Hình một người nửa nam nửa nữ trên một bình gốm Hy Lạp cổ đại,
Wikipedia
1. Dẫn ngôn
Thần thoại Hy Lạp về người tri kỷ, hay về chuyện một con
người trở thành những con người và ngược lại
Người ta kể rằng vào thời hồng hoang, khi con người mới được
tạo ra, con người có hình dạng khác với người ngày nay. Trong “The Symposium:
Chuyện trà dư tửu hậu”, triết gia Platon mượn lời Aristophanes, một kịch tác
gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ, kể truyện về những người tri kỷ như sau:
“Theo thần thoại Hy Lạp, con người ban đầu mới được tạo ra, có bốn tay, bốn chân và một cái đầu với hai khuôn mặt. Thần Chủ tể Zeus/Jupiter thấy thế, đâm lo sợ về sức mạnh của họ, và để ngăn ngừa tai hoạ về sau, thần đã chẻ dọc con người thành hai phần, và bắt họ phải trọn đời tìm kiếm nửa-kia của mình.”
Quả thật, cũng theo thần thoại kể trên, trong Thiên nhiên có
ba giới tính: Đàn ông, đàn bà và androgynous: nghĩa đen là đàn ông+phụ nữ
hay là nửa nam nửa nữ, trong tiếng Hy Lạp.
Mỗi giới có hai bộ sinh dục, nghĩa là mỗi đàn ông có hai bộ
sinh dục đàn ông và mỗi đàn bà có hai bộ sinh dục đàn bà, nằm đối xứng hai bên
thân thể, trong khi người nửa nam nửa nữ có một bộ sinh dục nam ở một nửa dọc
thân thể cộng với một bộ sinh dục nữ nằm đối xứng ở nửa dọc thân bên kia.
Giới tính của con người có liên quan đến nguồn gốc của họ:
đàn ông là con của Mặt trời và đàn bà là con của Trái đất, trong khi androgynous
là con của Mặt trăng, được sinh ra từ sự hôn phối giữa Mặt trời và Trái đất.
Và đã có một thời con người là những sinh vật
rất mạnh mẽ, không hề biết sợ hãi, thậm chí còn dám đe dọa các vị thần. Họ đe dọa
sẽ đánh bại các thần và sẽ trở thành những vị thần mới, cai trị vũ trụ thay các
vị thần hiện tại. Vì vậy, các vị thần phải ra tay; các vị nghĩ cách đương đầu với
mối đe dọa của con người, và tính toán cần phải làm gì để khôi phục lại sự cân
bằng và hài hòa trên thế giới. Các thần tính tiêu diệt hoàn toàn con người bằng
cách gây ra chiến tranh chống lại con người, và nhân đó ra sấm ra sét giết sạch
con người, như các thần đã từng làm với các tiểu thần titan.
Nhưng rồi các thần nghĩ lại: nếu không còn người, thì lấy ai
mà dâng lễ vật cho các thần; các thần chẳng cảm thấy thích thú gì khi nhìn ra
cái hậu quả như thế. Vì vậy, thần Chủ tể Zeus/Jupiter đã đưa ra một giải pháp
khác: Các thần sẽ chẻ dọc con người ra làm đôi để trừng phạt con người vì cái tội
kiêu ngạo và ngang tàng. Ngoài chuyện các thần sẽ làm cho con ngườiđau đớn ra,
biện pháp này còn có cái lợi là sẽ làm tăng gấp đôi dân số loài người, do đó
nhân đôi những lễ vật mà con người phải dâng cho các thần. Nói là làm, và thế
là con người ở khắp mọi nơi đều bị chẻ dọc làm hai. Những sinh vật mới bị chẻ
này phải sống trong đau khổ tột cùng, cùng chìm ngập trong nỗi đau, nỗi buồn. Họ
đau buồn đến mức không ăn uống trong một thời gian dài, và họ nghĩ sống mà như
thế này, thì chết còn sướng hơn.
Thần Apollo là thần chữa bệnh, thần của âm nhạc, sự thật, sấm
ngôn và ánh sáng, khi nhìn thấy con người ra nông nỗi như thế, không thể chịu đựng
nổi, và vì vậy, để giảm bớt nỗi đau cho của những nửa người này, thần Apollo đã
khâu vá những chỗ bị cắt, chỉnh sửa lại hình dáng cơ thể của những nửa này cho
đàng hoàng, vuốt da ra cho thẳng thớm, trơn tru và túm da tại một nơi gọi là “rốn”.
Vì vậy, con người, đang từ những sinh vật có hai mặt và hai bộ sinh dục cùng giới
tính hay hai bộ sinh dục khác giới tính trong trường hợp người nửa nam nửa nữ,
và với tám chi gồm bốn tay và bốn chân, thành những sinh vật có một khuôn mặt
duy nhất của một giới tính duy nhất, và có bốn chi gồm hai tay, hai chân. Từ
đó, họ mãi mãi khao khát một nửa tâm hồn kia và nửa thể xác kia của mình. (Huyền
thoại này giải thích được cả chuyện đồng tính lẫn dị tính luyến ái.)
Thể chất của họ cảm thấy khao khát được hoàn thiện với thể
chất của nửa-kia: nửa dị giới hoặc nửa đồng giới, và tâm hồn của họ cũng khao
khát được nên một với nửa tâm hồn kia, tâm hồn tri kỷ. Và theo huyền thoại, hai
nửa này sẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, và khi gặp được nhau, họ
có linh cảm là họ có duyên nợ với nhau, họ muốn nên một với nhau, muốn sống
trên đời này với nhau, và cảm thấy không có gì sung sướng hơn thế.
2. Chính truyện*:
Hồi tôi mới bước vào tuổi thanh niên, mười tám đôi mươi,
trưa nắng tôi hay ngồi trước hiên nhà hóng mát, đánh đàn hát vu vơ và nhất là
ngắm các nàng người Chàm đi rẫy, đi rừng về trước nhà tôi. Có một cô người
Chàm, con bà Năm Chai, nàng hay ghé nhà tôi bán dầu chai, tức dầu rái, loại nhựa
cây để trét thuyền, múc từ những bọng dầu chai/rái được khoét nơi những cây dầu
chai/rái mà tổ tiên cô gái đã tự nhiên làm chủ từ bao đời. Con nhỏ cao ráo, cỡ
thước bảy như tôi, da bánh mật bóng lưỡng, khuôn mặt Ấn-Âu, môi đỏ, lúc nào
cũng đỏ và đôi mắt nâu, trong rất trong và lung linh ánh sáng, không phải cái
ánh sáng lúc nào cũng dư đầy, phơi trải tràn lan trước vườn, ngoài đồng, mà thứ
ánh sáng u uẩn của một linh hồn độc đáo. Lòng tôi bắt đầu vương vấn. Có bữa,
sau khi cô nhỏ vừa ra khỏi cổng, tôi nói với chị tôi là lần sau nên trả thêm tiền
cho con nhỏ. Chị tôi cười:
“Chà, mi thích con nớ, hay răng, mà nhủ chị trả
thêm?”
Tôi cười chống chế:
“Chị toàn nói bậy! Em thấy người ta nắng nôi, tội nghiệp, đi
rừng cả buổi mà kiếm chỉ được chút tiền.”
“Chị thấy mi đọc mấy cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp, nơi bìa có
cái hình mấy ả da đen hở vú hở vê, trông bất gớm, nên đâm ra thích con Chàm ni
chơ gì!”
Tôi lại chống chế:
“Ờ, ờ… sách nhà trường khuyên đọc mà… Mà người Pháp họ không
khinh người da đen như người Việt mình.”
Bà chị tôi nghe nói tới người Pháp là chịu thua ngay, nhất
người Pháp mà chị được biết là các cha thừa sai đạo đức, tận tuỵ, hết lòng hi
sinh vì con chiên nghèo nàn, quê mùa xứ Việt; cha xứ của chúng tôi là một linh
mục như thế, chị hạ giọng:
“Ờ, ờ, lạ hè!”
Tôi bồi thêm:
“Mi mà cũng dám so sánh mi với các cha.”
Rồi chị quay lưng đi thẳng vào nhà trong.
***
Hồi đi trốn công an VC sau một vụ vượt biên bất thành, tôi
phải ở chui, ở lậu trong khu Khánh Hội, Sài Gòn. Trước đó, không ai dám chứa chấp.
Ngoài ra hồi đi trốn, tôi còn bị bệnh lao, cần phải chích Streptomicine mỗi
ngày. Hôm tôi bó buộc phải rời nhà bà cô, mà chưa biết đi đâu, tôi lang thang
trong khu chợ trời nhỏ ở Khánh Hội thì thấy có một người đàn bà trẻ trắng trẻo
trong chiếc áo bà ba lụa màu trắng, tươm tất, khuôn mặt đẹp và hiền lành, hình
như đang đứng xem chừng khách mua là loại người có nguy hiểm không trước khi mời
khách mua món gì đó đang nằm trong chiếc xắc đầm người đàn bà trong cầm trong
tay, nhưng cũng có thể người đàn bà không bán gì cả và đang đứng để chờ ai đó.
Người đàn bà có đôi mắt đẹp và long lanh kỳ lạ. Đôi mắt ấy bắt tôi dừng chân lại,
và tôi hỏi chỉ cầu may:
“Chị có bán thuốc tây không? Tôi cần mua vài chục ống
Streptomicine.”
