Một vụ xử bắn của chính quyền cộng sản Việt Nam.
Lại một lần nữa ngày 30 tháng 4 lại về. Năm thứ 47 sau ngày
miền Nam thân yêu bị cộng sản miền Bắc cưỡng chiếm, một chế độ độc ác man rợ thắng
một xã hội văn minh nhân bản. Tôi viết những dòng chữ này để tưởng nhớ đến những
người chưa một ngày khoác áo lính nhưng vẫn chiến đấu âm thầm nhưng kiên cường
chống lại sự cai trị bất nhân của một trong những chế độ độc tài dã man nhất
còn sót lại trên trái đất này: Chế độ cộng sản Việt Nam. Đất nước nào cũng vậy,
trong trang sử nước nhà, ngoài những người được ghi tên vào sử sách, còn có những
anh hùng vô danh, sống lặng lẽ, chết âm thầm; nhưng sự hy sinh của họ là những
dấu ấn bằng máu chỉ được truyền miệng và ẩn sâu trong lòng người dân yêu tự do.
Chuyện xảy ra vào cuối thập niên 80 ở ngôi làng quê thuộc huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa. Trước đó gần 10 năm, có một gia đình từ Sài Gòn dọn về ở trong xóm tôi, cách nhà tôi vài căn ở phía sau, họ không có vẻ gì đặc biệt, hai ông bà già dáng gầy gò, khắc khổ khoảng trên 50 tuổi, 2 đứa con trai tên Khôi và Hòa, và một bé gái khoảng 10 tuổi. Người anh tên Khôi lớn hơn tôi vài tuổi, còn Hòa có lẽ bằng tuổi tôi. Họ sống khép kín, lặng lẽ, âm thầm, kín đáo, ít giao tiếp với hàng xóm. Chỉ biết người hàng xóm kế bên gọi tên người cha là ông Trãng, một cựu quân nhân VNCH, không biết binh chủng và cấp bậc gì. Bác gái thì lặng lẽ trong nhà không bao giờ chuyện trò với hàng xóm, ngoài việc ra chợ làng từ lúc trời còn tối mù chưa rõ mặt người.
Hồi đó, đám thanh niên trong xóm chúng tôi không mấy ưa hai
anh em nhà này vì nghĩ họ phách lối, ỷ dân Sài Gòn, chắc có ít tiền của, làm bộ
về quê mua ruộng rẫy để che mắt chính quyền. Họ không thân thiện, gần gũi với
xóm giềng. Bác trai và 2 người con trai, sáng vác cuốc ra ruộng hay lên rẫy,
chiều chạng vạng về nhà, cửa đóng then cài. Ánh đèn dầu sáng lên trong căn nhà,
không ai biết họ đang làm gì bên trong. Được cái là họ không bao giờ phiền hà
hay làm mất lòng ai. Nói chung cuộc sống gia đình họ biệt lập với mọi người dân
ở đây.
Trong làng có một quán cà phê do hai chị em Nguyệt và Nga ở
Thủ Đức về mở, hai cô khá đẹp, cỡ trạc tuổi tôi, với lối ăn nói khéo léo, quần
áo lịch sự, và cách bày biện trong quán rất nghệ thuật nên lôi kéo nhiều thanh
niên trong làng. Anh em Khôi và Hòa không bao giờ đi uống cà phê ở quán này như
chúng tôi. Thời đó còn trẻ, cơm chiều xong, hay tôi hay ghé quán kêu ly cà phê,
ngồi đồng để ngắm hai cô chủ xinh xắn dễ thương.
Thỉnh thoảng tôi và Hòa gặp nhau đầu ngõ, chỉ vẫy tay chào
thật nhanh, không bao giờ trao đổi một lời, rồi đường ai nấy đi. Bạn bè tôi
cũng cùng một cảm nghĩ, chúng tôi không hề có cảm tình với gia đình họ. Vài năm
sau, Khôi cưới vợ, một cô gái xinh xắn đạo Công giáo ở cuối xóm. Tôi cũng dần
quên đi sự có mặt của gia đình họ trong cái xóm đạo nghèo xơ xác này khi chính
tôi cũng muốn xa rời lũy tre làng, không muốn sống mòn trong cái xó xỉnh nhà
quê này, cái vùng đất đi mắc núi, trở về mắc sông.
