Tàu rời cửa Thuận An lúc năm giờ sáng, cơn say chiều hôm qua
làm váng vất đầu óc. Mặc anh thường vụ đại đội lùa lính lên tàu, tôi leo vào
khoang trong sau buồng máy dựa lưng vào ba-lô nhắm mắt ngủ thiếp… Tiếng máy
tàu, cảnh vật hai bên bờ, ánh nắng đầu tiên của một ngày dịu dàng lời ru, thêm
vào đó bềnh bồng của men rượu và sông nước, tôi ngủ yên như trong cuộc rong
chơi. Nắng rọi vào mắt làm tỉnh ngủ, 6g45 sáng tôi ngồi hẳn dậy, đốt điếu thuốc
đầu tiên của một ngày nhìn bọt sóng sau mạn tàu, người hững hờ như đang rơi
trong khoảng trống lúc dù chưa bung. Cảnh vật hai bên bờ thật đẹp. Lật bản đồ :
Tàu đang đi vào địa phận đầm Thủy Tú. Bên trái Tây Vân Sơn, bên phải Hương Thủy,
Phú Thứ… Những ngày hè thuở nhỏ tôi cũng hay rong chơi trong những dòng sông đẹp
đẽ như thế này. Sông Cu Dê chảy ra biển ở Nam Ô dưới chân đèo Hải Vân. Tôi theo
con sông vào đến nội địa đất Quảng Nam con sông đầy cát, hai bên núi đựng nước
trong vắt, bóng núi in hình trên dòng sông tạo thành những ô cẩm thạch thật đẹp…
Thuyền chèo bằng mái làm vỡ những bọt nắng lung linh trên mặt nước. Tôi không
biết đường đến chùa Hương thơ mộng như thế nào, nhưng con sông Cu Dê đầy bóng nắng
của sớm mai tuổi nhỏ kia vẫn chảy hoài trong tôi như một mơ mộng không biên giới.
Sáng nay tôi cũng đang đi vào trong cảnh đẹp của quê hương nhưng lòng hờ hững
cơn say..
Tàu đến địa điểm đổ bộ, khu trục gọi đến “raser” một phát ; cả một làng đang
bình yên bỗng chốc biến thành biển lửa… Bốn chiếc FOM dàn hàng ngang chạy nhanh
vào bờ… Xuống; xuống, xuống thật nhanh, đem cái súng cối lên trước… Chậm như
rùa – Hiển “chó xù”, Trung-đội trưởng súng cối kê tôi ngay một phát – Vừa thôi
ông ơi. Nhảy Dù chứ phải Thủy-quân lục-chiến đâu mà ông bảo đổ bộ nhanh bằng mồm
ông được… – Kệ mẹ ông, chậm thì chết cả lũ bây giờ.
Tôi phóng mình xuống nước, ngập tới cổ đ…m – tôi chửi thề tùm lum – chưa gì
sáng mai đã phải tắm sớm! Đằng xa hai đại đội tác chiến đã lập một đầu cầu; tôi
tà tà lội vào bờ. Đại đội tôi đã lên đủ ; thấy tôi lên sau chót, thằng Phen xạ
thủ súng cối nói dỗi :
– Trung úy bảo tụi em chạy theo Trung úy mà bây giờ mới đến.
– C., tôi trả lời – đi theo đại đội trước…
Quân đi qua làng, làng thật nghèo và hoang vu, cát sẫm, gai xương rồng, luống bắp
cằn cỗi. Ôi sao cái đất của quê hương tôi tội nghiệp và thảm hại đến như vậy.
Đàn bà, ông lão bế con cái, cháu chắt ra đứng hai bên đường để đợi chúng tôi đi
qua. Họ chứng tỏ sự chân thành bằng cách có mặt. Vài ngôi nhà vừa cháy vì trận
oanh tạc vừa qua, người chủ nhà không thèm chữa vì biết rằng có chữa cũng vô
ích! Ngọn lửa tung hoành tự do, lan theo những đụn rơm lũy tre hừng hực…
Lũy tre già xao xác vặn mình đau.
Đàn súc vật lao đầu kêu tuyệt vọng…
…Ôi quê hương đắm chìm trong khói súng.
