"Rừng Núi Bạt Ngàn" là truyện dài đầu tiên
sau một loạt tám tập truyện được độc giả đón nhận với nhiều ưu ái dành cho ngòi
bút Hoàng Nga. Không gian truyện là một huyện lỵ miền Đông Nam phần. Thời gian
là những tháng năm thời bao cấp sau chính biến 1975. Và, đáng lẽ, cũng là chuỗi
ngày mười tám thơ mộng, rực rỡ nhất của thời thiếu nữ gắn bó với gia đình, bạn
bè, trường lớp và ngôi nhà:
"Căn nhà nằm mặt lộ, trên con đường bé xíu nhưng mang cái tên của một trong những con đường lớn của Sài Gòn. Ngày chúng tôi về huyện lỵ đó, điều gì cũng làm tôi buồn, cũng làm tôi không thích, chỉ trừ khuôn viên căn nhà có những hàng móng tay màu hồng chạy dọc theo lối đi, dậu huỳnh anh vàng nằm trước ngõ, bụi tướng quân trắng trang trọng nằm khuất sau cây bơ, chùm trắc bách diệp bên thềm và hàng cau non trước hiên trổ hoa thơm ngát. Không biết bao nhiêu lần tôi đã mang hình ảnh thơ mộng của khuôn viên này vào truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ của mình. Và có lẽ đó cũng là những hình ảnh ít đau buồn nhất còn lại trong ký ức tôi." (Tr. 55)
Truyện có nhân vật chính xưng "tôi" và những người
trong gia đình của "tôi". Không một ai được nêu danh, mà chỉ là những
"ba tôi", "mẹ tôi", "ông anh", "hai thằng
em", "con em kế", "ông anh nuôi", "thằng em
nuôi", ngoại trừ con chó có cái tên ngộ nghĩnh là Bi Lèm và những nhân vật
phụ như bà Hai cán bộ, bà Hai trung lập, bà Năm, ông Bảy Cúc, ông Hai Xồi, bác
Tư Nùng, v.v…
Truyện bắt đầu bằng:
"Sau 75, nhà tôi đi làm rẫy, như nhiều người trong cả
nước đi làm rẫy. Nhưng mãi hơn một năm sau khi thi đại học, cao đẳng, rồi xuống
trung cấp, trung học vẫn ạch đụi, không vô được cái nào hết ráo, tôi mới bắt đầu
khăn gói vào rừng vì cái rẫy nằm tuốt trong… rừng.
Nhưng trước khi vào rừng làm rẫy thì tôi
làm… thơ. Những bài thơ vô cùng nức nở, vô cùng 'tâm trạng', vô cùng sầu đau
nhân thế …" (Tr. 5)
Và cứ vậy, Hoàng Nga thuật chuyện đổi đời của gia đình và xã
hội sau 1975, suốt 317 trang sách. Bằng ngữ điệu cà tửng, bỡn cợt, Hoàng Nga vẽ
ra những hình ảnh mất mát, tan tác và có lẽ, quan trọng nhất, nhân vật xưng
"tôi" đã thấy ra bộ mặt thật của đời sống, phản ảnh qua từng nhân vật
gần gũi trong gia đình, học đường và ngoài xã hội.
- Của nhân vật cha: "Ba tôi hiền lành. Cười nói cũng
hiền lành. Trong nhiều năm liền, cứ mỗi lần bịnh nằm dài, là tôi lại nhớ bàn
tay dịu dàng lên trán tôi, nói con gái của ba ráng khỏe cho ba mừng…" (Tr.
25). Hơi lạ, vì những hành động và lời nói kiểu ấy chỉ thường thấy ở những nhân
vật mẹ. Nhưng, chính vì vậy, đã khiến người đọc xúc động. Ngay cả những khi người
cha vô rừng làm rẫy cùng mấy đứa con, đôi khi tự tay lo chuyện bếp núc. "Và
lần này, đổi đời, cũng cái bàn tay ấy, trước mắt tôi ngày ở trong rẫy, loay
hoay hoài với mớ lá khô củi mục. Có lúc tôi đã định nói ba bỏ bớt lá bớt củi để
con không chảy nước mắt, nhưng rồi tôi vẫn ngồi im …" Vì "tôi"
không nói, mới xảy ra cớ sự:
"… Nhưng lúc dọn ra ăn, người hùng cứ thắc mắc:
- Ủa, sao ba làm kỹ lắm mà nó lại như vậy cà?