Rồi những năm gần cuối thập niên 80, khi đó tôi vừa trốn trại
tập trung cải tạo về được khoảng 2 năm và vẫn đang lang thang trên đất Sài Gòn,
sống trốn chui trốn nhủi, không dám ngủ trên cùng một cái giường quá 3 đêm; tôi
sẵn lòng làm bất cứ việc gì người ta mướn mong nuôi được bản thân sống qua
ngày. Từ đạp xích lô cho đến đi bỏ mối rượu lậu, làm cơm rượu nếp than cho đến
thu mua giường sắt cũ, không còn nghề gì tôi không làm. Tương lai không lối
thoát. Không hộ khẩu, không một tờ giấy căn cước công dân. Tôi sống như một kẻ
lưu đày ngay trên mảnh đất quê hương mình, nơi mình được sinh ra, đi học, và lớn
lên.
Tôi viết không phải để tự than thân trách phận vì tôi hiểu,
quanh tôi còn nhiều người cũng lâm vào hoàn cảnh khốn cùng như, hoặc tệ hơn
tôi, họ chỉ may mắn hơn tôi là còn có gia đình, mái ấm để mà về; còn tôi vẫn
như một gã du mục không có một nơi để dừng chân, không có một mái nhà, một vòng
tay yêu thương để gối đầu khi sức cùng lực kiệt, khi bệnh hoạn ốm đau. Những
ngày cuối năm khi mọi nhà chuẩn bị đưa ông Táo về trời, đón thêm một cái Tết buồn
bã trong khó nghèo, chật vật; tôi vẫn cô độc, tủi thân lang thang trên các nẻo
đường thành phố, nhìn thiên hạ xôn xao đón Tết mà lòng mình thì ước mơ một bếp
lửa gia đình.
Đi ngang qua những ủy ban và công an phường với đèn sáng rực,
những tên ác ôn cổ nung núc mỡ, mắt híp lại vì ăn uống thừa mứa, trong đồng phục
vàng màu da bò, đang cười nói ồn ào; những tòa nhà mặt tiền bị đám người ngoài
kia hay những tên cộng sản nằm vùng ngày trước đang chiếm ngự, họ ăn ở dơ bẩn,
phơi quần áo trên lan can và hắt nước xuống mặt đường. Có nhiều khi cuộc sống bế
tắc, tôi chợt có ý tưởng hay mình làm liều, thí mạng cùi của mình đổi lấy chục
tên công an đáng ghét kia, chứ sống mòn như thế này rồi cũng từ từ chết hiu quạnh
trong một trại tù nào đó mà thôi. Nhưng kiếm đâu ra vài trái lựu đạn hay ít thuốc
nổ? Ý tưởng đó cứ ám ảnh tôi nhiều ngày, nhưng cuộc đời đẩy đưa, lo bận rộn kiếm
sống và vì hèn nhát tôi để mặc dòng đời cuốn đi theo may rủi phận người.
Đêm giao thừa 30 Tết, lang thang trên đường phố, trời không
lạnh sao lòng tôi chợt cô đơn rét mướt, cứ lang thang đi hết đường này qua ngõ
khác nhìn thiên hạ xao xác, bận rộn ngược xuôi ngày cuối năm mà tủi phận không
nhà. Tôi ghé nhà bà chị họ để lấy tin tức của gia đình. Ông anh rể họ đưa tôi
coi một thiệp cưới, sau Tết ba má tôi sẽ gả chồng cho đứa em gái út ở dưới quê
nghèo năm nào tôi đã rời bỏ. Tôi không còn nhớ chính xác, đã lâu lắm rồi, từ
trước khi bị tù, rồi sau khi trốn trại, tôi chưa một lần về thăm nhà, thoáng
cái mà đứa em gái nhỏ ngày nào giờ sắp lấy chồng. Trong tôi nhen nhúm một ý tưởng
táo bạo.
