(Viết tặng những giai nhân trường Nữ, và để tưởng nhớ
một người...)
Đem cây si trồng trước sân trường Nữ”
Nhờ bài thơ với bốn câu mở đầu không đâu vào đâu này, tôi bất
ngờ nhận được điện thư của một người có tên Van Loubet từ một nơi nào đó gởi ngợi
khen và hỏi tôi có phải là cậu bé nhà quê ngày xưa vào Nha Trang, có thời trọ học
ở một con hẻm lớn trên đường Phương Sài. Tôi khá ngạc nhiên, vì bài thơ tôi viết
vội chỉ để gởi đăng trên Đặc San Võ Tánh&Nữ Trung Học Nha Trang (*),
nhân dịp đại hội cựu học sinh hai ngôi trường này tổ chức tại Houston hơn hai
năm trước đó, mùa hè năm 2005; và cái tên người gởi, Van Loubet rất xa lạ, có
thể chỉ là một nick- name, không phải tên thật. Thấy một số chi tiết trên mẫu
điện thư ghi bằng tiếng Pháp, tôi tò mò, tìm hiểu cái họ Loubet, được biết đó
là họ của ông Émile Loubet, thủ tướng thứ 45 của nước Pháp và sau đó trở thành
tổng thống (năm 1906)! Tôi giật mình, làm sao tôi có thể quen biết với một người
thuộc “danh gia vọng tộc” tận bên trời Tây?
Hồi âm và hồi hộp đợi chờ. Mãi đến hai hôm sau, nhận được thư trả lời, tôi mới vỡ lẽ, nhưng rồi lại có thêm nhiều điều ngạc nhiên khác. Người viết thư cho tôi là chị Bích Vân, bà chị cả của “O Huế” trong bài thơ tôi viết. Chị sang Pháp vào những ngày Sài Gòn trong cơn hấp hối, và bảy năm sau, lập gia đình với một người Pháp có dòng họ với ông tổng thống từ năm 1906 này. Chị cho tôi biết đã vô tình đọc được bài thơ “O Huế Ngày Xưa” của tôi trên diễn đàn của trường Đồng Khánh, mà chị là một thành viên. Trước khi chuyển vào trường Võ Tánh-Nha Trang, chị vốn là một nữ sinh Đồng Khánh. Sau đó chị thử vào Google gõ tên tôi thì tìm ra cả trang Web, có cả địa chỉ email của tôi trong đó. Chị còn bảo, sở dĩ chị đoán ra tôi một phần là do nội dung bài thơ, phần khác chính là nhờ cái tên của tôi đã làm chị dễ nhớ. Điện thư chị viết khá dài, lại không có dấu nên khó đọc, nhiều chữ phải đoán mò. Tôi cố đọc đi đọc lại vài lần mong tìm xem có tín hiệu nào về “O Huế” của tôi, nhưng hoàn toàn không thấy. Phía dưới email, chị cho số điện thoại và dặn tôi gọi cho chị vào cuối tuần, khoảng sau bốn giờ chiều thứ bảy, để chị em tâm sự nhiều hơn.
Còn ba ngày nữa mới đến thứ bảy, nhưng ba
ngày với tôi bây giờ có cảm giác còn dài hơn ba tháng!
Ký ức đưa tôi quay trở về một thời xa lắm, khi thành phố Nha
Trang đang mở ra cho tôi cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Năm lớp đệ tứ,
tôi đang trọ học ở nhà ông chú, nằm góc đường Lê Lợi – Hoàng Tử Cảnh. Ngôi nhà
nằm ở một vị trí không thích hợp và cũng không đủ rộng cho việc kinh doanh, nên
phải bán đi để xây một ngôi nhà lớn hơn tại khu đất mới. Chú tôi phải
thuê tạm một căn phố gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái ở đầu đường Độc Lập để
làm văn phòng, rất bất tiện cho tôi trong việc ăn ở học hành. Tôi phải dọn lên ở
tạm nhà một người bạn thân của ba tôi, chú Thân Trọng Lý, trên một con hẻm lớn ở
đường Phương Sài, Phường Củi. Hẻm khá rộng, hầu hết nhà cửa đều rất khang trang,
yên tĩnh.