'Nó lại như vậy' là vì người hùng không dám hạ lửa khi lò
hết nghẹt, lá, củi cháy phừng phừng. Cơm réo rồi cơm sôi. Thiệt đúng như người
ta vẫn hay nói, tơi bời khói lửa. Nên kết quả cuối cùng là một nửa bên trên
hơi… sống, còn một nửa bên dưới thì… khét lẹt. Cháy đen." (Tr. 25-26)
- Của nhân vật mẹ thích làm thơ và hay làm bánh: "Mẹ
tôi có một món bánh chỉ nghe tới tên thôi là đã thấy ớn, nói gì tới ăn! Sự xuất
hiện của nó trên thế gian này, tôi nghĩ là do 'thiên thời địa lợi'! Theo lời mẹ
tôi kể thì nó đã ra đời vào thời cách mạng mùa thu, khoảng thời gian kháng chiến
chín năm." (Tr. 121)
Bánh "chẹp ẹp"? Có lẽ, đây là lần đầu tiên, người
viết bài này nghe nói tới một món bánh vừa tượng thanh, tượng hình và tượng vị
tới vậy. Thử đọc tiếp, để tìm hiểu thêm về món bánh dân dã mang cái tên ngộ
nghĩnh được chế biến từ khoai mì này, qua lời diễn tả của Hoàng Nga:
"Bánh chẹp ẹp 'của' mẹ tôi có hình dáng dẹp lép y
như tên gọi, còn hương vị thì… thôi rồi, bởi vì nó không có nhưn nhị gì cả, được
làm từ bột khoai mì khô nhồi với nước ấm và muối, vo tròn thành cục xong đập…
chẹp ẹp xuống, thả vào nước xôi nấu một hồi cho tới khi bên ngoài hơi chèn nhẹt
thì vớt ra để ráo. Sở dĩ tôi phải nhấn mạnh hai chữ 'chèn nhẹt' vì phải luộc
như vậy bên trong mới chín. Và cuối cùng nếu… sang trọng, sẽ có chút hành lá khử
với dầu, không thì chỉ ăn như vậy với nước mắm mà thôi." (Tr.
123)
Đọc tới đây, mới… ủa, thì ra bánh "chẹp ẹp" là một
món bánh mặn! Nhưng, dù mặn hay ngọt, dù chưa ăn bao giờ, hẳn là sau khi đọc
xong chẳng ai muốn thử, bởi lẽ qua lời tả chân dí dỏm của tác giả, người đọc đã
mường tượng ra mùi vị món bánh "chèn nhẹt" này rồi. Và hình dung thêm
đôi chút về nhân vật người mẹ, là: "Mẹ tôi sinh ra và trưởng thành ở
nơi không có được những món ngon so với những vùng khác. Món ăn thiệt, món ăn
chơi gì cũng rất buồn và đơn điệu. Chè chỉ là đậu đen dùng chén ăn cơm làm
khuôn. Bánh bèo cũng 'chơi' nguyên một chén dày cộm, không ẻo lả mỏng manh như
bánh bèo xứ Huế. Bị mắng đành nghe, chứ gần như tôi chẳng thích bất cứ món quốc
hồn quốc túy nào của quê ngoại." (Tr. 125) Đã vậy, còn sinh ra
một cô con gái thích ăn ngon, nên kén ăn, thích mặc đẹp, nên kiêu kỳ, thích thơ
văn, nên thành văn sĩ. Mẹ của "tôi", sau buổi đổi đời, từ ngày
"ba tôi" và "hai thằng em" vô rừng làm rẫy theo chỉ thị, ở
lại trông coi và quán xuyến việc nhà. Không ai có việc làm, có được đồng ra đồng
vào mỗi tháng, tư trang, đồ đạc vì vậy phải bán đi để kiếm chút tiền lo chuyện
sinh nhai và mua gà, vịt, heo về nuôi, kiếm thêm lợi tức về sau. Và bà còn phải
thủ thân trong khi giao tiếp với xóm giềng là những "… bà Năm chế độ
cũ, có con trai là sĩ quan đi học tập cải tạo ở đâu đó, …" (Tr. 134),
bà Hai cán bộ "… có chồng đi tập kết. Mặc dù đã có vợ khác ở ngoài Bắc,
nhưng trong suốt 'thời kỳ bị Mỹ Ngụy kềm kẹp', bà Hai vẫn trung kiên ủng hộ
cách mạng và thủy chung chờ chồng, …" (Tr. 135), bà Hai trung lập, "…
bởi vì gia đình bà không có ai đi lính cộng hòa, cũng không có người tập kết
hay đặc công… đặt mìn gì ráo. Bà Hai 'trung lập' chỉ mắc tội… di cư, nếu như rộng
lượng không tính thêm cái tội cô con gái út ngày ngày ru cháu ngủ, cứ hát oang
oang những bài ca cách mạng với nhiều lời đã bị sửa. Như 'Vàm Cỏ Đông cứt chảy
đầy sông, có anh du kích chổng 'đích' lên trời', hoặc như đang mùi mẫn 'cây lúa
non chờ từng cơn mưa nhỏ. Cây lúa trổ chờ nước đổ trên nguồn. Cả quê hương rạo
rực thơm đất mới', bỗng la làng lên như có ai siết cổ, 'nhà nước ơi, ăn khoai
mì ngán quá' …" (Tr. 135), bà "quệt liễm", … , để tránh chuyện
phiền nhiễu.