Có bao giờ được thấy bóng thân yêu.
Từ thuở 9 tuổi, không hiểu tại sao tôi đã thích bài thơ «Cháy quê hương» của một
tác giả vô danh, những câu thơ bình dị nhưng thiết tha của một lời van xin…
Lửa nghi ngút đốt ngang trời bão loạn
Mây điên cuồng phủ kín bóng quê hương.
Những cụ già tóc bạc khóc đau thương…
Sáng hôm nay, tôi cũng đang đi đốt quê hương, sáng hôm nay, tôi cũng đang đi
làm một tên lính viễn chinh trên phần đất mà tổ tiên đã bằng một nỗ lực phi thường
gây dựng nên trên bờ cát, trên dải ruộng đầy phèn chua, một quê hương đẹp như
trong cổ tích. Này con đường cái nhỏ in bóng tre, này cây đa, tha thướt, những
rễ phụ đẹp đẽ, này chiếc đầm xanh ngắt mờ mờ sương khói… Ôi! Tôi đi đốt quê
hương của tiền nhân, tôi đi cắt mạch máu của tổ tiên, tôi đi tàn hại, trên thân
thể đã tan hoang vì bom đạn của một dải đất nghèo tên gọi là Thừa Thiên
– Này ông già có nhà cháy, sao «ôn» không khóc ? … – Khóc làm chi nữa «en» ơi !
Nhà cháy ba lần, con đi lính gãy chân nằm ngoài Mang Cá; giặc Tây lúc xưa «đút»
nhà hai lần, giặc ni «đút» ba tần… còn chi mà khóc nữa «en» ơi
– Ông ở đây với ai ?
– Với hai thằng cháu này, cháu kêu tôi bằng ông nội…
Ông nội ơi; lúc xưa tôi cũng có một bà nội, bà nội thật già tóc bạc trắng, mỗi
một buổi chiều để dành cái bánh đa để thằng cháu sau khi ngủ dậy có cái ăn. Bà
nội thương cháu, ấp ủ cháu lớn lên với đời, che chở cho cháu vì «hắn thiếu
cha». Tôi được nuôi lớn lên bằng tình thương, được đặt tên là «Mặt trời của nước
Việt Nam». Bố mẹ đâu có biết đứa con sau này lại về quê hương như một kẻ xa lạ,
đắm mình trong tột cùng của cuồng nộ và điên mê.
– Trung úy cho phép tôi tới đằng cái nhà kia một lát – người lính Địa Phương
Quân của chi khu Phú Thứ thuộc thành phần tăng phái cho chúng tôi để nhận diện
du kích hoặc người tình nghi trong vùng. Chúng tôi đang hành quân trong lãnh thổ
của chi khu này
– Anh đi láng cháng coi chừng đạp phải mìn «chân tay biệt ly» thì đời tàn…
– Không sao đâu Trung úy, tui người vùng này mà, nhà anh tui chỗ đó.
Người lính đi một lát trở lại với hai đứa bé, một đứa khoảng sáu tuổi, đứa kia
hơn ba.
– Con ai đây ?
– Dạ, cháu kêu bằng chú, cha tụi hắn chắc đi theo mặt trận, mạ hắn trốn đâu
không thấy.
– Bây giờ anh đem nó theo?
– Dạ… – người lính yên lặng xốc thằng nhỏ trên vai xuống, móc túi lấy mấy chiếc
kẹo nhà binh đưa cho hai đứa bé. Thằng lớn cầm lấy chiếc kẹo, tần ngần một lát:
– Chú cho cháu ăn cơm, đói lắm .
Người lính móc từ ba-lô nắm cơm gói bằng giấy báo, hai đứa bé ăn trong nháy mắt
; thằng lớn cầm mảnh giấy trong hai tay lè lưỡi liếm sạch từng hạt cơm còn sót
lại.