Khoảng hai tuần sau, một gia đình dọn đến thuê ngôi nhà lớn
nhất ở cuối con hẻm. Nhà có bảy người, ông bà chủ, bốn người con và một chị
giúp việc. Bà chị đầu, hai cậu con trai trạc tuổi tôi rồi đến cô gái út. Ông bố
là trung úy ngành Quân Cụ, từ xa thuyên chuyển đến làm Chỉ huy phó trại Quân Cụ,
nằm góc đường Phương Sài – Trần Quý Cáp. Trông tướng mạo oai phong nhưng ông rất
hiền từ. Cả hai ông bà rất mộ đạo Phật, ngày rằm nào cũng đi lễ chùa. Gia đình
gốc Huế, nhờ vậy, chỉ sau một thời gian, ông bố trở thành bạn đồng hương, đồng
đạo với chú Thân Trọng Lý, chủ nhà của tôi, một sĩ quan cơ khí Không quân, và
cũng là một Phật tử thuần thành. Vợ chú đã qua đời từ mấy năm trước, để lại cho
chú một đứa con trai khoảng 6, 7 tuổi. Chú Lý có họ Thân Trọng, một tộc họ nổi
tiếng ở Huế, nhưng lại được chôn nhau cắt rốn tại Vạn Giã, quê tôi. Bởi thân phụ
của chú từ Huế đến Vạn Giã làm ngành Hỏa Xa cho Pháp khi còn trai trẻ, lấy vợ rồi
lập nghiệp ở đây luôn. Gia đình này nổi tiếng giàu có nhất ở quê tôi lúc ấy.
Cùng ở quê vào trọ học với tôi có hai chị em, chị Thân Thị Hảo và anh Thân Trọng
Sỹ, cháu ruột, con ông anh cả của chú Lý, học ở Võ Tánh, trước tôi mấy lớp.
Tình bạn gốc Huế của hai ông chủ nhà đã bắc một nhịp cầu khá
thênh thang cho anh Thân Trọng Sỹ và tôi dễ dàng làm thân với bốn đứa con của
ông trung úy. Hai cậu con trai khá hiền lành và hai cô con gái cô nào cũng thùy
mị, xinh đẹp. Sau đó chị cả Bích Vân vào học đệ nhị trường Võ Tánh, cùng lớp với
anh Sỹ, còn cô út Bích Hà học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học vừa mới mở.
Hải và Sơn, hai anh con trai lại học bên trường bán công Lê Quí Đôn. Anh Sỹ may
mắn được học cùng lớp, nên ngày càng thân thiết với cô chị, còn tôi thì “phải
lòng” cô em, bởi giọng nói “rất Huế” nhỏ nhẹ dễ thương, đôi mắt nai tơ hiền
lành và nhất là mái tóc thề bay bay trong gió mỗi lần chúng tôi đạp xe song
song trên một đoạn đường dài trước khi rẽ về hai hướng để đến trường mỗi đứa.
Đều là Phật tử, nhưng anh Sỹ và tôi hiếm khi đi chùa. Vậy mà
từ ngày có gia đình Bích Hà, bọn tôi không bỏ sót ngày rằm nào. Ông bố thường
chở chú Lý cùng vợ và hai cô gái đến chùa bằng xe Jeep, còn anh Sỹ, tôi và hai anh
con trai thì đèo nhau trên hai chiếc xe đạp, chạy theo con đường tắt qua hướng
Mả Vòng. Chú Lý quen biết từ lâu với Thầy Trụ trì Chùa Hải Đức, nên tất cả
chúng tôi thường đi lễ ở chùa này, hơn nữa ở đây không đông đảo như bên chùa Tỉnh
Hội, chỉ cách đó vài trăm thước. Khi lạy Phật, bọn nhỏ thường quỳ sau mấy người
lớn. Tôi thường quỳ bên cạnh Bích Hà.Không biết nàng lâm râm khấn nguyện điều
gì, còn tôi thì chỉ xin đức Phật cho hai đứa được gần mãi bên nhau. Và dường
như từ nhỏ đến giờ, tôi chưa từng cầu xin đấng linh thiêng nào một cách thành
tâm như thế.
