Ông Ted Osius, cựu Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam từ năm 2014 đến
2017, sắp cho phát hành cuốn hồi ký mang tên: “Nothing is Impossible:
America’s Reconciliation with Vietnam”. Tạm dịch: “Không gì là không
thể: Chuyện Hòa Giải của Hoa Kỳ với Việt Nam”.
Trong cuốn sách này, ông kể lại một sự kiện mà ông cho là “kỳ quặc”, nằm ngoài sự chuẩn bị của ông trong 30 năm làm ngoại giao. Ngày 31/5/2017, ông Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tới thăm tòa Bạch Ốc. Khi đó ông Donald Trump mới nhậm chức Tổng Thống được vài tháng. Khi ông tới phòng Bầu Dục, tướng HR McMaster, lúc đó là cố vấn an ninh quốc gia, giới thiệu ông với Tổng Thống Trump. Ông Trump đưa ra lời khen về công việc của ông Ted Osius tại Việt Nam rồi hỏi: “Vậy hôm nay chúng ta gặp ai đây?”. Tướng McMaster trả lời: “Thủ Tướng Việt Nam”. Ông Trump hỏi: “Ông ấy tên là gì?”. Một nhân viên trả lời: “Nguyễn Xuân Phúc. Theo vần ‘book’”. Ông Trump hỏi lại: “Ý ông nói là Fook You?”. Rồi ông Trump nói tiếp là ông từng biết một người tên Fook You. Ông kể: “Thật đấy. Tôi cho ông ấy thuê một nhà hàng. Khi ông ấy nhấc điện thoại lên, ông ấy trả lời ‘Fook You’. Việc kinh doanh của ông ấy trở nên tệ hại. Mọi người không thích nó. Ông ấy mất nhà hàng”. Bài viết về chuyện này trên đài VOA cũng nhắc lại chuyện ông Trump thăm Việt Nam vào tháng 11 cùng năm: “Một văn bản bài phát biểu tổng kết chuyến thăm của ông Trump tới Việt Nam hồi tháng 11 năm đó được Nhà Trắng công bố cũng đã viết tên ông Phúc thành “Fook”, được cho là nhắm mục đích để giúp Tổng Thống phát âm tên của Thủ Tướng Việt Nam. Tên của ông Phúc từng là chủ đề bàn tán trên mạng xã hội vì, trong tiếng Anh, có thể bị đọc nhầm thành một từ có nghĩa thô tục”.
Không may cho ông Phúc là ông tới tòa Bạch Ốc vào đúng nhiệm
kỳ của ông Trump, một người rất hồn nhiên, giữ chức vụ lớn nhưng muốn nói chi
thì nói. Nhưng cũng may cho ông Phúc khi ông không phải là một di dân gốc Việt
tại Mỹ. Cái tên “Phúc” của những di dân người Việt là một nỗi khổ tâm. Phúc
trong tiếng Việt là một điều rất tốt đẹp, các bậc cha mẹ thường gửi phúc cho
con khi đặt tên cho đứa bé mới ra đời. Họ chỉ không là thầy bói nên không biết
trước được có ngày đứa con sẽ phải lưu lạc qua Mỹ để khổ vì cái tên.
Tháng 6 năm 2020 đã xảy ra một vụ lùm xùm trên Twitter về
cái tên Phúc của cô sinh viên Phúc Bùi, đang theo học tại Đại học Laney,
California. Trên tài khoản Twitter @aybarlyy đã đăng một số ảnh chụp màn hình
e-mail trao đổi giữa Giáo sư Matthew Hubbard và cô sinh viên Phuc Bui Diem
Nguyen, viết tắt là Phúc Bùi. Ông Giáo sư Hubbard yêu cầu cô sinh viên “Anh
hóa” tên của cô vì cái tên Phúc Bùi khi đọc bằng tiếng Anh nghe có vẻ xúc phạm.