Tôi đạp chiếc xe thồ cọc cạch về bến phà Cát Lái lúc trời bắt
đầu chạng vạng tối để tránh gặp người quen, tôi bước xuống phà qua sông đến xã
Phú Hữu, tiếp tục đạp xe qua ấp Cầu Kê, ấp Đồng Phèn về đến chợ Phước Lý. Tôi gởi
xe nơi nhà một người bạn, chờ thật khuya, tôi mượn nó cái nón làm rẫy đội lên đầu
xùm xụp, rồi nhờ nó chở tôi hơn 3 cấy số, vượt qua Dốc Lớn về đến làng quê nơi
ba má tôi đang sống. Tới cuối làng, tôi cám ơn và tạm biệt nó, rồi lầm lũi đi bộ
về nhà trong đêm tối.
Từ xa, tôi có thể thấy cái cổng của ngôi nhà quen thuộc của
mình được thắp sáng bằng 2 ngọn đèn neon, ánh sáng trắng soi rõ cổng được trang
hoàng bằng lá dừa với hai chữ vu quy đỏ thắm. Trong gian nhà chính, vẳng ra tiếng
cười đùa thưa thớt. Giờ này bà con chòm xóm đã về hết, chỉ còn lại vài người bà
con gần gũi ở lại để phụ giúp nấu nướng cho bữa tiệc ngày mai trước khi đưa dâu
về nhà chồng. Quan sát thật kỹ, thấy không ai chú ý, tôi bước nhanh vô cái chái
nhà bên phải được dùng làm nhà bếp. Ở đây một ngọn đèn dầu nhỏ trên kệ lù mù
không soi sáng nổi căn bếp. Ngọn lửa của một bếp lò đang cháy, bập bùng soi lên
vách những hình ảnh chập chờn nhảy múa, hình như ai đó đang nấu một nồi cháo
lòng khá lớn, mùi lòng heo bay tỏa lên không gian khiến tôi đói bụng. Không ai
chú ý đến tôi đang ngồi chồm hổm im lìm, đầu cúi xuống với cái nón vải sùm sụp
trên đầu, điếu thuốc cháy đỏ trên tay.
Tôi lặng lẽ quan sát chung quanh và kín đáo liếc nhanh lên
nhà trên đề phòng lỡ ai đi xuống bếp. Một vài người bà con chào ra về. Giờ này
chỉ còn gia đình đang dọn dẹp và chuẩn bị đi ngủ để mai còn dậy sớm nấu nướng.
Tôi nghe tiếng má hỏi to có đứa nào tắt bếp nồi cháo chưa. Miệng nói, chân bà
đi xuống bếp và thấy có người ngồi thu lu trước bếp lò. Bà cúi xuống hỏi:
– Đứa nào giờ này còn ngồi đây?
– Con nè má.
Vừa nói tôi vừa nắm bàn tay ấm nóng của má tôi mà lòng thổn
thức, thương má quá, chẳng biết nói gì. Má tôi thì thào:
– Giê Su Maria, lạy Chúa tôi, mày đó hả T.? Mày về hồi nào?
Có đứa nào thấy mày không? Ăn gì chưa con? Má làm cho con tô cháo lòng nhé.
Má tôi hỏi một hơi không kịp thở, tôi nhẹ nhàng trấn an bà
nói tôi nhớ nhà quá nên liều về 1 phen và cũng nhân dịp đám cưới em gái út. Tôi
cũng cho bà hay tôi đang chờ đợi một chuyến đi có thể đến bất cứ lúc nào, tôi sợ
không còn dịp nào về gặp gia đình. Má tôi lo sợ nhìn quanh rồi bước lên nhà
trên. Vài phút sau, tôi thấy ba tôi ra đóng cổng cài then chặt chẽ. Sau đó ông
bước vào nhà, đóng cửa trước lại. Má tôi vẫy tay ra hiệu, tôi hiểu ý, bước thật
nhanh lên nhà và đi theo má tôi qua chái nhà bên trái, nơi có cái bồ lúa của
gia đình. Một lúc sau, ba tôi bước vào với cái chiếu và 1 cái mền. Cha con chỉ
kịp nắm tay nhau, hỏi han nhau một chút rồi ba tôi vội vã cầm cây đèn pin bước
đi một vòng chung quanh nhà coi có ai rình rập bên ngoài hay không.