Khoảng sáu tháng sau, chú tôi đã xây xong ngôi nhà mới ở đầu
đường QL.1, nằm bên ngã tư Trần Quý Cáp, cạnh Ty Thông Tin. Ông đến nói chuyện
với chú Lý để đón tôi về, nhưng tôi năn nỉ quá nên được cho ở lại đến cuối niên
học. Sau này, mặc dù về ở nhà chú, nhưng sáng nào, tôi cũng đạp xe theo đường
Trần Quý Cáp và đợi ở góc đường Phương Sài, trước sân phòng mạch của Bác sĩ
Nguyễn Văn Tý để chờ Bích Hà, rồi chúng tôi cùng đạp xe song song trên những
con đường Gia Long, qua Ngã Sáu Nhà Thờ, đến Lê Thánh Tôn. “Hộ tống” nàng đến
trường Nữ, tôi mới rẽ sang đường khác để đến trường tôi. Đặc biệt, những ngày
trời mưa lớn, Bích Hà không đạp xe mà nhờ anh Hải chở đi. Lúc ấy tôi phải năn nỉ
“lấy lòng” thằng bạn, ông anh rất hiền lành của Bích Hà, cho tôi thay nó chở
nàng ở phía sau. Đạp xe dưới trời mưa gió lạnh mà tôi thấy cả người ấm lên và
mong sao con đường cứ dài thêm ra mãi.
Anh Sỹ và chị Bích Vân sau khi đậu Tú Tài 2, đều chuyển vào
Sài Gòn học tiếp. Và cuộc tình của hai người cũng kết thúc sớm, sau khi chị
Bích Vân được sang Pháp du học. Tôi có cảm giác họ chỉ là hai người bạn thân chứ
không hẳn là đôi tình nhân. Mặc dù tôi biết anh Sỹ rất mê chị Bích Vân, nhưng
tính tình hoàn toàn khác nhau. Anh Sỹ lúc nào cũng đùa cợt, vui vẻ hồn nhiên,
còn chị Bích Vân thì trầm lặng và sâu sắc.
Khi tôi vừa thi đỗ Tú Tài 1, Ba tôi từ quê nhân có việc gia
tộc, cần gặp chú tôi bàn bạc, nên đã vào Nha Trang khao mừng và đón tôi về quê
nghỉ hè với ông luôn. Khi ấy Bích Hà cũng vừa thi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp. Có
thể lúc này cả hai đứa tự xem mình đã là người lớn… hơn một chút. Trước khi về
quê nghỉ hè, tôi rủ Bích Hà đi ăn kem ở một tiệm bên cạnh rạp ciné Tân Tiến.
Tôi tặng một cây bút màu xanh khá đẹp, có khắc đậm bốn chữ “Hoàng Thị Bích
Hà”. Lần đầu tiên trong đời nắm tay một người con gái mà lòng thấy lâng
lâng, man mác buồn. Bởi “chỉ mới nắm tay em hôm nay mà đã nghĩ đến chia xa ngày
mai.” Lúc nói lời chia tay, cô bé không nhìn tôi, cúi xuống, giọt nước mắt tình
yêu đầu đời của tôi rơi xuống hai bàn tay nàng. Đọc trong sách, thấy người ta
thường nói đến giọt nước mắt hạnh phúc, nhưng với tôi thì dường như đó lại là dấu
hiệu của chia ly. Về quê chưa được hai tuần, tôi nhận thư của Bích Hà, bảo gia
đình sẽ phải chuyển vào Cần Thơ, vì ông bố được thăng cấp lên đại úy và không hợp
cung cách làm việc của vị chỉ huy trưởng, vả lại ông rất thích miền Tây sông nước,
nên xin thuyên chuyển về đây, giữ một chức vụ cao hơn. Cả nhà sẽ di chuyển
trong mùa hè này, bằng phi cơ quân sự, nhưng chưa biết ngày nào, có thể còn khá
lâu vì ba cô phải chờ người đến thay thế. Tôi viết thư, hứa nhất định sẽ trở lại
Nha Trang để tiễn Hà và gia đình. Nhưng rồi tôi đã không có cơ hội để thực hiện
được lời hứa này. Một hôm nhận được lá thư khác của Bích Hà, bảo là gia đình đã
đi Cần Thơ, vì bất ngờ, nên cô bé không hề biết trước. Khi tôi đọc được những
dòng chữ xinh xắn quen thuộc này, thì Bích Hà đã rời khỏi Nha Trang hơn một tuần
rồi! Bỗng dưng tôi thấy cả đất trời và mọi thứ chung quanh mình trở nên trống rỗng.