Tội nghiệp quá mấy em ơi! Tôi đưa tay vuốt đầu thằng nhỏ, tóc nó cứng như một
thứ rễ cây. Khốn khổ cho mấy em biết mấy, ba tuổi đã phải trốn trong căn hầm tối
tăm, ẩm thấp, nhịn đói nhịn khát đã hai ngày, ba tuổi chưa biết cởi chiếc quần
để đi tiểu, nước tiểu đọng vàng ố một mảnh quần….Em có khóc không hỡi em. – Hai
đứa bé tang thương ở làng Phú Thứ? Với sợ hãi của tuổi thơ, các em cũng đủ biết
cái thân phận khốn nạn của một đứa trẻ Việt Nam trong thời loạn lạc nên đã nén
những sợ hãi để không khóc… Tương lai nào cho các em, đứa ba tuổi cố nín tiếng
khóc để chỉ biết đánh bò cạp, tương lai nào cho em, một đứa sáu tuổi đã biết ôm
em vào lòng, mắt nhìn lên một miệng hầm đen tối để chờ đợi một trái phá, một
tràng súng chấm dứt đời chưa kịp nở lấy một ngày trong sáng… Ôi! Các em, người
tôi căng trên một đống than hồng, nhỏ từng giọt máu đớn đau. Đau thương biết mấy
hả trời…
Đạn nổ. Đạn súng tay, súng cối từ bên cánh trái nổ vang. Tiểu đoàn 7 bên cạnh
đang đụng địch. Việt Cộng túng thế chạy về phía tiểu đoàn tôi. Đạn 12 ly 7 từ
phía tiểu đoàn 7 bắn về, tuy đạn cao nhưng vẫn tạo thành cảm giác e ngại. Thằng
nhỏ ba tuổi bíu chặt lấy lưng chú, thằng bé lớn nhào xuống bờ ruộng, lấy hai
tay bịt chặt tai, mắt nhắm nghiền. Tôi nghĩ đến một tuổi nhỏ của «guerre des
boutons», một tuổi nhỏ của Sài gòn đường Nguyễn Huệ, tuổi nhỏ mồm ngậm kem và
xem ti-vi. Các em ơi, các em có bao giờ biết có một tuổi nhỏ «thần thoại» nào
như vậy ?
Quân rút ra theo đường bộ ngả chi khu Phú Thứ để ra quốc lộ 1, gần phi trường
Phú Bài. Trời trở mưa, người lính cột thằng cháu nhỏ ở trên lưng bằng sợi dây
ba chạc đạn, tay nắm khẩu garant, tay dẫn thằng cháu lớn. Dấu chân trần của thằng
bé in trên cát ướt, thấy thảm thương như giọt máu hồng từ một quả tim non.
Xe đưa đoàn quân về lại Quảng Điền. 6 giờ chiều, tiểu đoàn vượt sông Bồ đóng
quân tại làng Bát Vọng đối diện với Quận lỵ. Tôi ngã xuống chiếc võng cột giữa
hai cây cột đổ, kiệt lực như một người bệnh nặng, hành quân đã hai tháng mười
hai ngày …
Trăng soi xuống dòng sông lăn tăn từng gợn sóng nhỏ không có được một chút mơ mộng
nào trong lòng linh hồn chỉ ướt đẫm một thứ u uất hư hại như ánh trăng lặng lẽ
soi xuống ngôi nhà thờ đổ nát bên kia sông. Bây giờ trời đang tiết thu sao trời
đầy giá rét; tôi chìm sâu xuống một vùng tê cóng.
Súng nổ, từ phía đại đội 93 ; nghe qua máy truyền tin được rõ toán phục kích bắn
chết hai Việt cộng, tịch thu hai súng, một tên bị thương chạy vào xóm nhà dân…
Bắn trái sáng, luc soát xóm nhà , thằng bị thương chắc hẳn trốn đâu trong đó…Lệnh
từ Tiểu đoàn, cả một xóm làng bị dựng dậy trong đêm khuya, ánh lửa nhấp nháy từ
những chiếc đèn con… Ánh sáng từ quả sáng soi xuống nhợt nhạt…
– Trung úy, cho em qua bên đại đội 93 – hạ sĩ Em, thư ký hành quân của đại đội
tôi nói nhỏ.
– Qua bên ấy làm gì ?…
– Xóm nhỏ đó là nhà em, mạ em ở trong đó !
–Thật không ?
Em gật đầu – Dưới bóng trăng mắt nó long lanh như khóc… Khi đại đội 93 lục soát
xong Em trở lại với một bà già gánh đôi quang gánh.