Chị nhìn tôi, rồi mỉm cười:
“Vâng, có, mà tôi phải về nhà lấy, mà anh muốn loại của Liên
Xô hay của Pháp?”
Dĩ nhiên tôi trả lời tôi muốn thuốc của Pháp.
Người đàn bà:
“Thuốc Streptomicine của Liên xô cũng tốt như thuốc Pháp,
thuốc Mỹ, mà giá chỉ bằng một nửa. Anh không cần phải tốn thêm tiền vô ích.”
Chỉ nửa tiếng sau người đàn bà trở lại, trao cho tôi bị thuốc.
Tôi nhận thuốc và trả tiền theo giá của người đàn bà đưa ra. Trả tiền xong, tôi
còn nấn ná, chưa muốn rời xa cái nhan sắc ấy. Đấy không phải là một nhan sắc
làm cho ta hứng khởi, rạo rực ngay tại chỗ mà là nhan sắc của một vầng trăng
dìu dịu, hiền lành, ngấm dần vào tâm trí, vào da thịt người nhìn và làm cho người
ta có cái thị kiến là mình đang nằm trong vũng ánh sáng mơn man, vỗ về, và những
muốn dầm mình trong ấy mãi.
Người đàn bà lại chỉ tay về hướng có nhiều mái nhà tôn và
nói:
“Nếu anh cần chích thì cứ tới nhà ông y tá Đức đằng kia, ổng
chích cho. Giá cả cũng vừa phải. Ổng người đời trước. Anh cứ đi thẳng theo tay
tôi chỉ thì sẽ thấy một bảng hiệu vuông có ghi: Y tá Đức, 25 năm kinh nghiệm.”
Tôi cảm ơn người đàn bà, nhưng chân còn ngại chân chưa muốn
đi. Người đàn bà nhìn tôi, ánh mắt long lanh chuyển qua màu thương xót, và nàng
thì thầm:
“Tôi thấy hình như anh đang bị kẹt. Anh dáng thư sinh trắng
trẻo, bảnh trai, đi lơ ngơ như thế, lại còn đeo kiếng, thì dễ bị bọn nó nghi lắm.”
Rồi nói nhỏ: “Nếu anh cần nơi tạm trú, để chữa bệnh, thì cứ hỏi ông ấy, ông ấy
sẽ sẵn lòng giúp đỡ. Vợ ông ta cũng rất tốt. Anh cứ yên tâm; mọi sự sẽ ổn
thôi!”
Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Tôi thảng thốt nhìn người đàn bà.
Thân xác tôi, tâm trí tôi bỗng như bay lên. Ánh sáng quanh người đàn bà trở nên
kỳ ảo, thơm thơm, vỗ về. Người đàn bà bỗng hiện nguyên hình thánh nữ, trở nên Mẹ
Maria, là vì sao sáng trong đêm giữa ban ngày của tôi. Và lòng tôivang lên câu
hát bình ca grégorien van vĩ mà ngọt ngào của một thời niên thiếu, vô
tư, thủa chưa bị Quỷ vương hãm hại, mà chúng tôi vẫn hát mỗi đêm trước khi đi
ngủ trước bức tượng Đức Mẹ đẹp đẽ, dịu dàng, nhân ái:
Khi tôi đang còn lạc thần như thế, thì tiếng người đàn bà mơ
hồ:
“Anh đi đến đó ngay đi. Giờ này đã đúng ngọ. Ông bà ấy đang
còn nghỉ trưa ở nhà.”
Tôi quay lại, thấy người đàn bà vẫn đứng đó, nhưng màu linh ảo
đã tan gần hết và lùi bước cho ánh sáng gay gắt chụp xuống rồi bao quanh; hương
thơm bắt đầu nhường cho mùi rác rến, cống rãnh bốc lên; tiếng ồn ào phố chợ
tràn tới. Người đàn bà đưa tay chỉ về hướng trước mặt và lại hối:
“Anh đi chích đi. Kẻo muộn.”
Đi được khoảng mấy trăm mét, tôi thấy trước mặt một tấm bảng
hiệu vuông, khoảng nửa thước mỗi cạnh, màu trắng, với hình chữ thập đỏ chiếm ba
phần tư tấm bảng, và một phần tư phía dưới là hàng chữ màu xanh đậm, trang nhã,
bay bướm vừa phải, một sản phẩm nghệ thuật mà nghiêm chỉnh của một thời: Y tá Đức,
25 năm kinh nghiệm.
Tôi ghé vào nhà có tấm bảng đó và chào người đàn ông đã đứng
tuổi đang ngồi trên chiếc ghế bố đang đọc tờ Tuổi Trẻ Cười. Ông gật đầu chào
tôi, mà vẫn không hỏi tôi đến có việc gì mà chỉ vào cái hình hí hoạ có kèm câu
thơ đời mới xhcn và đọc một hơi:
“Cậu xem: Đồng tiền là tiên là Phật/ Là sức bật của tuổi
trẻ/ Là sức khoẻ của tuổi già/ Là cái đà hy vọng/ Là cái lọng che thân/ Là cán
cân công lý/ Ôi, đồng tiền hết ý!”như thể tôi là người quen, người hàng xóm
của ông. Rồi ông cười vang.
Đợi cho ông hoan hỉ xong, tôi mới lễ phép nói:
“Thưa ông, ông có phải là ông y tá Đức không ạ? Tôi bị lao,
tôi mới mua được mấy lọ Streptomicinenhờ ông chích giùm.”
“Ừ, tôi là y tá Đức. Trong xóm này chỉ có tôi là y tá. Y tá
trong quân đội Pháp đàng hoàng. Chẳng những chích, tôi còn trị được bệnh.”
“Dạ, dạ! Tôi chỉ nhờ ông chích giúp tôi.”
Ông bỏ tờ báo xuống và vào bên trong soạn ống chích, khử
trùng bằng nước sôi và đem ra chích cho tôi.
Chích xong, ông nói:
“Công chích mỗi lần… (Tôi không còn nhớ là bao nhiêu.) Thuốc
này phải chích mỗi ngày.”
“Dạ.” Và tôi run run ướm hỏi:
“Tôi ở xa, vậy, ông cho tôi ở trọ đây được không? Tôi chỉ cần
một cái ghế bố, nằm ngoài hiên cũng được.”
Ông Đức chưa kịp trả lời thì có tiếng của một người đàn bà từ
buồng trong vọng ra:
“Ừ, cậu cứ ở lại đây với chúng tôi. Tiền trọ thì không phải
trả, chỉ trả tiền công cho nhà tôi là được rồi.”
Ông Đức cười cười:
“Nhà tôi đấy. Mù hai năm nay rồi, không đi đâu được. Nhà tôi
nói cũng phải; cậu cứ ở với chúng tôi, bao lâu cũng được.”
Tôi nói mà như reo:
“Vậy thì tốt quá. Chứ nhà em ở xa, đi tới đi lui rất bất tiện.”
Chỉ nói ngon vậy thôi, chứ tôi không còn nhà, hay đúng ra
không còn có nơi để trở về vì tôi đang bị công an truy lùng ở quê nhà sau vụ vượt
biên không thành. Và không ai muốn chứa chấp tôi nữa.Tôi đã xin ở nhà người
quen, có người nể tình cho ở vài ngày, có người từ chối thẳng, cuối cùng xin ở
nhà bà cô ở Sài Gòn được năm ngày thì thấy bà cô lo lắng thấy rõ, dù bà rất
thương tôi. Chồng của cô nay đang ở tù cải tạo lâu năm; gia đình có mấy đứa
con; mấy đứa lớn: đứa đạp xích lô, đứa đứng đường buôn bán vặt vãnh qua ngày;
bà cũng đang bị ho lao, xanh xao, vàng võ; và cả nhà đang bị đe doạ đi vùng
kinh tế mới. Tôi không muốn cô, gia đình cô khổ sở thêm vì tôi. Tôi đang tính
đi nơi khác, xuống Miền Tây chẳng hạn, nhưng tính vơ tính vẩn thế thôi, chứ tôi
đâu quen biết ai dưới đó, và với cái dáng thư sinh, đeo kiếng, lớ ngớ, tôi sẽ bị
nghi ngờ là đang tìm đường vượt biên, đa phần sẽ bị bắt. Tôi đang bị trói tay
hoàn toàn. Tôi đang vào ngõ cụt đen tối.
Tôi lại lễ phép:
“Vậy có cần giấy tờ tạm trú gì không, thưa ông, bà?”
Lại bà vợ nói vọng ra ngay:
“Chẳng cần. Ở cái khu Khánh Hội anh chị, chém nhau như cơm bữa
này, mấy ổng cũng phải lo cái mạng của mấy ổng chớ. Gây khó dễ, biết đâu mất mạng.
Xác chết nổi lên trong đám sình đầu xóm ngày một…”
Ông y tá Đức gật đầu:
“Ừ, phải đấy. Và mình cứ dúi cho họ vài chục thì càng ổn. Ở
rừng thì không sao, chứ ở đây quán nhậu khắp nơi, mùi thịt, mùi mực nướng thơm
nhức mũi thì nhịn thèm sao thấu!”