Chỉ còn có nỗi buồn đầy ắp trong lòng. Không ngờ chuyện tập tễnh yêu đương cứ
tưởng chỉ là ngây ngô vụng dại, vậy mà đã làm trái tim tôi nhói đau như thế. Mất
mẹ từ nhỏ, nên tôi rất gần gũi thân thiết với Ba tôi. Bất cứ điều gì tôi cũng
tâm sự, kể lể với ông, có khó khăn gì tôi đều tìm đến ông để được nghe ông giải
thích, chỉ dạy tận tình, nhưng lần này khi thấy tôi buồn, không còn đàn địch ca
hát líu lo như mọi ngày, ông dò hỏi, tôi chỉ vờ nhoẻn miệng cười, lảng sang
chuyện khác. Chẳng lẽ tôi lại ngu ngơ khai với ông rằng, thằng con yêu
quí của ông còn đang học hành, chưa kịp lớn mà đã biết si tình? Vả lại, chính cả
tôi cũng đang bâng khuâng không biết đó có phải thực sự là tình yêu hay không nữa!
Sau mùa hè, khi niên khóa mới sắp khai giảng, tôi khăn gói
trở lại Nha Trang, nhưng không còn cái háo hức của những năm tựu trường trước
đó. Thành phố biển xinh đẹp này với tôi bỗng dưng chẳng còn chút thơ mộng nào nữa.
Tôi đạp xe lên nhà chú Thân Trọng Lý và vội vã chạy sang nhìn ngôi nhà của Bích
Hà. Bây giờ đã có chủ mới, nhưng tôi vẫn cố ý kiếm tìm bởi cảm giác bóng dáng
Bích Hà vẫn còn thấp thoáng quanh đây, và tai tôi phảng phất dư âm giọng nói rất
Huế của nàng.
Tôi bắt đầu năm học mới với tâm trạng buồn và đầu óc mang
mang như thế!
Lớp Đệ Nhất C của tôi khai giảng đúng vào những ngày biến động
của chính trường miền Nam với liên tiếp những cuộc bãi khóa, biểu tình chống
chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng bù lại có thêm nhiều khuôn mặt mới,
đa số là những giai nhân đến từ các trường Pháp và một số trường tư thục sau
khi đã đậu Bac 1 hay Tú Tài 1. Lúc ấy Trường Nữ Trung Học Nha Trang vừa mới
thành lập, chưa có các lớp đệ nhất, nên các nữ sinh “được” tiếp tục ở lại học
chung với đám “ma quỷ” bọn tôi.
Thời ấy, nếu bên các lớp Đệ Nhất A, Nhất B có những
tên tuổi đình đám, nổi bật như Trần Xuân Hoa, Nguyễn Thị Danh, Tôn Nữ Ngọc
Hà, Thu “Mỹ Kim”, Phạm Phong Nhã…, thì bên Nhất C của bọn tôi vang lừng với
nhiều cái tên khác: Thúy Liệu, Minh Châu, Kim Anh, Kim Thoa, Túy Ngọc, Bạch
Lan, Như Bá…Bọn tôi cũng hãnh diện khi cùng lớp với mình có quá nhiều người
đẹp, nhưng như ông bà ta thường nói “ Bụt nhà không thiêng”, hơn nữa khi bằng tuổi
nhau, đám con gái có khuynh hướng nhìn lên, chứ chẳng mấy cô chịu nhìn ngang,
nhìn dọc, nên đa phần là hoa đã có chủ, vì vậy hầu hết đám con trai bọn tôi đều
đem cây si trồng bên trường Nữ, tìm đối tượng ở một vài lớp nhỏ hơn mình.
Thời ấy, nữ sinh bên Trường Nữ Trung Học, có lẽ nhờ qui tụ từ
khắp bốn phương nên hầu hết đều là những đóa hoa ngát hương, muôn màu muôn vẻ,
làm khốn khổ trái tim của biết bao anh hùng hào kiệt, đặc biệt những chàng Sinh
viên sĩ quan Hải Quân, Không Quân hào hoa từ khắp nơi tập họp về đây để sẵn
sàng quỳ gối trước một giai nhân trường Nữ, xin rước những “cánh hoa biển” hay
“cánh sao trời” về dinh để tự giam hãm cuộc đời mình.