- Của nhân vật "hai thằng em": Một thằng thì bệnh
hoạn rề rề, nhưng là chứng bệnh có tên gọi, còn thằng kia thì "…
tướng tá ngon lành, chẳng biết bịnh gì mà cứ xỉu lên xỉu xuống. Đang chơi ngon
lành, bỗng đùng một cái im hơi lặng tiếng rồi nằm lăn quay ra. Mà thằng em tôi
không động kinh, không yếu tim, không áp huyết thấp cao gì ráo mới lạ nhé. Chỉ
xỉu. Dài dài …
…
Sợ, hồi hộp, xỉu. Mừng, vui cũng xỉu. Thua, tức, xỉu.
Thắng, cũng xỉu nốt …" (Tr. 12-13). Vì lẽ đó mà nhà có thêm một người:
nhân vật "thằng em nuôi" là nạn nhân chiến cuộc trước 75, "…
ba mẹ mất trong một trận đánh lớn chỉ còn lại ba anh em trơ vơ nên được đưa tới
trạm xá của má lớn tôi. Sau vài tuần, ông anh lớn và cô em gái ở lại với má lớn,
còn thằng em này ra thành phố sống với gia đình tôi." (Tr. 13), và có
nhiệm vụ "… khi đi học chung với hai thằng, chịu khó để mắt coi chừng
'em' có… xỉu thì chạy đi báo cho thầy cô giáo và hiệu trưởng biết…"
(Tr. 13-14)
"Hai thằng em" này, cùng với "thằng em
nuôi", "ba tôi", "ông anh" và "tôi" là những
người đã từng vô rừng làm rẫy, làm ruộng theo chính sách của nhà nước mới.
"Ba tôi" và "tôi" sợ đỉa, nên ít khi "lên bờ xuống ruộng",
giao phó việc gieo mạ, cấy gặt cho mấy cậu con trai. "Tôi" được giao
trách nhiệm làm chị nuôi, lo chuyện giặt giũ và cơm nước, vận dụng óc sáng tạo
chế biến từ rau củ quả thành những món xào, món canh, ngày ba bữa. Những khi
xong việc bếp núc, giặt gịa, nhân vật "tôi" mơ mộng vẩn vơ, ghi chép
những vần thơ thẩn.
Vẫn với mạch biếm văn và những dòng tả tình tả cảnh tuyệt vời,
Hoàng Nga viết:
"Mùa mưa, trời thường sụp tối rất nhanh. Chung quanh
rẫy tuy không ao hồ, nhưng phía dưới thấp nhiều ruộng nên cứ bắt đầu chạng vạng
là ếch nhái kêu buồn đến não nuột…
Người buồn cảnh thê lương, thường hay khiến người ta chỉ
muốn nghĩ tới những điều đau lòng. Mười tám tuổi, tôi ngồi viết… di chúc:
Khi tôi chết đưa về phố cũ
Chiết lên tôi một gốc thông già
Để đêm buồn giữa biển bao la
Tôi ngồi đón sóng dồn lên đá …
… Khi tôi chết xong đời bão nổi
Cám ơn người đã nhớ thương tôi
Chiều mây vàng bụi yến tung rơi
Tôi sẽ nhớ tên người miên viễn …
Cái bài thơ mà mỗi bận đọc lại, tôi vẫn không khỏi phì cười.