– Mạ em đây. – Em giới thiệu bà già với tôi.
Người đàn bà ngồi bệt xuống đất kéo vạt áo lên lau nước mắt. Em ngồi xuống bên
cạnh mẹ, nó nắm lấy bàn tay gầy guộc nhăn nheo. Hai mẹ con người lính ngồi im lặng
dưới ánh trăng bàng bạc, thỉnh thoảng có một tiếng nấc nhẹ…
– Mạ, theo con vào Sài Gòn nghe ?
– Không, tao ở đây còn coi đất, coi cát, buôn bán kiếm ăn qua ngày được rồi..
Yên lặng trở lại trong đêm, dưới sông tiếng sóng nhỏ của con nước đang chảy về
biển thì thầm như tiếng khóc bị nén. Hai mẹ con Em vẫn ngồi yên lặng trong
sương đêm.
Để lại đại đội 93 tại vị trí đóng quân. Tiểu đoàn kéo ra lại Quận lỵ Quảng Điền.
Ngoài tên hiệu Hành chánh này, quận lỵ còn có một tên thật độc đáo – Sịa – vô
nghĩa nhưng hóm hỉnh và mộc mạc. Dân tộc tính, nếu có thì chính những chữ vô
nghĩa này. Tôi là kẻ sinh quán từ miền Trung, nhưng một kẻ thứ miền Trung vong
ân phế bỏ quê hương từ một thuở lâu lắm. Lẽ tất nhiên trong tận cùng ao ước,
tôi chẳng bao giờ nghĩ đến lúc phải trở về trên mảnh đất nghèo hèn này ; nhưng
chiến dịch đã dun dủi tôi trở về. Và tôi đã trở lại để thấy rõ sức mạnh tiềm
tàng nhưng vĩ đại của tổ tiên một dòng họ «Phan» nghèo khó theo chúa Nguyễn vào
Nam, khởi đi từ những thôn xóm tận cùng miền Nghệ An, Hà Tĩnh…
Chúng tôi đi xa nhà từ lúc trời còn tiết hạ, đến bây giờ nỗi chịu đựng đã lên đến
tột đỉnh mệt mỏi rã rời cộng thêm giá rét của miền Trung người mềm đi, giống
như bóng cò trắng đứng trơ vơ trên đồng vắng. Nhưng độc hại nhất là cảnh khổ phải
chứng kiến – Những khổ cực lỳ lợm nặng nề đè lên người dân, khiến họ còm cõi, lặng
lờ như ngọn đèn sắp tắt. Chiến tranh phá nát khắp cả quê hương miền Nam ; những
vườn cây ở Kiến Hòa, ruộng ở Long An, rừng dừa ở Bình Định dù có bị đạn bom tàn
phá đến nát bấy, chúng vẫn giữ được cái màu mỡ tiềm tàng trong lòng đất tươi tốt,
trong thân cây dừa căng cứng nhựa, dù là có héo hon… Nhưng ở đấy miền đất hẹp từ
Quảng Trị vào đến Thừa Thiên, chiến tranh đồng nghĩa với một phá vỡ đến tận gốc
rễ. Khô cứng, trơ trụi với cơn gió Nam thổi qua một vùng cát bụi mệt mỏi phiền
muộn. Nhìn một căn nhà ở vùng An Phú Đông bị sụp đổ ; tôi có ý nghĩ rằng gia chủ
sẽ cất một chiếc nhà mới ngay sau khi dứt tiếng súng, thiên nhiên giàu có tươi
tốt ở đây là phép mầu luôn luôn đốt sáng hy vọng trong lòng người… Nhưng ở đây
khi đi qua những làng La Vân, Niêm Phò, những làng nhỏ bên sông Bồ, nhìn ra phá
Tam Giang, những ngôi nhà sụp đổ là dấu hiệu tàn tạ của một thế hệ, một dòng sống…
Những nếp nhà thật xưa, trang nghiêm, kín đáo ba gian hai chái, thấp xuống, như
muốn tan vào bóng mát của hai cây đào trồng đằng trước, nền gạch mát lạnh, lòng
nhà tối tăm, hơi lạnh từ hàng cột, bờ tường rêu phủ xanh xao bốc lên… Trước nhà
có non bộ, sau non bộ là bình phong, nhà có hàng rào bằng gạch trên có gắn miểng