Có rất nhiều cái tên vẫn luôn đi mãi cùng năm tháng. Riêng
tôi chỉ biết (trong hạn hẹp) một vài người: Mỵ Cơ, Hồng Nữ, Xuân Thùy, Quỳnh
Như Ý, Trung Thu, Bích Khuê, Như Ý (Thanh Cần), Lệ Son, Mỹ Hảo… Trong số những
giai nhân này có mấy nàng từng làm cho vài thằng bạn của tôi đã phải điêu đứng,
khốn khổ đến tự hủy hoại cả một đời. Riêng tôi, chỉ có duy nhất mỗi hình bóng
cô nữ sinh gốc Huế vừa mới giã biệt ngôi trường Nữ này, dù rất kín đáo, thầm lặng,
không có tên trong số những giai nhân ấy, nhưng đã đủ choáng ngợp tâm hồn tôi,
đã cho tôi cái cảm giác thế nào là “chết ở trong lòng một ít” của ông nhà thơ
Xuân Diệu, mà khi ấy tôi rất mê thơ của ông..
Bây giờ Sài Gòn - Cần Thơ trở nên xa cách muôn trùng, Bích
Hà và tôi chỉ liên lạc nhau qua thư từ, và cũng chỉ dám nói đôi điều đùa cợt vu
vơ, vì sợ ba, măng (mẹ) nàng kiểm soát. Ông bà không phải là người quá nghiêm
khắc, nhưng tất nhiên lúc nào cũng mong cô con gái út chăm chỉ học hành theo
chân bà chị cả Bích Vân.
Khi vào Sài gòn học thêm, tôi có rủ anh Sỹ đi Cần Thơ một
chuyến nhân dịp Tết Nguyên Đán. Ông bà cụ và cả nhà Bích Hà vui mừng đón tiếp
chúng tôi. Khi ấy chị Bích Vân còn ở bên Pháp. Ở đây chỉ có hai hôm, nên bọn
tôi không có nhiều thì giờ riêng tư. Buổi tối cuối cùng, ông bà cụ bảo các con
đưa bọn tôi đi bộ ra bến Ninh Kiều hóng gió và nhìn dòng sông Cần Thơ buổi tối
lung linh dưới ánh đèn. Trên đường về, tôi kéo tay Bích Hà đi lùi lại phía sau,
và bất ngờ hôn nhẹ lên má nàng. Đó cũng là nụ hôn đầu đời của tôi.
Tôi nhập ngũ khi Bích Hà vừa vào Đại Học Văn Khoa. Ra trường,
tôi được chuyển ra một đơn vị tác chiến lưu động, hành quân liên tục khắp Vùng
2 Chiến Thuật. Có khi buổi sáng còn ở Quảng Đức, Lâm Đồng, buổi chiều đã có mặt
ở Tuy Hòa, Phan Thiết. Có điều, đi đâu và lúc nào tôi cũng luôn mang theo bóng
dáng của Bích Hà. Sau mỗi cuộc hành quân tôi đều viết thư, nhưng hộp thư KBC lại
nằm ở hậu cứ tận Ban Mê Thuột, nên ba, bốn tháng ông thượng sĩ già bưu tín viên
mới có phương tiện mang thư ra đơn vị một lần. Sự liên lạc ngày một nhạt dần.
Sau đó không còn nhận được lá thư nào nữa của Bích Hà. Tôi hình dung Bích Hà
bây giờ không còn là cô học trò bé bỏng của trường Nữ ngày xưa nữa, đã qua rồi
cái thời mộng mơ, yêu đương khờ khạo. Một năm sau, tôi bị trọng thương ở chân
trái, trong một trận đánh phản phục kích ở ngã ba Dak-Song, Quảng Đức, phải nằm
nhà thương gần ba tháng. Rất may là không bị cưa chân. Những ngày nằm treo cái
chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh
rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ
còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường và ranh giới giữa sống-chết còn
mong manh hơn sợi tóc, thì đâu có dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu
khanh tướng.Tôi cố quên dần rồi mất hẳn liên lạc với Bích Hà.