Tôi vội vàng vén gọn những đồ đạc linh tinh và trải cái chiếu
lên trên bồ lúa. Ba tôi dặn dò nếu có gì tùy nghi ứng biến, đừng để bị bắt. Tôi
bước ra nhà ngoài ngồi ăn tô cháo lòng nóng hổi, trò chuyện với cô em út và ba
má tôi đến thật khuya. Sau đó, tôi bắc cái ghế leo lên bồ lúa nằm thao thức suy
nghĩ vẩn vơ rồi từ từ chìm vào giấc ngủ.
Tôi bị đánh thức bởi tiếng súng nổ liên hồi như đụng trận, một
tiếng lựu đạn nổ rất lớn, và tiếng chân người rầm rập chạy ngoài đường pha lẫn
tiếng hò hét vang một góc trời. Tôi điếng người than thầm chắc tới số rồi. Có lẽ
đám công an xã được mật báo tôi về thăm nhà nên chúng rình rập và theo dõi tôi,
chờ đến khuya thì ập vô bắt. Nhưng sao chúng lại bắn nhiều đến kinh hồn như vậy?
Bắt một mình tôi đâu cần thiết phải bắn nhau như đụng trận? Tôi hối hận quá và
tự nguyền rủa mình ngu dốt đâm đầu về làm chi cho chúng bắt. Kinh nghiệm thằng
bạn vượt ngục chung đã bị bắt lại năm trước cũng vì nó nhớ mẹ về thăm nhà. Tôi
nhảy ra khỏi bồ lúa, kéo then cửa sổ, tư thế sẵn sàng, nếu bọn chúng vô tới sân
nhà, tôi sẽ phóng ra lối cửa sổ, nhảy rào qua nhà hàng xóm, rồi chạy băng về hướng
nghĩa địa. Đợi hồi lâu vẫn không nghe tiếng la hét mở cửa khám nhà và tiếng
súng, tiếng chân người từ từ xa dần.
Ba tôi chạy vào ghé tai thì thầm “du kích xã và bộ đội đang
đuổi theo ai đó, chứ không phải chúng đến đây bắt con”. Hình như bọn “phản động”
có vũ khí đang bắn trả lại dữ dội. Đám công an, du kích xã và huyện đội đang
bao vây nhà bác Trãng, chúng la hét kêu ra đầu hàng, sẽ được tha mạng. Tôi tỉnh
hẳn và cố lắng tai nghe trong lúc tâm hồn đang bấn loạn vì cái ách giữa đàng, lại
mang vào cổ. Ba tôi chạy qua hàng xóm lấy tin tức rồi về cho hay cứ ở yên trong
bồ lúa, tuyệt đối đừng ló đầu ra. Ba khuyên tôi tốt nhất đừng ra khỏi nhà ít ra
trong vài ngày nữa. Ông cho hay hai đứa con trai gia đình bác Trãng bị thương,
cố chạy được về tới nhà và cố thủ trong đó. Đám lính cộng sản rượt đuổi tìm đến
tận nơi và đang bao vây căn nhà.
Chúng siết chặt vòng vây, súng ống lăm lăm, tay cầm loa kêu
đầu hàng, một con kiến chui ra cũng không lọt. Dân làng chỉ dám đứng trước cửa
nhà mình ngó về hướng nhà bác Trãng. Sau hơn một giờ, hai anh em Khôi, Hòa ra đầu
hàng. Bọn chúng nhảy bổ vào khóa tay và đè hai anh em xuống đất, báng súng
giáng xuống tới tấp lên hai thân thể đã mềm nhũn, hòa với máu me lênh láng,
không ai biết anh em họ còn sống hay đã chết, theo lời kể sau này của tên công
an ấp, một người Công giáo làm tay sai cho cộng sản. Đám côn đồ xông vào nhà
lùa tất cả gia đình vào một góc, nạt nộ lớn tiếng, tra hỏi và đe dọa phải giao
nạp vũ khí chôn giấu ở đâu, khai ra, không thì bị bắn bỏ.
