Lý luận cần thiết nếu không muốn nói là quyết định. Một người
đi lạc trong rừng không có đầu óc lý luận để biết việc gì nên làm trước và việc
gì nên làm sau có thể phải chết trong rừng già.
Mục tiêu trước mắt của người đi lạc là tồn tại chứ không phải
là ra khỏi khu rừng. Do đó, việc nên làm trước là bình tĩnh đi tìm chung quanh
mình một con suối hay ít nhất một khe nước thay vì hoảng sợ chạy tứ tung để tìm
một lối thoát cho đến khi tuyệt vọng quỵ xuống và chết trong đói khát.
Một nhận xét tôi thường gặp trên Facebook “Nói hoài, nói mãi, vấn đề là làm gì”. Người viết nhận xét đó thật ra không có ý khinh thường hay nặng lời với các tác giả cặm cụi suốt ngày đọc và viết nhưng chứng tỏ tâm lý thất vọng trước các vấn nạn của đất nước.
Lý luận bắt đầu từ những khái niệm căn bản.
Qua trung gian bạn bè tôi biết đến tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”
khá sớm. Khi chưa đọc, một người bạn hỏi tôi về cái tựa sách. Tôi nhớ mình đã
trả lời “Không thích lắm vì có vẻ hụt hẫng, phải chi có thêm vài chữ để chỉ rõ
hơn nội dung mà tác phẩm tập trung vào, “Bên thắng cuộc” thôi tổng quát quá.”
Nhưng sau khi sách phát hành, đọc và thấy có thêm hai tiểu đề “giải phóng” và
“quyền bính” đánh dấu mốc thời gian và chỉ rõ nội dung hơn, tôi nghĩ khác về tựa
sách. Đảng CSVN đúng là “bên thắng cuộc”.
Lịch sử đảng CSVN chứng minh CS hóa miền Nam là cuộc cờ, là
canh bạc của đời họ. Các thế hệ lãnh đạo CS trước chiến tranh, trong chiến
tranh và ngay bây giờ đều xem dải đất hình cong chữ S là một bàn cờ. Duy trì
quyền lực đảng là tối thượng và tất cả nỗ lực, mọi hoạt động đều nhằm phục vụ
cho các mục đích thắng cuộc cờ của đảng.
Từ 1930 đến nay, đảng CS đưa ra nhiều văn bản chỉ đạo từ Luận
Cương (10-1930) đến Chính Cương của Đảng Lao Động Việt Nam (2-1951), Cương Lĩnh
Xây Dựng Đất Nước Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Chủ Nghĩa Xã Hội (6-1991) và các văn
bản khác nhưng nội dung vẫn thống nhất. Đảng CS đã, đang và sẽ làm tất cả những
gì cần để bảo vệ cho được quyền cai trị của đảng.
Sau hiệp định Geneva, nếu có tổng tuyển cử thì tốt. Họ sẽ
chiếm miền Nam không cần súng đạn. Nếu không có tổng tuyển cử cũng không sao. Họ
vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng xương máu Việt Nam và súng đạn Nga, Tàu. Dù qua
phương cách tuyên truyền, gian lận hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, mục
tiêu toàn trị vẫn không thay đổi.
Đương đầu với Mỹ, một cường quốc dư thừa bom đạn, các lãnh tụ
CS biết nhiều triệu người Việt sẽ phải chết, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn
thua sút phần lớn nhân loại có thể phải xảy ra. Biết thì biết nhưng đảng không
hề bận tâm. Không có văn bản nào cho thấy các lãnh đạo CS đặt số phận 20 triệu
dân miền Nam lên bàn tính. Khi cần có đàn anh bảo bọc, đảng bán nước không một
chút đắn đo. Năm 1958, Mao Trạch Đông chưa chính thức mở miệng đòi Hoàng Sa, Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Bộ Chính Trị CSVN đã biết ý nên tặng trước để lấy
lòng.
Trải qua nhiều thời kỳ, có khi đảng phải tự diễn biến để
thích nghi với những đổi thay trên thế giới hay làm dịu lòng căm phẫn của người
dân nhưng bộ máy công an, nhà tù, các biện pháp đàn áp, trừng phạt, các bản án
dành cho những người chống lại các chính sách hà khắc của đảng CS không hề thay
đổi.
Năm 1990, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị kết án 20 năm tù vì đòi hỏi
CSVN phải tôn trọng nhân quyền. Năm 2017, anh Lê Đình Lượng đòi hỏi CSVN tôn trọng
nhân quyền nên bị kết án 20 tù. Hai mươi bảy năm nhưng giá một người Việt Nam
yêu chuộng tự do phải trả không bớt được một ngày.
Ba chữ “đảng CS” khắc trong tim, hòa trong máu của các thế hệ
lãnh đạo CSVN.
Không ai trong số 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn
đầu đài ngày 17 tháng 6, 1930 tại Yên Báy đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn
năm”. Ngược lại, không ai trong số các lãnh tụ CS bị xử bắn tại Hóc Môn ngày 28
tháng 8 năm 1941 như Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến v.v.. đã
hô “Việt Nam muôn năm.”
Báo đảng CS viết về cái chết của Võ Văn Tần, Bí thư Xứ Ủy
Nam Kỳ thuộc đảng CS Đông Dương: “Trước lúc hy sinh, tất cả các đồng chí đã giật
tung mảnh vải bịt mắt và hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản Đông Dương muôn
năm”, “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm” (Cách mạng đây là cuộc cờ, canh
bạc của đảng CS).
Báo đảng CS viết về cái chết của Nguyễn Thị Minh Khai, Bí
thư Thành Ủy Sài Gòn Chợ Lớn: “Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực
dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn ngày 26 tháng 8
năm 1941. Trước khi bị xử tử, bà đã khẳng khái lên án tội ác thực dân Pháp và
hô to: “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!”, thể hiện tinh thần bất khuất, kiên
trung của bà.”