Sau tháng 4/75, trong những tháng năm bị tù tội từ Nam ra Bắc,
tôi chỉ còn biết chút cảm giác của hạnh phúc khi mơ màng tìm về quá khứ, hình
dung lại thành phố Nha Trang xưa, thời tôi mới lớn, những ngày cắp sách đến trường
với từng khuôn mặt bạn bè vô tư trong sáng, nhìn đất trời và mọi người ai nấy
cũng hiền hậu dễ thương. Và từ trong ký ức ấy, hình ảnh của Bích Hà lúc nào
cũng hiện lên đậm nét. Tôi nghĩ Bích Hà đã lấy chồng và thầm cầu mong cho “O Huế”
của tôi sẽ luôn có tròn hạnh phúc. Một cô con gái xinh đẹp, hiền lành phúc hậu
như Bích Hà phải xứng đáng để được ông Trời dành cho vòng tay nâng niu, che chở,
yêu thương
***
Từ khi đọc được email của chị Bích Vân, tôi nao nức đợi chờ,
mong sớm đến chiều thứ bảy để gọi cho chị. Giọng nói của chị vẫn không hề thay
đổi, cho dù đã hơn 45 năm tôi mới có dịp nghe lại giọng nói nầy của chị. Ấm áp,
thân tình, làm tôi nhớ tới giọng nói của Bích Hà. Tôi thường trêu “cái giọng
Huế của bồ làm khổ tôi rồi, bồ nói mà sao cứ như ru hồn người ta!”
Bỗng tôi bàng hoàng khi chị im lặng một vài giây, rồi xuống
giọng như muốn nói nhỏ với riêng tôi“Bích Hà đã không còn trên cõi đời này nữa!
Bài thơ em viết chị đã đọc trước bàn thờ cho nó nghe trong ngày giỗ thứ 37 của
Bích Hà, đêm Giáng sinh tuần trước”.
“O Huế” của tôi đã lẳng lặng bỏ đi, chỉ sau một cơn nhồi máu
cơ tim. Bích Hà bất ngờ rời khỏi trần gian nhiều đớn đau phiền muộn này đúng
vào đêm Giáng Sinh năm 1970, chỉ sáu tháng sau khi tu nghiệp một năm từ Tân Tây
Lan trở về và dạy Anh văn cho một Trung Tâm Việt Mỹ. Hải, anh trai lớn của Bích
Hà, người bạn hiền lành tốt bụng của tôi ngày ấy, sau này trở thành sĩ quan
Pháo Binh và đã tử trận (mất xác) vào khoảng tháng 4 năm 1972 trong một trận
chiến đẫm máu tại khu vực Cần Lê, gần An Lộc. Liên tiếp hai năm phải chịu hai
cái tang con, mẹ của Bích Hà gần như kiệt sức, Bà cũng đã ra đi vào đầu năm
1975, sau một thời gian dài nằm trên giường bệnh, đúng vào lúc tình hình chiến
sự ở miền Nam trở nên tồi tệ nhất. Điều uớc mong một lần trở về Huế, thăm lại
quê hương, mồ mả mẹ cha, gia tộc, cuối cùng ông bà cũng không thực hiện được.
Nhờ giữ một chức vụ khá lớn trong Banque National De Paris
(BNP), ngân hàng lớn nhất của Pháp tại Sài Gòn lúc ấy, nên trước ngày 30 tháng
4/75 chị Bích Vân đưa được ông cụ và Sơn, anh trai kế của Bích Hà sang Pháp.