Đáp lại, cô Phúc Bùi nói rằng yêu cầu của Giáo sư Hubbard mang tính phân biệt đối
xử và cho biết sẽ khiếu nại nếu ông không gọi cô bằng tên khai sanh. Ngay sau
đó, Giáo sư Hubbard phản hồi bằng một e-mail. Ông cho rằng cái tên Phuc Bui khi
đọc bằng tiếng Anh sẽ nghe giống một từ mang ý nghĩa thô tục. Ông viết thêm: nếu
ông sống ở Việt Nam và tên của ông đọc bằng tiếng Việt cũng gây khó xử như vậy
thì ông sẽ đổi tên khác để tránh xấu hổ cho ông và người gọi tên ông. Ông nhắn
với cô sinh viên: “Tôi biết bạn bị xúc phạm nhưng bạn cần hiểu rằng tên của bạn
gây phản cảm trong ngôn ngữ của tôi”.
Cô Nguyễn Phúc Bùi Diễm không nhân nhượng. Cô cho biết sẽ gặp
Viện Trưởng của trường để trình bày vấn đề và nộp đơn khiếu nại. Ngày 18/6, Viện
Trưởng Tammeil Gilkerson đã thông báo đang xem xét vụ này và đã cho vị Giáo sư
lắm chuyện tạm nghỉ chờ điều tra. Ông Viện Trưởng viết trong thông báo chung
cho toàn thể giáo sư và sinh viên của trường như sau: “Tôi viết thông
báo này để cho mọi người hay là tôi vừa được biết về một cáo buộc trong một tin
nhắn kỳ thị và bài ngoại của một nhân viên giảng huấn trong trường của chúng ta
đối với một sinh viên về cách phát âm tên của họ. Tôi coi cáo buộc này là một
việc nghiêm trọng và đã tức khắc cho nhân viên giảng huấn này tạm nghỉ trong
khi điều tra. Trường Laney từ lâu là một thành phần và đồng thời lãnh đạo trong
cuộc tranh đấu cho công bằng xã hội và bình đẳng trong cộng đồng chúng ta.
Chúng ta cương quyết và công khai nhiệm vụ của chúng ta trong giáo dục, hỗ trợ
và tạo cảm hứng cho sinh viên để vượt trội trong một môi trường học tập hòa nhập
và phong phú bắt nguồn từ công bằng xã hội. Chúng ta muốn các sinh viên của
chúng ta cảm thấy yên tâm và biết rằng chúng ta vinh danh nguồn gốc, kinh nghiệm
và những gì làm nên sự riêng biệt của họ. Họ là tất cả tạo thành vẻ đẹp của trường
chúng ta”.
Việc lùm xùm này đã gây nên một làn sóng phẫn nộ trên các
trang mạng xã hội. Nhà văn Nguyễn Thanh Việt từng đoạt giải Pulitzer đã viết
trên trang Facebook coi đây là một vấn đề nghiêm trọng, gọi Giáo sư Hubbard là
“kẻ ngốc” và cho biết nhiều người Việt tại Mỹ hiểu nỗi đau khi bị chế giễu về
cái tên của mình. Ông viết tiếp: “Nếu những cái tên như Trump và
Schwarzenneger, Obama và Kissinger đã trở thành tên Mỹ thì toàn bộ tên Việt Nam
của chúng tôi, gồm Phúc Bùi, cũng có thể là tên Mỹ”.
Chúng ta
tạm thời quên cái tên Phúc rắc rối. Cái tên Bích cũng rắc rối không kém.