Bà Đức cười: “Chơ gì nữa!” Rồi bà từ trong buồng đi ra, tươi
cười. Bà đeo đôi kính râm, dáng người mảnh mai, cao ráo, da trắng xanh, một người
đàn bà hẳn đã có một thời xuân sắc. Bà vẫy tay về phía tôi ra hiệu như thể bà
thấy tôi ngồi chỗ nào:
“Mà thôi, cậu vào đây tôi chỉ cho cái giường bố nhà binh và
cái mùng mới chưa treo lần nào. Anh có số may mắn đấy.”
“Bà chu đáo và trật tự quá!”
“Bả còn trật tự hơn tôi.” Ông Đức nói.
Bà Đức có vẻ không để ý tới lời đề cao vợ mình của chồng, bà
quay về phía tôi, tỏ vẻ ân cần:
“Ổn định rồi, nhắn vợ con vào thăm. Chúng tôi không nề hà gì
đâu.”
Tôi giật mình, nhưng cảm thấy thinh thích, nói:
“Dạ, em chỉ mới 25 tuổi,còn trẻ. Chưa vợ con gì cả.”
“À, thế à. Xóm này, khối cô chưa chồng. Thư thả, thích ai,
tôi làm mai cho. Ở không thì buồn chết.”
Ông Đức cười khì khì:
“Suy bụng ta, ra bụng người.”
“Cái ông khỉ này.”
Tôi bắt đầu an cư, dù không lạc nghiệp. Tôi hãm lại cái đam
mê mua sách (dù còn phải nay đây, mai đó) để biếu thêm ông bà tiền bằng cách
tăng gấp đôi tiền thù lao cho ông Đức, đôi lúc lại mua nhánh chuối, đĩa bánh
cho bà từ các gánh hàng rong vẫn rong qua trước ngõ, và cả thuốc Samit, mà mỗi
ngày bà vẫn hút một điếu cho đỡ buồn, bà nói vậy.
Quả vậy, tôi khỏi lo mặt an ninh vì ông Đức quen với công an
khu phố. Sự lo sợ lớn nhất và giai giẳng nhất, cận thân nhất đã được tháo gỡ
như tháo gỡ được băng mìn nổ chậm đang đeo trước ngực tôi.
Tôi sống yên ấm, cái sự yên ấm như là điều đương nhiên trước
đây, bây giờ, giữa cái thời vẫn nồi da xáo thịt, con người là chó sói của nhau
này, trở thành như một phép lạ được ban cho tôi dù tôi biết rằng tôi không thể ở
đây vĩnh viễn, nhưng tôi không đủ sức nghĩ tới những đau khổ sẽ tới trong khi
tôi đang gặp được những sung sướng, hạnh phúc dù rất biết trước là ngắn ngủi
sau những tháng ngày đau khổ của cảnh sống của một con chó hoang, chó ghẻ.
***
Thế rồi, còn có một cô Mỹ lai đen mười tám đôi mươi, cao
ráo, trẻ trung, đẹp đẽ, đẹp còn hơn cô nhỏ Chàm, con gái bà Năm Chai hồi ấy,
quê nhà, có đôi mắt sáng của một người hiểu biết, hoặc có căn cơ để hiểu biết.
Cô nàng tên Ngà. Tôi không biết cha mẹ cô đặt cho tên ấy như một thách đố hay
như một ước mơ.
Cô Mỹ lai đen tối nào cũng đến chuyện trò với bà Đức, bóp
tay bóp chân cho bà Đức, tắm cho rửa cho bà. Bà Đức cho tôi biết: “Con nhỏ đã học
xong lớp mười hai rồi nghỉ, chứ không phải là thứ dốt nát đâu, cậu ạ. Có bữa nó
đến đây chích thuốc, nó thấy hoàn cảnh của tôi, nó thương tôi, nó đến giúp tôi,
chứ không phải đến hầu tôi để kiếm tiền đâu. Tôi mến nó lắm.”
Tôi thích ngay cô gái Mỹ lai đen vì tôi vốn có máu thích người
da đen một phần, và có lẽ một phần vì những cuốn tiểu thuyết, những áng thơ
Pháp tôi đã học, đã đọc, nói về những sắc nước hương trời da đen: La Beauté
Noire, những đàn bà khoả thân, đàn bà đen: femme nude, femme noire,
những huyền châu: ngọc trai đen: perle noire, những giọt mồ hôi tình ái
là những vì sao trên làn da trời đêm, những khoái lạc cực điểm rượu đen, thân
xác là trái cây chín thơm tho chắc thớ, nồng nàn như đồng cỏ cháy trên đồi cao,
đàn bà khoả thân, đàn bà mịt mùng: femme nude, femme obscure…; và vì một
nữ thi sĩ người Việt nữa: Một khuôn mặt chìm trong màu đen/ Hình như có tiếng
cười/ tiếng cười cũng có màu/ Đen*
Khi tôi mượn lời các thi sĩ để ca tụng nhan sắc đen nàng,
nàng há miệng như đang uống những lời tán tụng mà chắc chắn nàng nghĩ không thể
có trong cái thế giới của những người tự cho là văn minh hơn nàng, sáng sủa hơn
nàng; và nàng rưng rưng trong mắt, và rung rung trên môi, nhưng mãi sau khi tôi
nói xong Bản-chất-đen: La negritude: “Bản-chất-đen không phải là giấc ngủ
triền miên mà dân da đen cứ ngủ vùi trong đó, nhưng đó là mặt trời của tâm hồn,
là tầm nhìn xa, là sống hết mình, là chiếc bay xây dựng trên bàn tay, là ngọn
giáo nắm chặt trong nắm tay đấm.”, cô da đen, mà người trong xóm thường gọi là
con nhỏ Mỹ đen với nhiều khinh dễ, đã quỳ xuống, gục mặt trên đầu gối tôi đang
ngồi trên ghế vừa khóc vừa nói:
“Bài The Dark End of The Street.”
Nàng phát âm tên bài hát rất đúng, làm tôi hết sức ngạc
nhiên.Tôi còn đang há hốc miệng, đang sững sờ, thì nàng đã nói tiếp, nói dài một
hơi nỗi niềm riêng:
“Em còn hát được cả bài bằng tiếng Anh. Má em bày cho em. Ba
em bày cho má em, nên má em mới biết. Ba em, một trung uý phi công da đen, rất
thích hát, và bài này là bài ruột của ba vì nó nói lên được những điều mà dân tộc
da đen của ba phải chịu. Má em nói như vậy. Má em dạy tiếng Anh ở Hội Việt-Mỹ.
Má cắt nghĩa từng câu của bài hát cho em. Em hiểu và em rất thích. Ba gặp má ở
hội Việt-Mỹ. Khi em được sinh ra, ba em còn sống và đặt tên cho em là Snow
White: Bạch Tuyết, trong khi mẹ em lại chọn cho em tên Ngà; cả hai tên như một
thách đố. Ba hứa sẽ cưới mẹ và đưa mẹ con qua Mỹ nhưng chẳng bao lâu ba em chết
trận, chết đã lâu, vì máy bay ba bị bắn rơi. Bạn ba báo cho mẹ biết như vậy. Má
em rất thương ba. Giờ còn thương.”
Tôi cảm động, ứa nước mắt, nhưng lòng lại thật hào hứng khi
nghe nàng kể như thế; và tôi nói gần như hét:
“Vậy hả? Vậy thì hát cho anh nghe đi. Bài này anh lúc xưa
anh có biết, nên khi nghe em ư ư, anh nghĩ là anh đã nghe đâu đó.”
Nàng kéo tay tôi vào trong nhà, đóng cửa kín lại, đưa hai
tay đè vai tôi ngồi xuống trên chiếc ghế bố, và nàng đứng trước mặt tôi và hát,
khi chấp tay trước ngực, khi giơ hai tay lên trời, thân hình quằn quại, lắc lư,
nàng hát tiếng Anh rõ ràng như nữ ca sĩ Dalena, người Mỹ, hát tiếng Việt vậy:
At the dark end of the street
Living in darkness, to hide our wrong
You and me, at the dark end of the street
Oh, our love keeps going on strong
Steal away to the dark end of the street
You and me
Anh biết sẽ có lúc chúng ta phải chịu hậu quả
Chúng ta phải trả giá cho tình ta lén lút
Yêu thế là tội lỗi, thương vậy là sai
Nhưng tình ta vẫn giữ cho chân chúng ta cứng, đá hoá mềm
Ẩn mình trong ngõ cụt đen tối
Anh và em
*Chúng nó sẽ kiếm ra chúng ta, chúng nó sẽ kiếm ra chúng
ta
Chúng nó sẽ kiếm ra chúng ta nay mai thôi
Anh và em nơi ngõ cụt đen tối
Anh và em
Khi ánh sáng ban ngày trườn quanh
Và nếu chúng ta tình cờ gặp nhau trên phố
Xin quay mặt làm ngơ.