Ông cụ đã về hưu từ đầu năm 1970. Cũng kể từ đó ông bà dọn nhà về sống ở Sài
Gòn. Khi đến Pháp ông đã khá lớn tuổi, cộng thêm nỗi buồn mất vợ, hai con và mất
cả quê hương, ông trở nên trầm cảm, mất dần trí nhớ, rồi qua đời không lâu sau
đó. Sơn thì kết hôn với cô bạn cũ, vượt biên cùng gia đình sang Úc, nên chàng
ta cũng đã chọn Úc là quê hương cuối của đời mình. Riêng chị Bích Vân, lúc còn ở
Sài Gòn, cũng vì hai cái tang em và gánh nặng phải lo toan cho bệnh tình của mẹ,
tuổi già của cha, chị đã không lập gia đình. Mãi sau này, khi sang Pháp được bảy
năm, chị mới kết hôn với một người Pháp, là bạn cũ của chị khi hai người cùng
theo học ở Hautes Etudes Commerciales (HEC) Paris, từ những năm đầu thập niên
1960. Anh ta đã ly dị với người vợ trước và có một cô con gái.
Tối hôm ấy, khi được nói chuyện khá lâu với chị Bích Vân qua
điện thoại, nghe tâm tình của chị, tôi có cảm giác những mất mát lớn lao của chị
cũng là nỗi mất mát, đau đớn của chính tôi. Tôi trách ông Trời sao nỡ bất công
với những con người phúc hậu dễ thương như ông bà cụ, như bạn Hải, và nhất là
“O Huế” của tôi xưa.
Tôi đốt ba nén nhang, mở cửa bước ra balcon. NaUy đang mùa
đông, tuyết rơi trắng xóa, trời đất và cả trong lòng tôi cũng ngập đầy băng
giá. Hướng về phương Đông, tôi cầu nguyện và cám ơn Bích Hà đã để lại trong tôi
hình bóng đẹp đẽ cùng giọng Huế dễ thương nhất của nàng.
***
Mùa Hè năm 2009, vợ chồng đứa con trai lớn mua vé rủ chúng
tôi cùng đi tour năm ngày sang Nice, một thành phố biển nổi tiếng ở miền Nam nước
Pháp. Tôi hăm hở nhận lời, mặc dù tôi đã từng đến đây vài lần rồi, nhưng vì biết
chị Bích Vân đang sống ở đây, và tôi mong muốn có cơ hội được gặp lại chị. Chị
rất vui mừng khi nghe tôi gọi, báo cho chị biết là chúng tôi đang có mặt tại
Nice, và chỉ còn ở đây ba hôm nữa. Chị hỏi tên khách sạn chúng tôi ở và bảo là
mười giờ sáng ngày mai anh chị sẽ lái xe đến đón. Nhà chị ở không xa lắm, khoảng
một tiếng đồng hồ lái xe. Bà xã và đám con cháu tiếc nếu phải bỏ một tour du
thuyền đến Monaco, nên chỉ có mình tôi nhận lời.
Anh chị ở trong ngôi nhà cổ, khá rộng. Đặc biệt anh chồng
nói được tiếng Việt, dù không thạo lắm. Tóc của chị đã hoa râm, nhưng vẫn còn
nguyên mái tóc thề ngày trước, khuôn mặt vẫn đầy đặn hồng hào và cả dáng dấp của
chị vẫn phảng phất nét xinh đẹp, thanh lịch một thời. Sau khi ăn trưa bằng món
bún bò Huế do chính chị nấu sẵn, tôi theo chị lên tầng trên. Nguyên một căn
phòng lớn dùng để thờ Phật, nơi chị tụng kinh niệm Phật mỗi ngày, và một bàn thờ
phía sau dành cho những người thân quá cố. Thoáng nhìn bốn tấm ảnh phóng lớn có
cùng một kiểu khung trên bàn thờ, tôi nhận ra Bích Hà. Vẫn khuôn mặt khả ái,
đôi mắt hiền từ ngày nào, đặc biệt với cái miệng rất duyên. Tôi xin phép thắp mấy
nén hương. Đứng trước bàn thờ, lâm râm vài lời trong niềm xúc động. Nhìn thật
lâu vào đôi mắt của Bích Hà, tôi có cảm giác như nàng đang nhìn tôi mỉm cười,
tai tôi văng vẳng một giọng Huế rất dễ thương, quen thuộc một thời.
Trước khi đưa tôi về lại khách sạn, chị Bích Vân nhắc tới
anh Thân Trọng Sỹ. Tôi cho biết là sau khi tốt nghiệp ở trường Luật, anh Sỹ được
thực tập tại văn phòng một vị luật sư lớn tuổi, cũng là cậu họ của anh, nhưng
chỉ một thời gian sau thì anh bị động viên vào Thủ Đức. Anh được chọn về phục vụ
trong Ngành Quân Pháp. Lương ba cọc ba đồng và đời sống quân ngũ dường như
không thích hợp, nên sau đó anh thi vào Khóa 1 Tham Vụ Ngân Hàng và ra làm Phó
Giám Đốc, rồi sau đó là Giám đốc Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp Châu Đốc cho
đến ngày mất nước. Anh vượt biển khi tôi còn đang ở trong tù, được tàu Nhật vớt
nên phải sang Nhật định cư một thời gian, rồi chán nản quá nên anh xin sang Mỹ.