Bởi gần đến cuối đời, nhớ hoài, nghĩ hoài vẫn không biết ai là 'ảnh tượng' để
tôi đòi nhớ tên tới miên viễn ngàn đời như vậy… Có lẽ phải hãi hùng với cuộc đời
dữ lắm mới rặn ra được những giòng di chúc sầu cổ độ như vậy chứ!" (Tr.
109-110)
- Của nhân vật "ông anh" hiền lành: "Tôi
nhớ tới vóc dáng thư sinh của anh những ngày còn đi học. Nhớ tính cách của con
người anh. Hoàn toàn khác hẳn với những tên con trai học trường Tây hay kênh kiệu,
tưởng mình 'ngon', thì anh hòa nhã, mềm mỏng, và khiêm nhường." (Tr.
233) "Anh tôi" học trường Tây mà tâm hồn lại không Tây chút nào, và
có bằng tú tài hai chương trình Việt, lên đại học theo ngành chăn nuôi. Sau
ngày đổi đời, thỉnh thoảng cũng vô rừng phụ làm rẫy. Anh giỏi tiếng Pháp như
giáo sư sinh ngữ, nên được mấy cậu em gọi là "pháp sư". Khi ở nhà,
sau khi con heo nái được nhảy nọc, tới ngày khai hoa nở nhụy, anh cùng một anh
bạn học được "mẹ tôi" triệu về, đỡ đẻ cho heo. Loay hoay làm sao
không biết mà "tôi" nghe "con em" kể lại, mẹ giận hai ông dữ
lắm, vì "… mẹ càm ràm, hai cái thằng quỷ, chút xíu nữa là làm chết ngộp
hết cả đám." (Tr. 119).
"Anh tôi" đã ngoài hai mươi, nhưng vẫn chưa thấy
có bạn gái. Chợt, lần nọ, tin như sét đánh ngang tai: "Tuy nhiên tới
lúc mấy thằng em tôi khám phá ra ông anh quen với một chị, thì thay vì vui vẻ
chúc mừng, lại hô hoán loạn cào cào châu chấu anh có người yêu như thể anh
đang… phạm tội gì tày đình. Ba thằng chấu đầu vào hoạnh họe ông anh tôi trong bầu
không khí vô cùng căng thẳng. Chắc có lẽ còn căng thẳng hơn cả một buổi kiểm điểm,
oánh giá công tác …" (Tr. 230) Người con gái mà anh để ý là một chị
"mỏng lét" cũng như anh. Chuyện tình "mỏng lét" giữa
hai thanh nam thanh nữ "mỏng lét" trong thời buổi cũng "mỏng
lét" miếng ăn và tình người dưới chế độ "xã nghĩa".
Ngòi bút Hoàng Nga thuật chuyện người sau ngày đổi đời cũng
thú vị từng câu từng chữ như khi thuật chuyện gia cầm, gia súc. Chuyện "mẹ
tôi" nuôi con heo nái, cho nhảy nọc, sản xuất ra một bầy con, bán kiếm tiền
mưu sinh. Chuyện mấy "thằng em" mua trứng vịt lộn về cho con gà mái ấp,
nở ra con, đem ra chợ bán. Và chuyện chó:
"Con chó nhà tôi là con Bi Lèm. Đúng ra nó chỉ được
đặt tên Bi, nhưng chẳng biết sao lại thành ra Bi… Lèm. Có thể do thằng em kế út
của tôi là chuyên viên sáng tác và xuyên tạc chữ nghĩa đã 'sáng tạo' ra." (Tr.
140).
Theo lời tác giả, thì Bi Lèm thuộc loại "con chó trời bắt
xấu". Bi Lèm không xấu thường, mà xấu hoắc. Lần đầu thấy nó:
"Ông anh bèn rụt rè an ủi:
- Nó… ngó vậy chớ khôn lắm.
Ngó vậy, nghĩa là con Bi Lèm không bảnh trai đã đành mà
còn phải kể là xấu. Mặc dầu tôi không nhớ khi còn bé nó xấu như thế nào, nhưng
lớn lên, con Bi Lèm… xấu thiệt. Nó lùn tẹt. Lông vàng không ra vàng, nâu không
ra nâu. Cái đuôi ngắn, ở khúc giữa lại phình ra một cách hơi kỳ quặc như thể
cái ống cao su bị phơi dưới trời nắng hoặc bị đặt gần nơi nào đó có nhiệt độ
quá nóng, nên trương phồng lên. Nhưng phải nói tới cái mặt nó mới là… thôi rồi!
Vì dung nhan con Bi Lèm sầu đời vô kể …" (Tr. 142).