Ôi, anh yêu, anh đừng khóc
Anh và em nơi ngõ cụt đen tối
Anh và em
Giọng hát thê thiết, man dại, lạc loài. Thân phận của nàng, thân
phận của tôi, của dân tôi. Nàng hát chưa xong, tôi đã bật giậy, nhào ôm lấy
nàng, tôi lắc lư với nàng theo tiếng hát; hát đi hát lại vẫn chưa đã, chưa nư,
tưởng phải hát dài mãi, dài như những thế kỷ người bắt bớ người, người tàn hại
người tới giờ chưa dứt; rồi tôi khóc trên vai nàng và nàng cũng khóc. Tôi
thương nàng mất rồi, tôi vui sướng thốt lên trong lòng. Nàng có lẽ cũng thương
tôi, thương nhiều; tiếng hát và vòng tay ôm chặt tôi nói cho tôi biết như thế.
Tôi mê man trong tình nồng rượu đen. Rồi trong một thoáng, tôi nghĩ về mẹ nàng,
về cha nàng, những người tình tuyệt vời giữa thời ly loạn trong một đất nước tự
kiêu, man rợ, kỳ thị nhất thế giới, tôi hỏi nhỏ:
“Má em bây giờ ở đâu, em dẫn anh đi thăm má em, được không?”
Nàng trả lời:
“Má em ở khu phố khác. Ở đó, công an loại ba mươi tháng tư,
chúng nó dữ và ác lắm. Nhất là gia đình em là đối tượng theo dõi của của họ.
Anh qua đó, nguy hiểm.”
“Ừ, em nói phải, mà má em làm nghề gì để sống?”
“Má em mua qua bán lại, cũng đủ sống qua ngày.”
Mấy hôm sau, bà Đức kêu tôi vào nhà trong và thì thầm:
"Kỳ này tôi nghe cậu và con Mỹ lai chuyện trò có vẻ quấn
quýt với nhau lắm. Nếu cậu thương nó, tôi sẽ nói trước với nó giùm cậu. Mà tôi
nói thật với cậu, tôi thấy là khi tôi ở trong bóng đen lâu, tôi mới thấy được sự
êm dịu của màu đen, nếu ta không còn lấy trí mà phân biệt trắng, đen, xanh, đỏ.
Tôi thấy màu đen nó chứa được hết mọi màu.”
Tôi đỡ lời:
“Chắc nhờ ông nhà thương bà lắm, bà mới thấy ra được như thế.”
Bà ngẫm nghĩ một thoáng, rồi vừa nói vừa cười, nụ cười sung
sướng, mãn nguyện:
“Cậu nói chí phải.”
***
Có bữa tôi đi lòng dòng phố về, ông Đức báo là có người em
người bán thuốc nào đó hỏi thăm tôi và nhắn với ông Đức là ngày mai, lúc 12 giờ
trưa, ra ngay chỗ cũ lấy thuốc thêm. Tôi hơi ngạc nhiên vì tôi chưa chích hết
thuốc, nhưng tôi có linh tính là ra gặp người đàn bà hôm trước thì chỉ có điều
lành chứ không có điều dữ. Và như hẹn, tôi đến, thì gặp ngay một anh con trai,
không biết sao anh ta nhận ra tôi, và đi phía tôi. Tôi rùng mình kinh hãi vì
nghĩ có thể mình bị gài bẫy, nhưng nghĩ lại, mình cũng vô lý, vì mình đâu là
cái quái gì mà người ta gài bẫy lâu ngày và công phu như thế, như thể tôi là một
gián điệp hay một người cấp cao trong chính quyền cũ trốn ở tù. Quả vậy, anh
con trai mỉm cười hỏi tôi, giọng ân cần, lịch sự:
“Chào anh, tôi là em chị bán thuốc cho anh. Anh em mình lại
đằng kia, tôi có chút chuyệncần nói với anh. Chuyện lành thôi!”
Tôi, lo lắng mười phần, đã tan hết chín.
Đi được một quãng xa xa khỏi khu chợ trời, anh con trai đi
sát người tôi, nói nhỏ:
“Chị tôi đã đi lọt tháng trước rồi. Chị tôi có gọi điện thoại
về và chị ấy nói bóng gió, nhưng tôi hiểu là chị ấy muốn giúp anh. Chuyến này,
bạn của chị tôi tổ chức, anh muốn đi thì đi. Chị tôi sẽ bảo kê cho anh. Anh qua
được, làm ăn được, rồi trả lại cho chị ấy sau.”
Tôi mừng quá sức. Lại một phép lạ khác tôi được ban; tôi hỏi:
“Vậy, khi nào đi?”
“Còn vài ngày nữa mới đi. Nhưng tốt nhất, anh nên đi ngay
bây giờ với tôi, kẻo anh về nhà trọ lại biết đâu có chuyện gì đó xảy ra; công
an bắt anh vì cư trú bất hợp pháp, chẳng hạn. Hay là vương vấn với người nhà,
sinh ra chuyện này chuyện nọ.”
Tôi nghĩ ngay tới Ngọc Trai Đen của tôi. Nhưng anh ta nói
quá đúng. Tôi đồng ý đi ngay với anh ta.
Chuyến vượt biển của chúng tôi thành công mỹ mãn. Chỉ 5 ngày
là tới hải cảng Trengganu, Malaysia. Biển động vừa vừa mấy ngày đầu, mấy ngày
sau chỉ hơi nhóc, và gió bấc thường thổi mạnh vào mùa này lại thổi không
mạnh lắm. Trước khi đi, người tổ chức nói là chuyến đi này sẽ thành công vì đi
vào dịp Noel, tuy biển thường động, nhưng theo anh, một người rất ngoan đạo,
tin lời cha xứ giảng là: “Vào dịp lễ Giáng sinh, các con xin Đức Mẹ điều gì thì
đều được Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa Hài Đồng ban cho các con.” Anh đã được nhiều
ơn lành như ý nguyện trong những dịp lễ Giáng sinh, thời còn trong quân ngũ,
nên anh rất tin.
Chúng tôi cập bến Terengganu khi trời chỉ mới rạng, sao mai
sáng như reo. Người người chui khỏi khoang thuyền, quỳ xuống sạp thuyền, và tuỳ
theo tôn giáo mình theo, mà đọc kinh cảm tạ các Đấng Bề Trên. Tôi nhìn vì sao
mai, vốn tượng trưng cho Mẹ Maria dẫn đường, như trong câu thánh ca trong đời
thường chỉ có nghĩa thiêng liêng, nhưng bây giờ lại có ý nghĩa rất thiết thực:
“Lạy Mẹ là ngôi sao sáng soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”. Tuy nhiên,
tôi nghĩ đến Đức Mẹ chỉ thoang thoáng, nhưng với lòng cảm mến vô ngần, tôi nhớ
tới người đàn bà bán thuốc chợ trời đầy nhân đức, đầy lòng thương xót một người
xa lạ như tôi. Người đàn bà ấy, giây phút này, đã thành thánh nữ, thành Mẹ
Maria tại thế của tôi, cứu vớt tôi khỏi thung lũng lưu đày đầy mồ hôi, máu
xương, nước mắt Việt Nam, và miệng tôi bật lên lời kinh cảm tạ:
Rồi tôi được định cư ở Na Uy.
Tôi rán đi học và gặp và quen cô chủ quán cà phê gần trường,
nơi tôi hay ghé uống cà phê và ăn trưa, những chuyện tôi có thể làm căng tin
nhà trường, và chắc chắn không phải vì nàng là đồng hương mà tôi đã chán ngấy từ
hồi ở quê nhà cho tới những ngày ở đảo Bidong, mà vì nàng là một người đàn bà
trẻ, duyên dáng, cao ráo như tôi, nghĩa là cao 1m70; gặp lần đầu tiên, tôi đã
mường tượng ra ngay hai thân thể cùng kích thước, khít khao nhau trên một chiếc
giường nào đó. Cô có lẽ chưa chồng vì không thấy cô đeo nhẫn cưới, và vì chưa
thấy người đàn ông nào vào đó xưng anh anh em em với nhau như đôi vợ chồng,
nhưng nàng có một cô con gái má má con con thỉnh thoảng nàng đưa tới quán. Mơ
được ước thấy, chỉ sau vài tuần là tôi đã được nàng mời về nhà chơi và thực hiện
ngay chuyện tôi mường tượng ngày đầu vào quán. Mọi chuyện đều tuyệt vời. Trong
mấy tháng. Rồi nàng ngỏ ý muốn tôi về ở với nàng. Tiện lợi mọi bề, nhưng tính
tôi thích sống một mình. Hồi ở Việt Nam tôi có lúc sống trong cái chòi canh rẫy
trong rừng hằng tháng và bây giờ nghĩ lại thì thấy những tháng ngày trong rừng ấy
là thời gian hạnh phúc nhất trong những ngày eo éo loa đài, họp hành, khẩu hiệu
nọ kia, tuy rằng ăn uống kham khổ. Nhưng chuyện tình dục thì không thể một
mình, nhất là ở Na Uy lạnh lẽo, mà no đủ quanh năm. Nàng có nhan sắc, thân hình
gợi dục, và là nữ hoàng boléro trong các đám cưới, tiệc tùng. Tóm lại
nàng có hoa, thuốc súng, mật ngọt cho tôi say đắm rồi nổ tung. Say, nổ tung và
chìm luôn.
Nhưng cuộc sống không cho say, nổ và chìm mãi trong bể ái.