Bà Bích Minh Nguyễn, sanh năm 1974 tại Sài Gòn, di tản khi miền Nam bị Việt cộng
cưỡng chiếm. Sau thời gian ở các trại tị nạn Guam và Fort Chaffee, gia đình bà
định cư tại Grand Rapids, tiểu bang Michigan. Bà tốt nghiệp Master of
Fine Arts tại Đại học Michigan. Bà thành hôn với tiểu thuyết gia
Porter Shreve và có hai con. Cũng như chồng, bà là một nhà văn đã có ba cuốn tiểu
thuyết được xuất bản: Pioneer Girl, Short Girls và Stealing Buddha’s
Dinner. Cuốn Short Girls đã được giải American Book Award
năm 2010. Bà hiện là giáo sư tại hai trường đại học University of San
Francisco và University of Wisconsin-Madison.
Bích, phát âm theo tiếng Mỹ, trùng với chữ bitch, có nghĩa
là con điếm. Vậy thì số phận của cái tên đẹp đẽ này cũng giống như cái tên
Phúc. Bà có viết một bài khá dài về cái tên của bà, bài “America Ruined
My Name for Me” (Nước Mỹ khiến tôi hổ thẹn vì tên mình). “Tôi
không thể tách biệt cái tên Bích khỏi những người đã cười cợt tôi, gọi tôi là
con đĩ (bitch), thông báo rằng chính tôi là thứ gây cười trong trò đùa mang
chính tên tôi. Đừng bao giờ thay tên đổi danh, mọi người vẫn hoài bảo tôi. Có
người còn quả quyết họ thích tên tôi: Bich, một cái tên đậm chất Việt Nam, được
đặt cho tôi tại Sài Gòn, nơi tôi sinh ra và nơi mà cái tên này là vô cùng bình
thường. Khi đặt tên tôi, gia đình tôi không hề hay biết chỉ tám tháng sau,
chúng tôi sẽ thành người tị nạn, và rằng tôi sẽ trưởng thành tại phía tây
Michigan những năm 1980, một nơi bảo thủ và đông người da trắng với nhiều bạn nữ
mang tên Jennifer, Amy, và Stacy. Một cái tên như Bích (phát âm “Bic”) không chỉ
khiến tôi nổi bật - nó khiến sự tồn tại của tôi lộ liễu đến khốn đốn. “Tên bạn
là gì cơ?”, người ta thường hỏi. “Đánh vần như thế nào?”. Thỉnh thoảng họ còn
cười thẳng vào mặt tôi. “Chắc bạn cũng biết tên bạn nhìn giống từ gì ha? Ba mẹ
thực sự đặt tên bạn vậy luôn sao?”.
Cái tên hay ho theo nghĩa tiếng Việt bị chế giễu bởi những
cái miệng phát âm theo tiếng Mỹ. Thậm chí họ chế giễu ngay trước mặt con trai
bà. “Một lần, tại cửa hàng với một đứa con của tôi, tôi đã phải trình bằng
lái xe của mình. Người phụ nữ đứng sau quầy bắt đầu cười. "Đó thực sự là
tên của chị à?" cô ấy hỏi. Tôi nghĩ rằng bản thân trước đây của tôi sẽ cười
theo để tránh gây khó chịu. Tôi đã quá quen xin lỗi và nói, "Ừ, quả là một
cái tên khó khăn." Nhưng con tôi đang ngay cạnh, vì vậy tôi nhìn chằm chằm
vào người phụ nữ đó cho đến khi cô ấy cảm thấy khó chịu. Khi chúng tôi rời tiệm,
con tôi nói với tôi rằng, “Cô kia đã chế nhạo tên của mẹ. Thật xấu tính”.
