Nếu không vì Covid-19 thì chắc tôi chưa tới tiểu bang
Colorado nước Mỹ! Vì trận đại dịch, người Mỹ không muốn đi máy bay, nếu không
“tối cần thiết!” Khi ngồi trên máy bay, nhìn trước nhìn sau, tôi mới thấy họ lo
lắng là đúng! Từ 19, 20 tháng nay tôi tránh không đến chỗ đông người, vì sợ
mình lãnh loài vi khuẩn corona của người khác hoặc truyền corona cho bà con
chung quanh. Bây giờ phải ngồi trong bụng chiếc máy bay, một cái phòng kín
bưng, suốt mấy tiếng đồng hồ với mấy trăm người lạ mặt! Nghe thấy hãi! Nếu
tránh được thì nên tránh!
Nhưng tôi đã qua Colorado chơi gần một tuần để coi mùa Thu trên miền núi Rocky
chỉ vì … giá vé máy bay rẻ quá! Các hãng máy bay đại hạ giá để câu khách! Khứ hồi
hai chuyến chỉ có $50 đô la! Nếu Đức Khổng Tử thấy giá vé rẻ như vậy thì cũng
muốn đi!
Ngày thứ nhì ở Denver, cậu cháu đưa chúng tôi lên núi. Đi qua thành phố
Boulder, bỗng nhiên tôi nhớ đến những ngày đầu tiên sau khi rời khỏi nước Việt
Nam, tới ở Montreal, Canada. Địa chỉ duy nhất ở Mỹ mà tôi có trong sổ là mẹ một
người bạn, ở Boulder, Colorado! Mươi năm gần đây tôi đã lái xe đi qua Colorado
mấy lần nhưng không bao giờ nhớ đến. Hơn 46 năm, giờ tôi mới đặt chân lên thành
phố Boulder này! Không hiểu sao, trong óc tôi lại hiện ra ngay tên bà mẹ người
bạn: Bà Ziegler. Nhớ được họ của bà, thì cái tên cũng hiện ra: Ethel. Ethel
Ziegler. Cái tên viết trên bì thư, trên trang đầu những cuốn sách bà gửi tặng.
Tôi đã viết thư qua lại với bà nhiều lần trong mấy năm liền. Họ và tên bà được
cất giữ trong tàng thức hơn 40 năm nay, chợt hiện hành, vì tôi đang ở Boulder!
Câu chuyện khá lòng thòng. Ở Sài Gòn, từ khoảng năm 1970 chúng tôi có một bà bạn
người Mỹ, hơn tôi chừng 20 tuổi. Bà làm việc cho một hãng tư cung cấp pizza cho
lính Mỹ; khi quân Mỹ rút thì công ty pizza cũng rút. Bà Ruth Talovich thích đời
sống Việt Nam, thích chả giò, thích nước mắm quá, không về Mỹ. Bà đi dạy tiếng
Anh, phải vất vả xin được cái “giấy phép làm việc” của Bộ Lao Động. Chính phủ
Việt Nam lúc đó cũng khó khăn y như các sở lao động ở Mỹ bây giờ.
Tháng Tư năm 1975, Tòa Đại Sứ Mỹ yêu cầu bà Ruth phải ra khỏi Việt Nam. Họ cung
cấp máy bay miễn phí, một cách dụ dỗ có hiệu quả. Bởi vì lúc đó công việc khó
khăn, có khi bà Ruth phải đến mượn tiền chúng tôi.
Trước khi rời Sài Gòn, bà cũng chưa biết mình sẽ ở đâu, nên ghi cho tôi địa chỉ
bà mẹ ở Mỹ. Đó là địa chỉ người Mỹ duy nhất trong cuốn sổ bỏ túi tôi mang đi. Tới
Montréal mấy tháng tôi mới viết cho bà Ethel Ziegler ở Boulder, Colorado, chỉ cốt
hỏi thăm con gái bà đang ở đâu.