Sau khi tôi tốt nghiệp, tôi kiếm được việc ở một nơi rất xa nơi nàng ở. Còn
nàng, nàng có quán cà phê mà nàng là chủ và nàng đã ở quen với cô con gái nhỏ
trong một thành phố thơ mộng, tiện lợi mọi bề mà phải bỏ và mang con nhỏ để lên
Miền Bắc xa xôi, giá buốt quanh năm, nơi tôi vừa xin được việc, là chuyện không
thể. Và cũng không nên. Không thể, không nên, nhưng chúng tôi vẫn mê nhau, đeo
nhau như sam. Rời nhau sao được, khi tuổi đời chưa tới ba mươi.
Tôi cứ nửa tháng, hay sớm hơn, vì nhớ quá, về đê mê những
ngày cuối tuần, những ngày lễ, và điện thoại cho nhau hằng đêm. Thế rồi có một
lần cuối tuần, sau khi quần nhau đã đời, hai chúng tôi còn nằm trên giường, thì
nàng thỏ thẻ với tôi: “Anh ơi, anh nói về một nhà thơ đặc biệt nhất, lạ nhất của
Na Uy cho em nghe với!“ Ui Trời, tôi khoái quá! Khỏi hỏi han lôi thôi, tôi nói
ngay về nhà thơ Olav Hauge vì tôi thích nhà thơ này và cũng là nhà thơ hội được
những tiêu chí của nàng. Thơ của thi sĩ này có hình thức, ý thơ, hơi thơ đã đặc
biệt lại giống Nguyễn Khuyến của Việt Nam, Vương Duy của Trung Hoa và Ba Tiêu của
Nhật Bản, nghĩa là vương màu xứ lạ, rất eksotisk, mà lại rất Đông phương
đối với người Na Uy. Tôi thích nhà thơ Olav Hauge đến nỗi, tôi, với trí nhớ kém
cỏi bẩm sinh, vẫn nhớ được dăm bài thơ ngăn ngắn của ông, và tôi đọc và dịch
nghĩa cho nàng nghe. (Nàng rất giỏi tiếng Na Uy, nói tiếng Na Uy còn trơn tru
hơn tôi.) Và kết quả là: “Em sẽ ra tiệm sách mua thơ của nhà thơ này.” Lạ chưa,
nàng là nữ hoàng boléro, mà thích và sẽ đọc những bài thơ man mác cỏ
cây, mây nước, hư vô thiền vị của Olav Hauge mà tôi vừa mới giúp nàng cảm nhận
ra! Và nàng mua thật, hôm sau, không phải một tập thơ mà tất cả các tập thơ của
Olav Hauge mà tiệm sách có. Giờ này, nàng đúng là người tình tuyệt vời: thân
xác nóng bỏng sắc dục, tâm hồn thấm đẫm hương thơ. Nhưng ngạc nhiên này dẫn đến
ngạc nhiên khác, đúng ra là sửng sốt: Ngày kế tiếp, sau khi quằn quại với nhau,
nàng hôn nhẹ má tôi và thì thầm: “Anh dạy cho em triết học Ấn độ đi!” Tôi sửng
sốt quá đỗi, sửng sốt đến mụ cả óc, và tôi cũng hứng khởi quá cỡ vì có người,
mà lại người yêu, muốn tôi chia sẻ những tư tưởng cao vời, thâm sâu của triết học
Ấn độ mà tôi rất thích, và có thể nói, tôi thấm nhuần và nắm vững hơn các nền
triết học khác. Sự sửng sốt, hứng khởi dập tắt mọi thắc mắc tại sao khi không
nàng lại thích tôi dạy triết học Ấn độ. Tôi dành hai ngày nói đại cương một vài
trường phái và đôi đại sư của mỗi trường phái ấy, kèm theo các câu nói hay nhất,
tiêu biểu nhất của các đại sư đó, kiểu như Wikipidea hiện nay.
Rồi tôi phải chia tay nàng thơ với xác thịt ngồn ngộn của
tôi để quay về với công việc, nhưng tôi phơi phới trong lòng vì người yêu tôi,
nửa-kia của tôi, giờ lại còn có một tâm hồn đẹp hơn trước nhiều.
Hai tuần sau tôi lại về với nàng. Trước khi lên tàu hoả, như
thường lệ, tôi báo cho nàng giờ tàu đến để nàng ra đón, nàng lạnh lùng thấy
rõ:
“Anh khỏi về, em có người yêu khác rồi!”
“Thôi đừng có cà rỡn. Anh vừa mua bình nước
hoa Poème/Bài thơ của Pháp cho em đây. Kỳ này anh sẽ tha hồ hít thơ từ thân xác
trần truồng em.”
Nàng hơi sẵng giọng:
“Thôi, anh quên đi. Em không còn yêu anh nữa. Ba
năm đã quá đủ. Xa nhau như thế là đã quá lâu. Em còn sống phải cuộc đời của em.
Em nài nỉ anh về với em, cưới em, ở với em, có gì vợ chồng ăn nấy, mà anh cứ
khăng khăng không chịu, rồi còn nói hoài cái câu tụi Na Uy hay nói: Chết cha,
không đau bằng mất việc.”
Tôi nổi xùng:
“Thì đúng rồi! Anh bỏ việc rồi về ăn bám em hay sao?”
Rồi nàng cúp máy cái rụp.
Rồi tháng sau, có cô bạn thân ở cùng tỉnh với nàng, và bán
cà phê với nàng, nói cho tôi biết là nàng đã lấy một ông giáo sư dạy môn văn học
tại đại học toạ lạc gần quán bán cà phê và món ăn nhẹ của nàng, nơi ông giáo sư
hay đến ăn trưa. Ông ta dạy văn học? Tôi đâm nghi, tự hỏi: “Mình trao bửu bối
cho nữ tặc?”
Một tháng sau, đang đêm tôi đang quằn quại nhớ thân xác
nàng, thì có tiếng gọi điện thoại và, Trời ơi, đó là tiếng nàng:
“Anh ơi, cho em trở lại
với anh đi.”
Thú thật tôi khoái quá, khoái vì mình thắng trận thì ít, mà
khoái vì sắp được ôm nàng thì nhiều; tôi vẫn khoái cái câu “It’s only a
fuck: Chỉ là một cái đụ thôi mà; có gì đâu mà lớn chuyện đến thế!” trong một
phim của Anh, kể về một chị đang thất nghiệp, nhưng vẫn sống êm ấm với chồng,
con, thế rồi có một ngày, chị ta đột nhiên trúng số độc đắc mấy chục triệu pound.
Vậy là cô ả đâm ra, như ông bà mình hay nói: No cơm, ấn cật; rậm rật mọi nơi;
ông chồng hiền lành làm dữ, nàng ta nói như không, như người vừa giác ngộ một
chân lý: “It’s only a fuck!: Chỉ là một cái đụ thôi mà. Có gì đâu mà lớn
chuyện đến thế!” với ông chồng hiền lành.
Còn cô nàng của tôi thì năn nỉ như trên, và tôi tuy bụng đã
khoái khoái, nhưng dạ vẫn cứ làm cao:
“Em đã ra như thế, còn muốn về với anh là sao?”
Rồi để hỏi câu hỏi quan trọng mà tôi vẫn ấm ức lâu nay, tôi nói hoãn binh:
“Chuyện đó để anh suy nghĩ, để anh nguôi ngoai cái đã…” Và cuối cùng tôi hỏi:
“Thế tại sao trước khi bỏ anh, em lại xin anh nói cho em nghe về thơ, rồi còn bảo
anh dạy triết học Ấn Độ cho em?”
“Dạ, vì ông ấy là giáo sư dạy môn văn học. Ổng
thích em, muốn tìm hiểu em, thì em cũng phải biết một chút về văn học, triết học
chớ! Vốn văn hoá bình dân Việt Nam của em chẳng có mấy, sẵn có anh của em thông
thái, em trang bị thêm.”
“Em thiệt là cơ mưu. Đúng là lòng dạ đàn bà.”
“Dạ, anh nói đúng, em là đàn bà, là phái yếu, nói
chính xác ra là yếu thế…”
“Ừ.”
“Anh tha tội cho em. Xin anh cho em trở lại với anh.”
Tôi làm lơ, hỏi vặn:
“Nghe cô bạn thân em nói là ổng cưới em rồi mà?”
“Dạ, đúng vậy. Ổng mê em từ lâu, nhất là sau khi em nói chút
chút về thơ của Olav Hauge với ông ta, rồi còn dặm vào những câu chuyện đời ổng
kể với em những suy tư trong triết học Ấn Độ. Thế là mấy ngày sau, ổng nửa đêm
gõ cửa, và quỳ xuống cầu hôn với em…”
“Và em chấp nhận?”
“Dạ. Nhưng rồi trước ngày cưới, ông ấy yêu cầu em phải ký
vào một tờ giấy chứng nhận nhà, xe, cả cái tivi cùng bộ xa lông mới mua và con
chó là sở hữu riêng của ông, mà tiếng Na Uy gọi là særeie đó anh. Em thấy
một người là giáo sư văn học, triết học đầy mình mà bần tiện đến như thế. Em
không thể sống với người bần tiện... Anh phóng khoáng hơn nhiều. Anh ơi, anh
tha lỗi cho em. Em thân phận đàn bà con gái. Cho em về với anh.” Rồi nàng khóc
lóc thảm thiết: “Anh không cho, em cũng xách va ly xuống ở với anh.”