Dưới áp lực của cuộc sống tại một nơi mà cái tên luôn bị cười
cợt thô lỗ, bà Bích Minh Nguyễn đã phải đầu hàng, đổi Bích thành Beth. Không chủ
tâm nhưng phải chấp nhận.“Đó là một nghịch lý: những người khiến tôi không
thoải mái với cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình cũng nghĩ rằng tôi đang phản bội
dòng máu của mình nếu đổi tên. Điều tôi luôn muốn là điều tôi không thể có được:
trở nên không tên, không còn bị dòm ngó. Tôi luôn lấy tên giả tại các nhà hàng,
thường là Rose, Sophia hoặc Beatrice. Một ngày nọ, cách đây vài năm, tại tiệm
ăn Shake Shack ở Công viên Quảng trường Madison, một người phụ nữ đứng sau quầy
lấy giấy đặt chỗ của tôi và hỏi câu hỏi đáng sợ về tên của tôi, và tôi trả lời,
"Beth." Cô ấy gật đầu. Cô ấy không nghi ngờ câu trả lời của tôi. Và,
trong khoảnh khắc đó, cảm giác như thật: Tôi không chỉ nói tôi là Beth — tôi
chính là Beth. Vì vậy, tôi bắt đầu dùng tên đó nhiều hơn. Đối với nhân viên bán
hàng. Với người trông trẻ, thợ điện, người quen mới, đồng nghiệp mới. Tôi gọi
tôi là Beth, với một niềm vui nho nhỏ, như luồng khí mát phả ra từ tủ lạnh
trong một ngày nắng nóng. Như một danh tính bí mật. Như một cuộc sống khác.
Beth là một thí nghiệm xã hội, một giả thuyết rằng cuộc sống ở Mỹ dễ dàng hơn với
một cái tên mà không ai gọi sai bao giờ. Và đó là sự thật. Người ta xem tôi là
người châu Á ít hơn và người Mỹ nhiều hơn với cái tên Beth. Trải qua sự khác biệt
đó, nhìn thoáng qua một chút hiểm họa da vàng đó, thật sâu sắc và đau lòng. Khi
tôi là Bích, tôi là người ngoại quốc khiến mọi người bất an. Là Beth, tôi không
bao giờ được khen ngợi về trình độ tiếng Anh của mình. Những người bạn thân nhất
của tôi đã tự động chấp nhận cái tên này. Những người khác tỏ ra ngạc nhiên và
không bằng lòng”.
Không chỉ hai cái tên Phúc và Bích, nhiều tên tiếng Việt
khác cũng chịu nạn. Tên Phát bị lộn với fart (trung tiện), Hoàng lộn với wank
(thủ dâm), Bình lộn với bin (thùng rác), Đức lộn với duck (con vịt), Loan lộn với
loan (nợ), Đài hay Đại lộn với die (chết), Cao lộn với cow (bò cái). Còn một
cái tên bị thương khó nữa là tên Dung hay Dũng bị lộn với dung (phân). Nếu lại
có cái tên kép đẹp đẽ như “Mỹ Dung” còn mệt hơn nữa: xác nhận đó là thứ chất thải
của mình (my dung)!
Trở lại chuyện của chúng ta, chuyện “phắc”. Một sáng sớm,
ông Võ Kỳ Điền điện thoại cho tôi. Ông vừa đọc xong bản tin của đài VOA về chuyện
ông Phúc và ông Trump và không kiềm lòng được nên vội gọi ngay cho tôi. Ông cắc
cớ hỏi tôi: “Trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước đây có khẩu lệnh “Vào Hàng!
Phắc!”. Tiếng “Phắc” đó từ đâu mà ra?”. Tôi cũng như ông nhà văn họ Võ, chỉ là
thứ lính 9 tuần, đâu có biết chi nhiều. Mà trong quân trường Quang Trung hồi
đó, có bao giờ tôi nghe khẩu lệnh này hay không, tôi không nhớ rõ. Mầy mò tìm
kiếm, tôi mới biết, chẳng hiểu có đúng không, đây là khẩu lệnh từ thời quân đội
Pháp. Đó là: “À vos rangs, fixe!”. Dịch ra tiếng Việt : “Vào Hàng!
Nghiêm!”. Nhưng không biết sao, khẩu lệnh này lại chỉ được dịch có một nửa, nửa
cuối vẫn giữ tiếng Pháp. Fixe vẫn là…phích. Rồi không hiểu sao, biến thành “phắc”!
