốn tìm hiểu rõ hơn về Monique. Tôi
lấy ra tấm danh thiếp của mình, nhờ anh chàng lao công trao cho em gái bà
Fukuda, nói rằng tôi rất thương cảm Monique và muốn nghe thêm chuyện về
nó. Vậy là bóng con chó trắng tôi thấy chạy trong nghĩa địa đêm hôm nọ
chính là Monique. Nó chạy qua mấy triền dốc, tìm đến ngồi ngay bên mộ chủ của
nó là bà Fukuda.
Đối với Monique, nghĩa tử chưa phải là nghĩa tận. Hơn một
tháng sau, tôi nhận được email của em gái bà Fukuda:
“Chào ông Lê,
“Tôi tên Shinju Fukuda, là em gái của chị Yoshiko Fukuda.
Nghe nói ông rất thương xót Monique và muốn biết thêm về nó, tôi xin kể vài câu
chuyện về Monique cho ông nghe.
“Hai chị em tôi đều độc thân, cùng sống chung với nhau. Chị
Yoshiko rất thích chó, nên chị tìm mua một con chó nhỏ về nuôi, và chị lấy tên
của một người bạn thân đã mất vì tai nạn để đặt cho nó là Monique.
Ngay từ đầu, Monique đã rất quyến luyến chị Yoshiko; chị đi
đâu, nó đi theo đó. Mỗi tối, chị cho nó ngủ chung giường. Từ ngày có Monique,
thần sắc chị tôi như tươi hẳn ra.
“Monique rất thông minh. Càng lớn, nó càng hiểu ý chị tôi muốn
gì, và làm đúng theo lời sai bảo của chị trăm phần trăm. Bởi vậy, chị
Yoshiko cũng ngày càng yêu thương Monique hơn, ôm nựng nó suốt ngày, luôn miệng
gọi nó là con gái yêu của mẹ. Hai mẹ con quấn quít nhau không rời. Mỗi khi ăn
món gì ngon, chị còn nhai và sú cho nó nữa. Thiệt hết biết!
“Một hôm, khi Monique được khoảng bảy tuổi, nó biểu hiện một
thái độ rất lạ. Nó liên tục ngửi vào mũi vào miệng chị tôi, rồi sủa lên.
Ngay cả khi chị Yoshiko vừa đánh răng xong, Monique cũng sủa như vậy. Chúng tôi
thấy lạ, nhưng không biết là chuyện gì.
“Ngày kia chị Yoshiko thấy tức ngực và khó thở, Monique càng
sủa dữ dội hơn. Chị bèn đi bác sĩ xem sao. Sau khi có đủ kết quả các thứ
xét nghiệm, bác sĩ cho biết chị bị ung thư phổi. Chị được kịp thời chữa trị. Đến
lúc này, chị em tôi mới vỡ chuyện ra là Monique đã đánh hơi được chị tôi bị ung
thư phổi từ trước, và nó đã sủa báo động, nhưng chúng tôi nào có biết gì đâu.
“Chị Yoshiko cầm cự được ba năm.. Sang năm thứ tư thì các tế
bào ung thư phát tán trở lại, nhanh hơn, dữ dội hơn. Chị phải trải qua các
phương thức trị liệu mạnh hơn mong ngăn chặn được sự phát triển của tế bào ung
thư. Chị tôi trở nên tiều tụy, chỉ còn da bọc xương, đầu không còn sợi tóc. Niềm
an ủi duy nhất của chị là Monique.
“Trong khoảng thời gian này, Monique càng quyến luyến chị
tôi hơn, không rời nửa bước. Nhìn hai mắt buồn so của nó mà thấy tội nghiệp vô
cùng. Nhớ có lần chị tôi mệt quá phải gọi xe cấp cứu đến chở vào nhà
thương, Monique bị nhốt lại ở nhà, nó tru gào khóc lóc thảm thiết. Tôi nghe mà
thấy đứt ruột. Vừa thương chị tôi, vừa thương Monique mà nước mắt tôi chảy
dài…
“Đến khi chị Yoshiko từ nhà thương trở về, Monique mừng hết
biết. Nó vừa nhảy loi choi liếm mặt chị tôi vừa khóc rí rí, như có ý nói rằng
má bỏ con đi đâu vậy, má có biết con nhớ má lắm không? Chị tôi vừa ôm hôn nó vừa
nói má biết, má biết, má cũng nhớ con lắm, mà nước mắt ràn rụa hai bên má chị.
Tôi cố gắng lắm cũng không cầm được nước mắt. Ôi, tình mẹ con của chị Yoshiko
và Monique thắm thiết làm sao!
“Đến gần cuối năm thứ tư thì các tế bào ung thư đã di căn
qua các bộ phận khác. Chị tôi buông xuôi, không chữa trị nữa. Mà chị cũng không
còn đủ sức theo các phương thức chữa trị ngày một mạnh hơn. Giờ chị chỉ uống
thuốc giảm đau, chờ ngày ra đi.
“Chị Yoshiko bình thản chờ ngày ra đi. Chị không có gì luyến
tiếc, ngoại trừ con Monique. Chị rơm rớm nước mắt mỗi khi ôm nó vào lòng, vừa
hôn hít nựng nịu nó, vừa dặn dò tôi thay chị chăm sóc tốt cho nó. Monique như
linh tính biết chuyện chẳng lành sắp xảy ra, nên lúc nào cũng rúc mình nằm sát
chị tôi, không rời. Rồi ngày chờ đợi cũng đã đến. Chị tôi ra đi nhẹ nhàng
trong giấc ngủ.
“Nhưng Monique không chấp nhận nhẹ nhàng chút nào. Nó hết
tru từng cơn, rồi lại khóc rí rí, không cách nào dỗ dành nó được. Đến lúc cho
nó nằm dưới quan tài chị Yoshiko, thì nó mới nín. Khi làm lễ hạ huyệt,
Monique vùng chạy khỏi tay tôi, nhảy xuống mộ nằm trên quan tài chị Yoshiko. Mọi
người vất vả lắm mới bắt được nó đem lên. Ai thấy vậy cũng chảy nước mắt, vừa
thương chị Yoshiko, mà cũng vừa thương cho Monique.
“Từ hôm đó, Monique buồn rầu, bỏ ăn bỏ uống. Tôi dỗ dành mấy
cũng không được. Suốt ngày nó nằm trên gối trong giường chị tôi. Nó nằm cuộn
mình, dấu đầu vào dưới chân trước. Thấy thương chi lạ! Nó cứ nằm miết như
vậy. Cho đến chết. Nó quyết đi theo chị tôi.
“Tôi đã làm đám tang tươm tất cho Monique. Bạn bè quen biết
đều đi đưa đám nó. Ai cũng khóc khi hạ huyệt nó. Ai cũng đều thương xót
Monique, một con chó trung thành đã chết theo chủ. Monique được chôn cùng
một nghĩa địa với chị Yoshiko. Tôi tin là nó đã đi tìm chị tôi vào những đêm
trăng sáng. Hai mẹ con họ giờ đã gặp lại nhau ở bên kia thế giới.
Shinju Fukuda.”
Thư trên đây được viết bằng Anh ngữ. Chị em bà Fukoda người
gốc Nhật, đều là cư dân Honolulu, Hawaii.
Lê Tấn Phước