“Không được đâu. Anh phải suy nghĩ. Mà coi bộ khó quá!”
Vì, tuy tôi khoái cái câu “It’s only a fuck!”
Khoái, nhưng tôi chưa thể, chưa sẵn sàng dùng nó cho đời mình vì lòng tôi đã thấm
nhuần văn hoá của dân tộc Việt với những người đàn bà trong những Hòn Vọng Phu,
rồi Thiếu Phụ Nam Xương, những Trinh Liệt Phu Nhân thời xưa, mà nói chi cho xa,
sau ngày Cộng Sản chiếm Miền Nam và lừa được các sĩ quan QLVNCH, viên chức cao
cấp chính phủ VNCH vào tròng tù tội nhiều năm thì vẫn có, có nhiều những Trinh
Liệt Phu Nhân được vẽ lại trong những bức tranh bi thảm mà sáng chói đức hạnh
trong một xã hội bị đàn áp bởi những kẻ xảo trá, gian ác, tàn bạo, tàn bạo dai
dẵng, trong các trang văn tự sự, hồi ký.
Cuối cùng, dù nàng van xin đôi bận, tôi vẫn từ chối lời cầu
xin của nàng; từ chối mà tiếc hùi hụi. Tôi xui xẻo sinh trong một đất nước, và
vào một thời có quá nhiều Trinh Liệt Phu Nhân. Mà nàng cũng xui xẻo không kém.
Rồi rút kinh nghiệm lần với cô chủ quán cà phê, và cũng đã đến
lúc, tôi lấy vợ cho yên bề, lấy hai lần, nhưngđều thất bại. Người ngoài chăn
cho tôi là thẳng đểu, gã sở khanh, nhưng người trong chăn là tôi thì thấy trong
đời chăn gối chính thức của tôi thì đầy rận, rận chẳng những cắn ngoài da, gây
ngứa ngáy, làm loét da, mà rận còn chui vào óc. Rận mà như thế thì chỉ có nước
trụng nước sôi, hay vứt cả chăn vào thùng rác. Nhưng tôi phải thú nhận: lỗi là
do tôi đã làm những bad choises: những chọn lựa sai lầm, như người Mỹ
hay nói, vì tưởng cứ tưởng cái nửa -kia mỹ miều là đủ sống đời. Bị lừa một lần
còn chấp nhận được, bị lừa hai lần là ngu, có cao nhân đã nói vậy. Nhưng may
thay, trong cuộc sống cô độc sau khi ráp bậy hai lần, tôi lại kiếm được không
phải một mà nhiều nửa-kia trong các cuộc hội thoại về văn hoá, nghệ thuật, triết
học, và cả thần học, Kinh Thánh trên các podcast, ví dụ, RCF: Radio Catholique
Français/Radio Công giáo Pháp, hay History of Philosophy
without Gap/Lịch sử Triết học không Khoảng trống… với sự tham gia của các học
giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, triết gia, giáo sĩ, ẩn sĩ, những kẻ say mê
lang thang khắp miền của thế giới… ,trong đó khá nhiều vị nữ. Các vị thông
thái, uyên bác quá sức. Thoạt đầu tôi nghe cả các vị nam lẫn các vị nữ, nhưng về
sau tôi thường nghe các vị nữ lưu hơn và hay nghe ban đêm. Anh phụ trách chương
trình, một người cũng rất thông thái và quảng bác, có giọng nói khá giống tôi hồi
còn đi học, mà Cha giáo sư dạy tiếng Pháp của tôi rất thích; Cha có lần nói với
tôi: “Anh có cái giọng nhỏ nhẹ, khoan thai, trầm trầm, dấn thân và lôi cuốn;
người có giọng nói với những phẩm tính như thế sẽ khiến cho người đối thoại muốn
được ngồi gần mãi đặng giải bày nỗi lòng cho thoả. Anh về sau, với kiến thức,
anh sẽ giúp ích được nhiều người.” Và riết rồi những khi nửa đêm thức giấc,
nghe anh phụ trách hội thoại với một nữ sĩ nào đó, tôi có cảm tưởng là chính
tôi và nữ sĩ ấy, như hai vợ chồng, đang nằm trên giường với nhau trò chuyện mà
quên cả trời sắp sáng; tôi được vỗ về bằng những tiếng nói đầy trí tuệ, được
yêu thương bằng tinh hoa của thơ, văn, tư tưởng từ người nữ thông tuệ, tài hoa,
vượt lên thông tục. Tôi đã gặp những người nữ tinh tuý ấy, những người nữ không
chỉ đội trên đầu vòng hoa đẹp kết bằng hoa thơm cỏ lạ tinh thần, mà (qua hình
tra trên Google còn cho thấy) các nàng còn có nhan sắc xuất sắc, hoặc vừa phải,
không xấu, hoặc giả sử có xấu thì màu trí tuệ cũng làm cho ưa nhìn; đã thế, các
nàng còn rải vào những dòng tư tưởng những chuỗi cười khi thì thư thái, mãn
nguyện lúc những suy nghĩ độc đáo chợt đến, khi thì khiêm hư lúcgặp ý kiến khác
mình, hay hơn mình, chẳng hạn nhưnơi nàng tri kỷ một chiều của tôi: Blanche de
Richemont.
Nhưng than ôi, các nàng này chỉ là online! Gần đó mà
xa đó, xa rất xa, xa tới mức không phải chỉ là phi hữu mà là vô hữu.
***
Một hôm tôi tình cờ thấy trên trang mạng của đài truyền hình
Na Uy giới thiệu bộ phim nhiều tập Love Child: Con của tình yêu. Con của
tình yêu thực ra trước đây người đời vốn gọi là bastard: con hoang, hay illegitimate
child: con bất hợp pháp, hay extramarital child: con ngoài hôn thú.
Từ những hạn từ không được đẹp đẽ này tới mỹ từ “Con của tình yêu”, xã hội Tây
phương, trong đó có Úc, đã bước một bước rất dài trải bằng không biết bao nhiêu
nước mắt, máu me, nước ối của những người đàn bà lỡ yêu và trao thân cho các
anh đàn ông qua các thời đại. Tôi xem ngay, xem vì cái tên bộ phim biểu thị sự
hiểu biết của một xã hội hiện đại, thời điểm tương đương với những năm cuộc chiến
Việt Nam xảy ra. (Có mấy vai nam là lính Úc qua chiến đấu ở Việt Nam.) Phim có
nhiều cảnh mấy nàng lâm bồn xem rất ngán, nhưng vẫn là một bộ phim hay, diễn
hay, về những chàng trai dạn dày mưa nắng mà lịch lãm xứ Úc và những thiếu nữ mỹ
miều, sexy, mà đầy trí tuệ, tự nguyện vì kẹt hoặc bị cha mẹ ép buộc, tập trung
trong một ký túc xá để chờ sinh con, và sau khi sinh, bà chủ sự sẽ kiếm người
muốn nhận con nuôi để cho nếu đương sựchịu ký giấy cam kết đồng ý, để đương sự
đi làm lại cuộc đời mới. Cô nào cũng không muốn, hoặc dùng dằng không muốn cho
con, hoặc cho rồi lại hối hận, muốn bắt con lại. Cho thấy tình mẫu tử thật mạnh
nơi những cô gái ấy, kể cả nơi những cô gái dân chơi hết mình. Tuy có sự giúp đỡ
tận tình chuyện sinh nở, nhưng bi kịch của chuyện không chồng mà vẫn có con mãi
mãi vẫn còn là tấn bi kịch riêng cho người đàn bà. Khi đến khúc phim, trong đó
chính một nữ bác sĩ sản khoa trong bệnh viện phụ trách ký túc xá chứa các cô
mang bầu ấy cũng có thai ngoại hôn, và chỉ mấy tuần sau, thằng bé chết trong
khu nhi khoa. Ở phân cảnh thằng bé chết, người mẹ bác sĩ phải để bác sĩ khác
rút ống trợ sinh, và người mẹ trẻ bác sĩ ấy ôm trên tay đứa con vừa chết mà
khóc ngất, thì xen vào phân cảnh một nữ ca sĩ da đen hát bài The Dark End of
The Street mà Ngọc Trai Đen của tôi đã hát năm xưa; giọng hát giống y, điệu
diễn tả giống y, và giống y không kém khuôn mặt và thân dáng của nàng tôi xưa.
“Của nàng tôi xưa”, viết dòng chữ này là vì lòng tôi xúc động mạnh, hối tiếc
nhiều, chứ tôi có xứng đáng để viết như thế đâu! Tôi đã bỏ nàng mà đi không một
lời từ biệt và sau khi qua được xứ người, tôi đã sa vào vũng đời bẩn thỉu, tục
tằn, nham hiểm, gian trá làm tê liệt hết thần kinh; trí nhớ trở nên cằn cỗi rồi
gần như chết hẳn. Lú hết! Quên hết! Và dù có đôi khi nửa đêm tỉnh giấc, kỷ niệm
sống lại, hiện về, thì tôi cũng xua đi như những hạt bụi vô phước rơi trên chăn
lạnh, gối trơ, bởi vì tôi mệt quá, mệt tới mức tê liệt,bởi vì tôi bù tóc, ù tai
với cuộc đời hiện tại, với cuộc đời trước mắt của cái thủa khốn nạn ấy.