chai ngũ sắc, cổng có mái ngói, hàng câu đối nét chữ trang trọng… Suốt trên dãy
quê hương này, ông cha chúng tôi dựng nên những nếp nhà như vậy, để đánh dấu một
kiêu ngạo thầm kín muốn tồn tại hoài hoài trong một thế giới khô cằn nghèo khổ…
Một tồn tại lặng lẽ nhưng đài các và cao sang hệt câu hò tình tứ bay bổng trong
nền trời từ một khoang đò lửng thửng. Tôi biết rõ niềm kiêu ngạo trong lòng tổ
tiên, những người nông phu khốn khổ đã rời bỏ quê hương, đi về Nam, họ đã đến
đây, sau khi đã đi hết một đoạn đường dài cát bụi ở hai xứ Quảng Bình, Quảng Trị,
họ đã đến đây và bị chặn lối bởi Hải Vân Sơn nên đành phải dừng lại, đứng lại để
xây dựng một quê hương mới, một kinh đô để biến mình thành một loại dân chốn
kinh kỳ, người kẻ chợ. Những tổ tiên đó đã chứng tỏ sức mạnh sáng tạo trên nơi
chốn nghèo hèn bằng một lối sống đầy nghi lễ kiểu cách..
Nhưng trái bom đã rơi xuống trên mộ phần của tổ tiên, đã phá vỡ cái hàng rào
quan liêu đài các của những ngôi từ đường thênh thang những phủ, những dinh, đã
cuốn trôi hết thẩy dấu vết của những người bình lặng vĩ đại ở linh hồn, cứng thẳng
như một giống tùng đời đời xanh tốt. Tôi đi qua quê hương này để thấy rõ niềm
ao ước của người xưa bị cắt đứt. Viên gạch, tảng vôi của những cổ mộ vùng Mậu
Tài, Đồng Xuyên nổ tung dưới bom đạo trông xót xa như da thịt của người xưa.
Tôi một kẻ nhỏ trở về để nhận thấy cái hân hạnh thảm hại – chứng kiến phút giây
sụp đổ của tiền nhân. Nhưng cũng trong những lúc này, những lúc đổ vỡ toàn diện
của quê cha, tôi được nhìn tận mặt trái phản kháng im lặng nhưng quyết liệt đối
với định mệnh của một lớp người dù trong cuối đáy của khổ cực, vẫn tin tưởng sắt
son vào từng bụi cây khóm cỏ.
Có một ngày, tôi dẫn quân đi dọc bờ sông… Quân đã đến làng Lương Cổ, làng vắng
nhưng sao quãng đường này sạch sẽ in dấu chổi vừa quét… Có tiếng động, một bà cụ
già tóc bạc phơ, áo quần rách vá chằng chịt, từ một bụi rậm đi ra… Bà cụ làm gì
đây ? Cái giọng Trung pha Bắc lẫn Nam của tôi không làm bà cụ hiểu được, phải gọi
thằng Thiên tới, thằng «lạc đà» người Huế của tôi ..
– Mệ làm chi rứa mệ ?
– Mệ quét đường con….
– Mệ ở một «chắc» (một mình) răng mệ ?
– Có ôn ở trong nhà nữa con.
Hai vợ chồng già, già lắm trong một cảnh làng hoang vắng đổ vỡ, vẫn cố gắng
quét sạch một đoạn đường làng trước mặt nhà ; cỏ dại lá tre được un về hai mép
đường khéo léo và gọn ghẽ ; con đường đất vàng tươi phủ một lớp bụi phơn phớt
lượn vòng vèo theo bờ sông dài đến trăm thước, thế nhưng bà cụ trên bẩy mươi tuổi,
yếu đuối lưng còng, do một thói quen đài các muốn chỗ ở luôn luôn được sạch… đã
cố gắng quét dọn thật sạch sẽ.
Tôi đi vào căn nhà phía trái con đường, ông lão, chồng bà cụ đang lom khom trên
một mảnh vườn nhỏ, hoa Thược Dược nở từng đóa thật lớn, đỏ tươi chen lẫn với những
đóa cúc vàng.