Bà Ziegler lúc đó đã gần 80 tuổi, gia đình bà cũng từng làm dân tị nạn từ Âu
Châu qua. Bà hỏi tôi có cần giúp đỡ chi không. Tôi đáp mình chỉ thiếu hai thứ:
Một là mất hết bạn bè; hai là không mang được tủ sách theo! Từ đó, bà Ziegler gửi
sách cho tôi. Hết hộp này đến hộp khác. Những cuốn sách trong tủ sách của gia
đình bà, còn nguyên dấu đóng tên. Bà chọn những cuốn sách triết học, văn
chương, chắc do bà Ruth đề nghị. Tôi còn nhớ một cuốn là Trung Dung và Đại Học
của Khổng Tử, do thi sĩ Ezra Pound dịch sang tiếng Anh. Pound không biết chữ
Hán, phải nhờ mấy người dịch và giảng cho nghe trước khi ông đặt bút viết.
Biết chắc bà Ethel Ziegler không còn nữa, nếu còn thì bà cũng 120 tuổi; nhưng
tôi vẫn cảm thấy ân hận suốt 40 năm qua không hề nghĩ đến bà. Đi qua Boulder,
tôi càng bồi hồi muốn tìm lại một dấu vết nào đó về bà. Bạn tôi, bà Ruth cũng
đã mất hơn 10 năm nay. Người con trai duy nhất còn lại của bà Ruth thì đã thành
dân Đài Loan từ 50 năm, lần chót tôi gặp trong đám tang bà Ruth, tại nghĩa
trang quân đội Mỹ.
Thời bây giờ, muốn tìm cái gì mình cũng có thể nhờ các mạng thông tin internet.
Quả nhiên, hôm sau tôi tìm ngay được địa chỉ của bà Ethel Ziegler tại Boulder
vào năm 1940! Lúc đó bà đã 46 tuổi. Tôi thấy khác với địa chỉ khi bà gửi sách
cho tôi. Nhưng trong tài liệu Sở Kiểm Kê Dân Số (Census Bureau) năm đó cũng thấy
tên Ruth, con gái đầu lòng của bà. Gia đình này trước ở Kansas. Thời còn sống,
lâu lâu bà Ruth vẫn kể tôi nghe về các cơn “bão cát” ở Kansas.
Trong các mạng internet mình còn có thể tìm ra nhiều tin tức khác, vì có rất
nhiều công ty đang cung cấp những dữ liệu thuộc phạm vi công cộng cho độc giả.
Tất nhiên muốn biết thêm thì mình phải trả tiền!
Nhưng ngay khi chưa cần trả đồng nào, tôi cũng biết thêm rất nhiều về hai mẹ
con người bạn quá cố. Tôi chưa bao giờ hỏi bà Ruth ngày sanh tháng đẻ. Bây giờ
thì Census Bureau cho biết bà sinh 27 tháng 10 năm 1918! Trong tài liệu công cộng
còn hình ảnh mộ bia của bà ở Riverside National Cemetery. Trên bia ghi bà là
“MSGT USA ARMY, WW II” Thượng Sĩ (hay Trung Sĩ Nhất) Lục Quân Mỹ Thời Đại Chiến
II. Mộ bia cũng viết bà được tặng huy chương “Legion of Merit,” tôi tra tìm
không thấy tiếng Việt gọi là gì.
Bây giờ người Mỹ muốn tìm lại ông bà, cha mẹ mình thì sẽ được rất nhiều công ty
cung cấp. Giáo Hội Mormon làm dịch vụ “gia phả” miễn phí. Những di dân tới Mỹ
muốn để lại dấu tích cho con cháu các đời sau tìm được dễ dàng thì nên liên lạc
với họ, cung cấp các thông tin và con số. Nhiều trẻ em Việt Nam bây giờ vẫn tò
mò hỏi: Tại sao gia đình mình qua ở nước Mỹ? Từ năm nào? Thử tưởng tượng một đứa
cháu năm đời sau vẫn có thể tra cứu, tìm ra ông bà tổ của mình vượt biển qua Mỹ
năm 1980; quê cũ ở một làng tỉnh Bình Định, trong họ đã có người tuẫn tiết khi
bị quân Pháp bắt 1882!