Quân đội Pháp có huấn thị số 201710/DEF/SGA/DFP/FM/1 về khẩu
lệnh này như sau:“Khi một sĩ quan cấp tướng hoặc sĩ quan chỉ huy đơn vị mặc
quân phục đi vào một phòng ốc, quân nhân đầu tiên nhìn thấy sẽ hô khẩu lệnh:“À
vos rangs, fixe!”.Khi nghe khẩu lệnh, mọi quân nhân trong phòng sẽ đứng dậy,
giữ im lặng trong tư thế nghiêm cho tới khi vị khách ra lệnh: “Repos!” (Nghỉ).
Khi vị khách rời phòng, khẩu lệnh sẽ là:“Garde à vous!”.
Thiếu Tá Lê Hằng Minh và Đại Tá cố vấn Thomas E. Campbell
tại buổi tiệc mừng chiến thắng của Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, tháng 3/1966. |
Tác giả
Mũ Xanh Sàigòn đã dẫn theo hồi ký của Đại Tá Thomas E. Campbell, nói về một buổi
tiệc mừng chiến thắng của Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên, Thủy Quân Lục Chiến, vào tháng
3 năm 1966 tại hậu cứ Thủ Đức. Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Hằng Minh. “
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn giữ một ít truyền thống cũ của quân đội Pháp, họ
thường mang huy chương khi mặc chiến phục rằn ri. Trên ngực của thiếu tá Minh đỏ
chói và lấp lánh ba hàng huy chương, Thượng sĩ Chơn cũng vậy. Chúng tôi cùng đi
đến hội trường để dự tiệc khao quân. Dáng đi của Minh theo kiểu đi diễn hành của
quân đội Pháp, đầu ngẩng lên, chân rảo bước, ngang qua sân tập cơ bản thao diễn
của tiểu đoàn, hướng về hội trường rộng lớn, lợp bằng những tấm “tôle”, được
các cây dừa có tàn lá rậm rạp che mát, nằm về hướng Đông của doanh trại. Có tiếng
hô lớn: “Vào hàng…Phắc!”. Khoảng 500 quân nhân đầu để trần, đứng trong tư thế
nghiêm dọc theo hai bên các dãy bàn dài, chứa đầy những chai bia và nước ngọt.
Không khí yên lặng khi Thiếu tá Minh bước vào hội trường ung dung tiến đến bàn
phía trước, nơi đang có quí vị như Đại úy Tiểu đoàn phó, Sĩ quan hành quân huấn
luyện, năm Đại đội trưởng, hai Cố vấn là Big John và tôi”.
Vậy là ít nhất, tới năm 1966, khi cấp tiểu đoàn của quân đội
Việt Nam đã có các cố vấn Mỹ, khẩu lệnh “Vào Hàng! Phắc” vẫn còn được dùng.
Trong buổi tiệc mừng chiến thắng này, người được đón tiếp là Thiếu Tá Tiểu Đoàn
Trưởng, hai cố vấn Mỹ chỉ đi theo. Tôi không được đọc cuốn hồi ký“My
War…Vietnam” của đại Tá Thomas E. Campbell nên không biết ông có suy
nghĩ chi khi nghe khẩu lệnh có chữ “phắc” này hay không. Theo tôi nghĩ, các cố
vấn Mỹ chắc phải thắc mắc. Giả dụ khẩu lệnh “Vào Hàng! Phắc!” được hô khi đón
riêng cố vấn Mỹ, có thể sẽ xảy ra chuyện hiểu lầm tai hại.
Chữ “phắc” tưởng chỉ gây ra chuyện cho những người mang tên
Phúc trên đất Mỹ, hóa ra cũng có thể gây nên chuyện cho sĩ quan Mỹ trên đất Việt.
Kể ra cũng là có đi có lại, còn toại lòng nhau hay không là chuyện khác!
11/2021
Song Thao