Lê Hồng Phong không bị xử bắn. Ông ta bị bịnh và chết ngoài
Côn Đảo. Trước khi qua đời, ông Phong không nhờ các bạn tù thắp nén hương trên
mộ mẹ hay chào vĩnh biệt nơi chôn nhau cắt rốn, không, theo các báo đảng, ông
nhắn nguyên văn thế này: “Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với
Đảng rằng: Tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng
lợi vẻ vang của cách mạng”. (Cách mạng đây là cuộc cờ, canh bạc của đảng CS)
Di chúc Hồ Chí Minh, bản do đảng CSVN công bố có 22 chữ “đảng”
và 1 chữ “dân tộc”.
Giống như Võ Văn Tần, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và
các lãnh tụ CS khác, Hồ Chí Minh sống là lãnh tụ CS và chết cũng về với các
lãnh tụ CS khác: “Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ
Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng
chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.”
Tóm lại tất cả lãnh tụ CS chết vì bị xử tử, chết già, chết bịnh
đều chỉ nghĩ tới đảng, không ai trong số họ nghĩ tới dân tộc Việt.
Nhưng sau khi tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” được phát hành, một
phong trào gồm những người dễ dãi bắt đầu dùng chữ “Bên Thua Cuộc” để chỉ phía
Việt Nam Cộng Hòa nói riêng và khối người Việt yêu tự do nói chung.
Đảng CS tự đánh cuộc với chính họ. Người Việt tự do không
đánh cuộc nên không “thua cuộc” ai cả.
Dân tộc Việt Nam không ký vào Hiệp Định Geneva 1954. Đây là
dây thòng lọng của các cường quốc quấn trên cổ dân tộc Việt. Dân tộc Việt phải
chấp nhận để sống cho đến khi đủ lớn mạnh.
Sự phân cực tự do và CS sau Thế chiến Thứ Hai không chỉ diễn
ra trong phạm vi ý thức hệ mà còn diễn ra về địa lý tại một số quốc gia, trong
đó có Việt Nam. Không một người Việt Nam nào muốn đất nước phải chia đôi và
lòng người ly tán, nhưng phải chấp nhận và thuận theo hướng đi của thời đại mà
phát triển cho đến một cơ hội thích hợp để đoàn viên dân tộc.
Một lãnh đạo sáng suốt là lãnh đạo biết vận dụng chính sách
đối ngoại của các cường quốc và đi theo hướng đi của thời đại.
Konrad Adenauer của Đức là một chính trị gia yêu nước và thức
thời. Mục đích trước mắt của Thủ tướng Adenauer sau 1945 không phải là thống nhất
nước Đức mà xây dựng Tây Đức thành một quốc gia độc lập, dân chủ, có chủ quyền
và một cường quốc được thế giới công nhận.
Chỉ 10 năm sau Thế Chiến thứ Hai, 1955, Cộng Hòa Liên Bang Đức
(Tây Đức) trở thành hội viên của NATO hùng mạnh. Chỉ 12 năm sau Thế Chiến thứ
Hai, 1957, Tây Đức trở thành một trong những quốc gia lãnh đạo của Cộng Đồng
Kinh Tế Châu Âu.
Tương tự, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh
thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn
toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu
đau khổ dưới ách thực dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được
cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng
hòa hiện đại.
Dân chủ là một tiến trình chứ không phải là một cái máy cày
hay máy xay lúa được nhập từ nước ngoài và xử dụng giống nhau dù ở Mỹ, Pháp hay
Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng nền dân chủ, nước Mỹ đã phải hy
sinh trên bảy trăm ngàn thanh niên trong Nội Chiến Hoa Kỳ 1861-1865. Miền Nam
Việt Nam cũng có những vấn đề riêng của một quốc gia đang tìm cách vươn lên sau
thời kỳ bị lệ thuộc quá dài. Tuy nhiên, đó là chuyện riêng của VNCH, không dính
líu hay liên can gì đến chế độ CS ở miền Bắc.
Nhưng đảng CS không tha.
Tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động (CS)
sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành,
đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường
Sơn” như Hồ Chí Minh nói. Gần hết đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến
“giải phóng dân tộc” và hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường
“chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.
Suốt 20 năm, quân dân miền Nam đã phải chiến đấu trong cuộc
chiến tự vệ mà họ không chọn lựa. Miền Nam Việt Nam là nạn nhân của đảng CSVN
chứ không “thua cuộc”.
Hàng ngàn người dân vô tội chết ở Huế trong Tết Mậu Thân
không “thua cuộc” với ai cả, họ chết vì bị chôn, trong nhiều trường hợp bị chôn
sống.
Các em bé chết trong tay mẹ ở nhà hàng Mỹ Cảnh không “thua
cuộc” với ai cả, các em bị giết bằng bom của đặc công CS tối 25, tháng 6, 1965.
Những em bé học sinh tuổi mới lên mười ở trường tiểu học Cai
Lậy, Định Tường không “thua cuộc” với ai cả, các em chết oan ức vì đạn pháo
kích sáng ngày 9 tháng 3, 1974.
Những bà mẹ che đạn cho con bằng chiếc nón lá và những bà mẹ
gánh con chạy giặc trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” 1972 không “thua cuộc” với ai cả,
nước mắt của các mẹ là máu chảy nhiều năm.
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia bị CS cưỡng chiếm và một
ngày sẽ được phục hồi. Ngày phục hồi không chỉ Miền Nam thôi mà cả nước Việt
Nam sẽ yên vui dưới chế độ Cộng Hòa.
Trần Trung Đạo