Con Bi Lèm không những vừa xấu dáng mà còn xấu nết, vì một
sáng nọ nó dính phải tội hình sự: "Ăn vụng hai miếng đường tán!" Lần
đầu nó được tha bổng. Sang ngày hôm sau, lại bị bắt tại trận "nằm gác mặt
lên hai chân, mắt ngó chăm bẳm vào… hai cục đường ở đàng trước mặt." (Tr.
145) "Tôi" và "con em tôi" nghiến răng lên án kẻ ăn vụng và
đang dự thảo bản án trị tội con Bi Lèm, chợt:
"Nhưng thình lình con em tôi bỗng la lên:
- Mà coi nè, cái cửa tủ còn đóng chặt như vầy sao nó lôi
hai cục đường ra được?
…
Tôi ngớ ra, nhưng chưa kịp nghĩ ra điều gì, em tôi đã bật
cười lên khanh khách:
- Thấy mồ rồi. Như vậy chắc chắn là con Bi Lèm chui qua
nhà bà Hai chôm về rồi …" (Tr. 146-147)
Vụ án "Con Bi Lèm và hai cục đường tán" kết thúc ở
đây. Bị cáo là con Bi Lèm được nhà nước khoan hồng, tuyên bố tha bổng và có lẽ
sau đó còn được tuyên dương công trạng bằng một miếng thịt mỡ trong chén cơm
trưa ấy.
*
"Rừng Núi Bạt Ngàn" của Hoàng Nga không phải
là một tiểu thuyết với những nhân vật và những tình tiết hư cấu, thắt nút mở
nút, kết cuộc có hậu, mà là một tự truyện về hoàn cảnh, vừa bi vừa hài, của một
gia đình trung lưu miền Trung trong thời bao cấp sau biến cố 1975. Không có một
thông điệp to tát nào ẩn náu giữa những dòng chữ. Không thấy ẩn dụ một
"triết lý" hiện sinh hay một "nhân sinh quan" thời thượng
nào. Hoàng Nga chắc hẳn không có những tham vọng ấy khi viết quyển tự truyện
dài hơi này. Cô chỉ muốn kể cho độc giả nghe những chuyện thật của những nhân vật
thật, bằng thứ văn phong cà rỡn, nhiều khi nghịch ngợm, thỉnh thoảng lãng mạn sa
đà tựa như dòng tâm tư dạt dào cảm xúc của một thiếu nữ mười tám. Cô gái ấy yêu
thơ văn, thích làm thơ, dễ cười dễ khóc, hay làm dáng, thường hay xúc động vu
vơ vì một tiếng đàn, giọng hát của chàng trai hàng xóm hay những lời hỏi han ân
cần của người bạn ông anh. Và nhất là, để cô viết cho chúng ta đọc về những người
thân yêu trong gia đình cô.
Nói theo ngôn ngữ đại chúng, thì "Rừng Núi Bạt
Ngàn" là chuỗi cười thay cho "những tiếng khóc khô không lệ".
Truyện được kết thúc như sau:
"Tôi giã từ rừng núi bạt ngàn. Không lời từ biệt.
Không bao giờ thấy lại con đường đất đỏ dẫn vào nơi ấy, không hề gặp lại Hai Xồi,
Bảy Cúc, 'đại úy' Kè. Đoạn đời làm dân sơn cước khép lại. Tôi nghĩ giá mà được
như hai câu thơ của mẹ tôi:
Những bước thăng trầm xin trả lại,
Cho trời mây nước…, chỉ còn thơ.
…
Cuộc sống của chúng tôi chuyển sang hướng khác. Không còn
vào rừng rẫy nhưng không có nghĩa đường đời rộng mở ra trước mắt. Không tương
lai bừng sáng như những cái happy ending, kết thúc có hậu giống cải lương, hay
phim Hàn quốc ngày nay.
Mà chúng tôi bước vào những cánh rừng khác. U ám. Bạt
ngàn. Bạt ngàn những gian dối, tham lam và cạnh tranh. Nơi có những gương mặt
chỉ toát ra vẻ bần tiện, những cái đầu chỉ nói ra những điều ngu si, đần độn,
và trái tim chỉ hiện ra sự thù hằn, ngờ vực.
Cuộc sống ở nơi ấy vẫn tối đen và buồn thảm không khác gì
cảnh rừng chúng tôi bỏ lại sau lưng …" (Tr. 313-314)
Ngô Nguyên Dũng
(11.2021)