Cả gia đình không một tiếng khóc lóc hay than van, chỉ một mực
nói không biết việc làm của hai đứa con. Bác trai bị trói nằm kế bên vợ và cô
con gái đang co rúm mắt đỏ hoe. Chúng lôi bác Trãng sền sệt trên nền nhà, bắt
bác phải theo chúng lên trụ sở xã và nhốt bác ở lại đó. Ngay trong đêm, hai anh
em bị trói quặt tay chân dính vào nhau, vết thương không được băng bó, bị quăng
lên xe, chở lên huyện.
Đêm hôm đó, tôi thức trắng đêm vì biến cố vừa xảy ra quá bất
ngờ, lo lắng tìm cách phải đi ra khỏi nơi đây bằng mọi giá nhất quyết không để
bị bắt lại. Tôi biết chắc bọn chúng sẽ lập những chốt kiểm soát tất cả các đường
ra khỏi xã. Ba má tôi khuyên nên ở yên một chỗ, ông bà khóa cửa ra vào bồ lúa.
Má tôi đích thân lo cơm nước, tôi như ngồi phải lửa, không thể đứng yên một chỗ.
Sau 5 ngày, ba tôi đạp xe đi thám thính trước tất cả những
con đường mà tôi có thể phải đi qua. Tôi rời nhà vào lúc 3 giờ sáng, xuống bến
ghe, lúc này đã có nhiều ghe thuyền đi lại, tôi chèo lái, ba tôi chèo mũi. Tôi
ra sức chèo ào ào, chiếc ghe nhỏ lướt nhanh trong bóng đêm đen, luồn lách dưới
những tàng cây Bần, cây Đước. Mùa này nước mặn bắt đầu xâm lấn nên cánh đồng
lúa hai bên bờ sông đã gặt xong từ tháng trước còn trơ lại gốc rạ hiện ra mờ mờ
chạy về phía sau lái thuyền. Hơn một giờ, chúng tôi cặp bến ghe chợ Phước
Khánh. Ba tôi trở về, tôi đón phà qua Nhà Bè và đón xe lam lên Sài Gòn. Một
phen hú hồn và nhớ đời. Tội tự nhủ “một lần cho tởn tới già, chớ đi nước mặn mà
hà ăn chân”.
Những ngày tháng ở Sài Gòn, tôi vẫn theo dõi vụ án của hai
anh em Khôi và Hòa qua báo chí chính quyền cộng sản và qua lời kể lại của người
nhà. Tôi mới hay hai người anh hùng này đã gây ra nhiều vụ làm đau đầu chính
quyền huyện Long Thành và vùng dọc quốc lộ đi Bà Rịa, hai anh em âm thầm tiêu
diệt các chốt kiểm lâm, du kích xã, vì đám cướp ngày này chuyên bắt bớ, tịch
thu sạch sẽ những hoa màu của dân làm rẫy chở từ trong rừng về nhà. Khi bọn côn
đồ bắn trả lại, để tự vệ, hai anh em giết chết một số trong bọn đó. Họ chờ đêm
xuống mới tấn công nên không ai rõ được mặt. Bọn công an và huyện đội tương kế
tựu kế, gài bẫy nên hai anh em lọt vào ổ phục kích của chúng ngay cái đêm tôi về
thăm nhà.
Tôi không còn nhớ chính xác lắm, hình như một thời gian ngắn,
công an tỉnh Đồng Nai đem hai anh em Khôi-Hòa ra xử bắn. Chúng không cho gia
đình thăm nuôi trong thời gian bị nhốt và cũng không thông báo ngày giờ hành
quyết. Gia đình chỉ nhận được thông báo cho hay đã xử bắn. Hai bác có lên xin cải
táng đem tro cốt con về, nhưng chúng không cho phép.
Năm nào cứ vào tháng 4, tôi lại nhớ về tất cả những người
lính Việt Nam Cộng Hòa đã nằm xuống vì đất nước, đặc biệt nhớ đến hai anh em
Khôi-Hòa, hai người anh hùng thầm lặng sống cùng xóm, đã sống lặng lẽ, chết âm thầm.
Tôi xin kính cẩn đốt nén hương tưởng nhớ tất cả hương hồn các vị anh hùng liệt
sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Một ngày không xa, đất Mẹ sẽ hồi sinh với xương máu của
các con Mẹ đã và đang ghi vào sử xanh trong lòng dân tộc Việt.
Nguyễn Văn Tới (LT)
(4/2022)