***
Anh Tín An, một nhà văn nổi tiếng, từng là sĩ quan quân lực
VNCH, cùng định cư ở Na Uy, và lại là láng giềng của tôi. Anh đã viết nhiều
truyện mang tính tự sự về đời chiến binh của mình: những truyện đầy éo le, bi
tráng, đầy nhân ái, nhất là nhân ái, có thể nói lòng thương các chiến hữu xuyên
suốt các truyện của anh. Và các câu như: “Tôi giúp anh ấy một món quà nhỏ.” hay
“Tôi ra bưu điện gởi cho chị ấy chút ít tiền” xuất hiện khá nhiều lần trong các
truyện của anh một cách tự nhiên như nắng phải chiếu lên lá, như mưa phải rơi
xuống đất. Anh được Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH ở Úc mời qua ra mắt sách và tiền
bán sách sẽ được gởi giúp các thương phế binh của QLVNCH. Úc là một nước mà nơi
đó Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH hoạt động còn rất mạnh. Được anh cho biết về chuyến
đi sắp tới, tôi nảy ra ý định gặp anh để nhờ anh giúp tôi một chuyện cần. Tôi
qua nhà anh chơi và, bên tách trà bốc khói, dưới ánh đèn mờ, tôi nhẩn nha kể
cho anh nghe chuyện tình giữa tôi với Ngọc Trai Đen, người hát bài The Dark
End of The Street ở Việt Nam, và rằng có nữ ca sĩ tên Emma Birdsall, người
Úc, cũng hát bài này trong phim Love Child, và cô giống y người
yêu Mỹ lai đen tôi xưa, và tôi nhờ anh khi qua Úc đi tìm tung tích người ca sĩ ấy
giùm tôi, anh hoan hỉ nhận lời ngay. Anh còn cho biết anh có nhiều bạn cựu sĩ
quan sống bên Úc và có con cái thành đạt, làm lớn trong xã hội Úc, nên anh sẽ
nhờ các bạn nói với con của các bạn ấy kiếm giùm. Quả vậy, chỉ sau mấy ngày sau
khi anh Tín An qua Úc, anh gọi điện thoại về cho tôi biết con trai của trung tá
Toàn, một doanh gia giàu có, có quen biết cô ca sĩ ấy, và cậu con trai còn cho
biết là không cần đi gặp cũng biết, là cô ca sĩ Emma Birdsall là một cô gái da
trắng, đẹp lộng lẫy, có thân hình sexy; cô có thể hát đủ mọi thể loại nhạc từ
nhạc kích động vui tươi cho đến nhạc Da đen blues buồn bã như khi cô ta
hoá trang như một cô gái da đen đáng thương, giọng khàn khàn, não nề hát bài The
Dark End of The Stree trong một phân cảnh quán rượu trong phim Love
Child.
Nhà văn Tín An còn cho biết anh còn có mấy buổi ra sách nữa ở
các tỉnh khác có đông người Việt. Nghe anh nói thế, trong đầu tôi lại hiện ra
hình ảnh người đàn bà bán thuốc chợ trời mà tôi cứ đinh ninh là phu nhân của một
sỹ quan QLVNCH nào đó, phu nhân đã gia ân cho tôi, và tôi kể chuyện bà ấy giúp
đỡ tôi cho anh ấy nghe. Không biết anh Tín An kiên nhẫn, hay thích thú (anh là
một nhà văn mà lại), anh nghe hết câu chuyện tôi kể khá dài, và khi kể xong,
tôi xin anh, sau bài thuyết trình của diễn giả, thay tôi nói lời cảm ơn cùng tạ
tội của tôi muốn gởi đến vị phu nhân mà tôi chưa kịp biết tên; bà có thể đếntham
dự buổi ra mắt sách của anh. Tôi sẽ gởi nội dung lời tôi muốn gởi gắm bằng điện
thư, qua cho anh. Anh Tín An vui vẻ đồng ý và hứa là sẽ cố gắng giúp tôi.
Trong điện thư của tôi, tôi ngắn gọn kể lại hoàn cảnh tôi gặp
người nữ ân nhân ấy, người đã cứu đời tôi hai lần trong hai giai đoạn: kiếm chỗ
an toàn cho tôi ở chui, và sau đó nhờ em trai đưa tôi xuống xuồng tắc xi, rồi
đưa ra thuyền đi vượt biên thành công, và trước khi xuống thuyền, em của bà
không đưa cho tôi địa chỉ của bà ấy; ông em ấy không thể quên vì ba cây vàng là
một món lớn. Từ ngày ấy tôi coi phu nhân là thánh nữ của tôi trong đời tôi, và
mỗi lần nhìn được sao mai, sao hôm tượng trưng cho Mẹ Maria chỉ đường dẫn lối vốn
chẳng mấy khi xuất hiện trên bầu trời Na Uy thường lắm mây mù, khói tuyết, tôi
luôn xướng lên lời ngợi khen, cảm tạ hướng về Mẹ Maria thì ít mà về phu nhân
bán thuốc ở chợ trời Khánh Hội ấy thì nhiều:
Thế mà tôi đã bao năm nay đã không từng đi kiếm bà để được,
mặt đối mặt, cúi đầu cảm tạ bà.
Tối hôm sau buổi ra mắt sách ở thành phố Melbourn, anh Tín
An gọi điện thoại cho tôi và nói là anh sáng nay, trong buổi ra mắt sách, anh
đã trước hết giới thiệu một chút về tôi và sau đó đọc y nguyên điện thư của tôi
đã gởi cho anh; và anh nói anh thấy sáng nay có hàng trăm cựu quân nhân, sĩ
quan và thân nhân đến dự, nhưng đặc biệt anh thấy có một bà ngồi ở cuối phòng với
một người đàn ông mặc quân phục lính Thuỷ Quân Lục Chiến đang ngồi trên xe lăn,
già cỗi và khô héo như thể những gian lao, nhọc nhằn ngày tháng cũ chưa chịu
buông; bà mặc chiếc áo dài lụa trắng, có thân dáng, thần thái như tôi đã diễn tả
cho anh, và anh có thể thấy cả cái nút ruồi duyên nhỏ bằng một phần tư hạt đậu
xanh nơi mép trái và cái má lúm đồng tiền một bên, mà tôi đã lưu ý anh, dầu bà
đang ngồi với chồng cuối phòng khá xa. “Mắt tôi đã kém nhiều vì tuổi tác. Tôi
không ngờ tôi có thể thấy hai dấu hiệu đặc thù mà nhỏ đó ở một khoảng cách xa
như thế; có lẽ nhờ khuôn mặt bà ấy toả sáng. Tôi nhớ là khuôn mặt bà ấy sáng
lên khác thường.” Và anh kể tiếp: Sau khi nghe anh đọc xong lời nhắn gởi của
tôi, bà ấy lấy tay lặng lẽ chặm nước mắt bằng vuông khăn cũng lụa trắng, chặm
nhiều lần, rồi khi buổi ra mắt sách kể như kết thúc, bà làm dấu thánh giá, lấy
khăn lau nước mắt lần nữa, rồi cúi xuống nói nhỏ điều gì đó với người đàn ông,
và bà, lặng lẽ mà vội vã, đẩy xe lăn có người đàn ông đang ngồi qua cửa hông mà
ra bãi đậu xe, trong khi các sĩ quan, binh sĩ của Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH và
thân nhân vẫn còn nán lại vừa nhâm nhi trà, uống cà phê và vừa hỉ hả nói chuyện
với nhau và với anh Tín An. Và anh nói thêm: “Tôi chỉ cần chạy theo ông bà ấy,
thời sẽ biết bà ấy là ai, ông ấy là ai và ông ấy là gì của bà ấy, hoặc hỏi những
người đang nói chuyện với tôi, nhưng tôi lại không làm như thế. Tôi xin lỗi anh
về chuyện tôi đã không làm như vậy.” Nhưng tôi nói: “Em cũng sẽ hành xử như anh
thôi. Anh không có việc gì mà phải xin lỗi em. Em phải cảm ơn anh mới phải.”
Và tôi càng cảm phục nàng; cảm phục, nhưng lòng đau đớn vô
ngần.
Anh em vượt biên cùng thuyền với tôi, mỗi năm, hẹn nhau họp
mặt một lần vào dịp Lễ Giáng sinh. Năm nay chúng tôi hẹn họp mặt ở Mỹ, tại nhà
anh chị Lộc ở Garden Grove.
Tôi đi xem trung tâm Phúc Lộc Thọ nổi tiếng cho biết. Nhiều
tiếng cười, nhiều tiếng nói hơn đường phố ở Oslo nhiều. Tôi đang ăn tô phở khổng
lồ mà tôi hằng mơ ước và quyết ăn cho kỳ được trong chuyến đi chơi Mỹ Quốc này.