Trải qua nhiều khó khăn mới được Cơ quan Di Trú Mỹ chấp nhận. Hiện anh sống ở
San Jose. Có điều, không biết có phải thất tình ai đó mà anh không chịu lấy vợ.
Mãi một lần về Việt Nam thăm gia đình, bị bà già la quá, hối phải lập gia đình
để bà có cháu nội mà an lòng nhắm mắt. Sau đó, khi xuống Châu Đốc tìm thăm lại
những nhân viên ngân hàng cũ của mình, anh làm đám cưới luôn với cô thư ký ngày
xưa, vẫn ở vậy chưa chồng. Nghe nói lúc trước dường như hai người từng đã có
tình ý với nhau. Lúc đám cưới anh đã gần năm mươi, nhưng may mắn hai vợ chồng
có được một cháu trai. Cha già con mọn. Mỗi lần nói chuyện với tôi anh cứ than
“lỡ nay mai tao đi sớm thì không biết ai lo cho thằng bé.” Nhưng chị vợ là người
hiền hậu đảm đang, và bây giờ cháu cũng vừa lên High School rồi!
Để làm vơi đi không khí buồn bã, tôi trêu chị:
-Ngày xưa chị đẹp quá chừng. Em nghĩ là anh Sỹ si tình, chắc
đã hứa cả một đời tôn thờ hình bóng chị. Sau ngày chị đi du học, anh ấy bắt đầu
sống bất cần đời. Chị có nghĩ vì vậy mà anh ấy không chịu lấy vợ không?
Chị nở một nụ cười thật tươi. Lắc đầu.
***
Khi tôi ngồi viết lại những dòng này thì chị Bích Vân đã
không còn trên cõi đời này nữa. Chị không có con, anh chồng tốt bụng thì cũng
đã khá già, nhưng còn có đứa con gái riêng lo lắng cho anh. Tôi hình dung đến
cái bàn thờ, có di ảnh Bích Hà trên đó. Không biết bây giờ ra sao, có ai thắp
cho nàng một nén hương mỗi ngày và gõ cho nàng một hồi chuông vào tối những
ngày rằm.Riêng tôi, nén hương đặc biệt ấy vẫn được đốt cháy mãi trong lòng
mình.
Anh Thân Trọng Sỹ thì cũng vừa ra đi năm ngoái, sau một thời
gian dài bị tai biến mạch máu não, và sống cả một cuộc đời vô ưu, thanh bạch.
Anh mất âm thầm trong mùa dịch Covid-19, nên tang lễ chỉ tổ chức rất hạn hẹp
trong gia đình. Tôi lại thêm một lần nữa nợ anh. Không có mặt để xin lỗi anh
nhiều điều, và tiễn anh rời xa nhân thế. Anh ra đi bỏ lại người vợ hiền và đứa
con mới chập chững vào đời. Anh cũng bỏ lại biết bao kỷ niệm buồn vui của hai
anh em tôi, một thời đẹp đẽ nhất của Nha Trang. Cầu nguyện hồn anh được thanh
thản, và ở một nơi xa xăm nào đó, nếu có dịp ngó lại trần gian này, xin anh vẫn
nở nụ cười bao dung vui vẻ như ngày nào, cho dù thế gian này đã không mấy sòng
phẳng với chính anh.
Cuối cùng, cũng sẽ đến lượt tôi. Rồi tất cả sẽ gặp lại nhau ở
một thế giới khác, bình yên, không còn chiến tranh,hận thù, khổ đau, chia lìa
mà chỉ còn có tình yêu thương miên viễn.
Phạm Tín An Ninh
(Giáng Sinh 2021- ngày giỗ thứ 51 của Bích Hà)
(*)Bài thơ “O Huế Ngày Xưa”:
https://phamtinanninh.com/?p=528