Trong lịch sử nhiều người Việt Nam ra sống ở nước ngoài vẫn giữ được liên hệ
tinh thần với gia đình và quê hương cũ. Năm 1862, phái đoàn Phan Thanh Giản đi
sứ qua Pháp, Phó Sứ Phạm Phú Thứ ghi lại chuyện một bà người Việt, Nguyễn Thị
Sen, người Phường Đúc, Huế, đưa con đến thăm phái đoàn. Bà Sen đã theo chồng,
Francois Vannier đi Pháp từ năm 1825. Thế mà 37 năm sau còn lặn lội từ miền quê
đi lên Paris để gặp những người đồng hương, hai mẹ con ở lại thủ đô cho tới khi
phái đoàn về nước!
Một giòng họ lưu vong nổi tiếng nhất lịch sử nước ta chắc là các người họ Lý đã
vượt biển qua Cao Ly khi nhà Lý bị họ Trần lật đổ. Họ Trần tuy đoạt ngôi vua
nhưng vẫn được ghi công huy động cả nước Đại Việt chống ba cuộc xâm lăng của
quân Mông Cổ. Những hoàng thân họ Lý lập nghiệp vẻ vang ở Triều Tiên. Họ đã lập
một cái đài ở bờ biển, để hướng về tổ quốc. Con cháu họ Lý ở Hàn Quốc đã từng về
làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh lễ nhà thờ tổ.
Mấy năm trước, ông Ban Ki Moon, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cũng tới Việt Nam chỉ
để được lễ nhà thờ tổ. Ông tiết lộ gia phả ghi tổ tiên ông họ Phan Huy ở Làng
Thầy, Sơn Tây cũ, đã qua sống ở Hàn Quốc! Nhiều người họ Phan Huy cũng không biết
có bà con sống lưu vong ở Triều Tiên! Người Việt có học đều biết các danh sĩ
Phan Huy Ích, Phan Huy Chú, nhà thơ Phan Huy Thực. Dòng họ này gốc từ Nghệ An
ra Bắc, vốn giỏi nghề đàn hát, đến đời chúa Trịnh Giang mới được phép đi thi,
và đậu tiến sĩ liên tiếp nhiều đời! Nhưng cũng vì vậy, họ phải làm quan cho các
triều đại nhà Lê, họ Trịnh, nhà Tây Sơn, rồi đến nhà Nguyễn! Mỗi một lần chính
quyền cũ sụp đổ, thế nào cũng có người vượt biển tị nạn. Chỉ trừ hồi 1979, 80
người Việt họ Phan từ Nam chí Bắc đều rủ nhau vượt biển!
Ông Ban Ki Moon chưa kể tổ tiên ông từ Việt Nam qua Hàn Quốc vì lý do nào. Con
cháu nhiều đời sống ở một quốc gia khác, suốt mấy trăm năm vẫn giữ nguyên họ
cũ! Vì những chữ Phan Huy và Ban Ki đọc khác nhưng viết bằng chữ Hán thì giống
nhau.
Tôi đi tìm các dữ liệu về bà Ethel Ziegler ở Boulder, Colorado, thì yên tâm rằng
các thế hệ sau con cháu mình có thể tìm hiểu về nguồn gốc tổ tiên dễ dàng lắm.
Mong các cháu sẽ học theo dòng họ Ban Ki!
Một gia đình đã sống lưu vong, đã làm công dân một nước khác mấy thế kỷ, đã
thành công như vậy, mà vẫn ghi nhớ quê hương tổ tiên mình! Không ai xin đổi
sang một họ mới, cho giống người Cao Ly hơn. Thật đáng kính phục! Những người
đó phải hãnh diện về nguồn gốc tổ tiên Việt Nam của mình. Chỉ những người không
thấy tổ tiên có gì đáng hãnh diện mới dễ dàng đổi họ.
Ngô Nhân Dụng