Tôi vừa ăn vừa thích thú nghe tiếng người người qua lại nhộn nhịp mà tôi chẳng
mấy khi được nghe ở Na Uy. Trong những nhộn nhịp hân hoan ấy, tôi nghe có tiếng
hát thánh ca Noel, tiếng Mỹ, giọng nam, khuyếch đại qua loa, rồi bỗng có tiếng
của một người nữ nói là cô xin phép hát thay anh John một bài trong khi anh nghỉ
giải lao uống cà phê, và cô nhập đề cho bài hát của mình như sau:“Chúa Hài Đồng
vừa sinh ra được mấy ngày thì Thánh Giuse và Mẹ Maria đã phải bồng Chúa trốn
qua Ai Cập vì vua Hêrốt lùng bắt để giết cho được Chúa*. Anh John đã hát nhiều
bài về Lễ Chúa Giáng Sinh, nay tôi xin hát bài The Dark End of The Street
củaChips Moman và Dan Penn diễn tả chuyện con người ngày nay, sau hai ngàn năm,
vẫn còn phải trốn chạy trước lực lượng bóng tối.” Và cô ta bắt đầu cất tiếng
hát; một luồng gió man dại ùa vào hồn và hốt lấy hồn tôi. Tôi bỏ tô phở đang bốc
khói thơm hương vị quê cũ, sóng sánh vàng những ngọt béo trần gian, chạy thật
nhanh về phía tiếng hát; tiếng hát này đây, giọng hát độc đáo cho riêng tôi,
đang rên xiết từ đằng kia. Và khi tôi đến nơi phát ra tiếng hát, tôi thoáng thấy,
qua những quãng trống dọc của đám người đang đứng nghe, một cô gái có nước da
ngăm ngăm, tươi, trẻ đang hát hết mình; những mạch máu chủ nơi cổ cương, cong
lên như những con trùng lớn đang cố quẫy đạp để bung ra. Rồi tôi quỵ xuống, hay
đúng ra, tôi quỳ xuống sau vòng tròn khán giả bao quanh cô ca sĩ, không phải vì
mệt, nhưng vì tôi có linh tính là mình đang chứng kiến một khả thể nhiệm màu,
và một phép lạ to lớn sẽ được ban cho tôi. Cô gái hát xong, anh ca sĩ hát rong
lấy lại micro và lại hát những bài thánh ca cổ truyền êm đềm, buồn buồn dĩ
vãng.Người nghe hát dãn dần, cuối cùng chẳng còn ai, chỉ còn tôi gục tại đó. Cô
gái hát lúc nãy chạy lại bên tôi, cúi xuống hỏi, bằng tiếng Mỹ:
“Ông có sao không?”
Tôi nói không ra hơi:
“Không sao, tôi không sao… mà cô hát hay quá. Hay và làm tôi
đau đớn…” - Lời tâm sự có vẻ vô duyên giữa nơi đô hội tấp nập kẻ qua người lại.
Cô nhỏ dịu dàng:
“Hình như ông là người Việt Nam?”
Và sau khi tôi gật đầu xác nhận, cô lại vẫn dịu dàng:
“Người Việt Nam nào cũng có nỗi đau đớn cả vì họ đã chịu nhiều
đau thương, đủ thứ đau thương.” – Một lời an ủi không đâu bên vệ đường lũ lượt người
xa lạ. Và cô tiếp tục vỗ về: “Tôi xin phép ông cho tôi dẫn ông vào quán nước
kia để ngồi nghỉ một chút, rồi ông hẵng đi.”
Và không cần phải hỏi cô sao cô biết tôi là người Việt Nam,
tôi đồng ý ngay.
Cô nhỏ hỏi thăm đủ chuyện về tôi. Tôi khen cô khéo ăn nói.
Cô cười:
“Tôi làm nhân viên xã hội, chuyên giúp người gặp khó khăn,
thưa ông.”
Và cô nhỏ nói nhiều chuyện khác. Và chen vào những hỏi han
có vẻ thân tình của cô, tôi hỏi về gia đình, sinh hoạt chung chung của cô, và
cô cho biết mẹ cô là một cô con gái người Việt lai Mỹ đen được nhận theo diện
con lai, và đã bồng cô qua đây, với bà ngoại. Mẹ cô đã học tốt nghiệp ngành sư
phạm, môn tiếng Pháp, và đã hành nghề giáo dục ở Mỹ, và sau khi cô bắt đầu vào
đại học, mẹ cô đã qua Sénégal làm giáo viên dạy tiếng Pháp bên ấy, và dạy đã được
năm năm. Mẹ cô rất thích ở bên ấy vì thấy mình hữu dụng, và vì thấy đó mới
chính là quê hương mình. Mẹ nói mẹ đã an cư lạc nghiệp theo nghĩa thể lý cũng
như tâm hồn. Mẹ không đi tu mà cũng như đi tu.
Tim tôi bắt đầu đập lỗi nhịp, nhưng tôi cố tiếp lời cô, và
tôi kể là hồi tôi ở Việt Nam, tôi có tạm trú trong một khu phố nghèo, tên là
Khánh Hội, trong nhà một ông y tá tốt bụng để được chích thuốc lao và trốn công
an VC, và trong căn nhà trọ đó, tôi gặp và yêu một cô gái Việt lai Mỹ đen,
nhưng tôi, vì lý do bất khả kháng, đã ra đi mà không thể báo cho người yêu ấy,
tôi ân hận hết sức. Con nhỏ tròn xoe mắt, hỏi:
“Vậy cô ấy tên gì, thưa ông?”
Tôi bối rối trả lời:
“Tên tiếng Mỹ là Snow White, tên Việt là Ngà, nhưng tôi vẫn
gọi cô ấy là Perle Noire, là Black Pearl trong những ngày gặp gỡ ngắn ngủi ấy.”
Cô nhỏ bỗng hào hển như đang lên cơn suyễn.
Tôi rán kể tiếp:
“Cô ấy hát cho tôi, hát tuyệt hay bài The Dark End of The
Street mà chính cô đây đã hát lúc nãy ngoài kia. Cô hát giống y như cô ấy
hát ngày xưa. Tôi đang ở đằng xa kia, nghe tiếng hát bài này, vội chạy đến,
nghĩ là biết đâu lại gặp được Perle Noire tội nghiệp của tôi trong Mùa Ân Phước
này…”
Nghe tới đây, cô gái nắm chặt hai bàn tay mình vào nhau, bóp
bóp như đang giận thì giận mà thương thì thương, và cúi xuống, khóc nghẹn ngào,
rồi nức nở, rồi khóc to, rồi nấc lên từng tiếng:
“Ba ơi! Ba ơi!” Bằng tiếng Việt hẳn hoi.
3. Kết truyện:
Trên đây là tấm hình Ngọc Trai Đen chụp các em học sinh cùng
các thầy, cô trong một trường của các dì phước, nơi nàng đang dạy tiếng Pháp, ở
nước Senegal, tại một bản làng rừng núi xa xôi, trong một bữa tiệc mừng Lễ
Giáng Sinh. Sau khi con gái chúng tôi thay tôi gởi thư thăm dò trước kể lại
chuyện hai cha con gặp nhau, nàng chỉ gởi cho con gái chúng tôi tấm ảnh này, với
lời chú ở mặt sau như sau:
Khi bạn may mắn hơn người khác, bạn nên làm một cái bàn
dài hơn, và chớ có dựng cái hàng dậu cao hơn.–Ngạn ngữ Sénégal
Hàng dậu cao chính là tôi, chớ ai trồng khoai đất này?, và
cái bàn của tôi, thì ngắn chưa đầy gang.
Quý độc giả cũng thấy đó: Hai nửa-kia thương người đến như
thế, thì tôi đành phải đứng xa mà ngó, vì so với các nàng, tôi bây giờ chỉ là đồ
bỏ. Và trước những tấm lòng cao cả cỡ đó thì Chúa Hài đồng, Mẹ Maria cũng chịu
thua không giúp được gì tôi nếu tôi có cầu cứu Các Ngài, vì chính Các Ngài, mà
từ đó hai nàng được tưới tràn trề lòng thương xót, là hiện thân của Tình Yêu vô
lượng hải hà dành cho mọi người dưới thế, chứ đâu phải chỉ cho riêng tôi. Rồi
Thần Apollo cũng không thể khâu vá lại được những vết thương cả cũ lẫn mới của
tôi, và vết thương mới này, khổ thay, lại quá lớn, quá sâu, và không phải chỉ một
mà là hai.
Oslo, Mùa Giáng Sinh 2021
Nguyễn Văn Thà
Chú thích:
* Truyện có tính cách tự sự, nhưng tất cả các chi tiết
đều là hư cấu.
*Theo Kinh Thánh Tân Ước: Vì có lệnh vua Hêrốt lùng và bắt
giết các trẻ sơ sinh vì các đạo sĩ hứa với vua sẽ trở lại báo cho vua nơi sinh
của Vua Do Thái/Chúa Giêsu, như vua Hêrốt đã dặn, nhưng các đạo sĩ được thiên
thần của Chúa báo mộng là đừng trở lại gặp vua vì ông ta sẽ đến nơi Chúa Hài Đồng
sinh ra và giết Ngài; và các vị đã theo đường khác mà về nước mình.
*Xin xem bài thơ Femme Nude, và bài La Negritude
của Léopold Sédar Senghor (1906-2001), thi sĩ người Sénégal nói tiếng Pháp, ông
cũng là Tổng thống nhiều năm của Sénegal.
*Thơ Trần Mộng Tú
*Có thể nghe Emma Birdsall hát ở đây:
https://www.youtube.com/watch?v=AlOaQ2EjqKE
hay nghe James Carr hát ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=HC3AXQ8dPJM
*Thơ Hàn Mặc Tử