– Mấy cậu bắn răng sập cái nhà của tui lại rồi! – Lời trách cứ nhẹ nhàng làm
lòng tôi trùng xuống – Một quả đạn 105 ly đã rơi trong khu vườn làm sụp một mái
nhà…
– Bị bắn lâu chưa ông ?
– Đại bác trong quận bắn ra tối hôm qua đó cháu… Viên đạn phá vỡ tường nhà tôi
hôm qua, nhưng sáng hôm nay những viên gạch vỡ đã được xếp gọn ghẽ ở một góc tường.
– Bữa nào yên, ông đi Huế mua xi-măng về xây lại đi ông già! – người lính đề
nghị với một vẻ cười cợt…
– Cha, tui xây mấy lần rồi đó ! Cứ làm xong là bị bắn sập ! Nhưng lạy ông bà, vợ
chồng tôi không có chi cả là mừng rồi!
Ông lão nói tự nhiên cái tai ương phải gắng chịu. Tôi không biết trong thân thể
già nua đó, sức mạnh nào đã giúp ông qua được đời sống lửa đạn này để hằng ngày
tỉa lại một nụ Cúc vàng rực rỡ..
– Sao ông không về Huế mà ở ?
– Tui già rồi, ba bốn trận giặc trước còn sống được thì lúc này có chi đi nữa
tui cũng phải ở lại để coi nhà cửa đất cát !!!
Ôi, nhà cửa đất cát, người già đã xây dựng từ một tuổi thanh xuân nay chúng tôi
đi phá vỡ. Tình yêu đất đó, họa chăng chỉ có người Trung Hoa mới có thể so sánh
được. Phải chăng đó cũng là sức mạnh nền tảng của quê hương.
Đóng quân ở Quảng Điền, lính vui vẻ vì thấy được người, uống được cà phê và nước
đá. Riêng tôi xin quá đủ, đủ quá nên chỉ xin một thế giới thật vắng vẻ, một thế
giới yên lặng không bị đánh thức bằng tiếng nổ ; hãy cho tôi một dòng sông
không pha máu người, không in bóng giáo đường bị cháy… Hãy cho tôi ngủ bình yên
bên con sông mùa xuân tuổi nhỏ – Sông Cẩm Lệ, chảy từ Phong Lệ qua Miêu Bông ra
sông Hàn, chỗ gần núi Non Nước. Nơi đó, dòng sông thật mênh mông đầy cát nhỏ,
tôi nằm dưới một giàng lưới cả, nước dưới lưng lạnh ngắt và thân thể ở trên
hong nắng, một thứ nắng thật mới của ngày mồng hai Tết. Cho tôi nằm lại trên
dòng sông thơ ấu đó để quên những đầm Thủy Tú, sông Bồ, Phá Tam Giang ; xin cho
tôi quên dấu chân đứa bé sáu tuổi in trên nền cát, chạy lom khom trong cái hấp
tấp sợ hãi vì tiếng súng; xin cho quên người mẹ được đánh thức trong nửa đêm để
gặp lại đứa con sau bốn năm xa cách, nay mặc áo rằn ri của lính Nhảy Dù: Đứa
con thơ dại năm xưa nay cằn cỗi như một thứ tù binh khốn nạn với những vết nhăn
của gian lao và cực nhọc, người mẹ đã không nhận ra nên đã ngồi xuống chắp tay
van lạy xin tha tội!! Ôi cái tội khốn khổ vì đã làm một người dân trong thời lửa
đạn. Cho tôi quên Quảng Điền, với buổi sáng 7 giờ, người nhà quê vác vợ trên
lưng, tay bế đứa con gái hai tháng, một đứa lớn với 4 tuổi lẽo đẽo theo sau.
Người đàn ông tiến vào văn phòng quận vì tối qua người vợ bị lạc đạn gãy chân…
Đứa con nhỏ hai tháng được bố đặt sát vào ngực người mẹ cố tìm trên hai đầu vú
thâm tím một giọt sữa trong khi người mẹ thiếp mê vì cơn đau. – Một ống chân bị
đạn bắn vỡ, vẫn cố đưa bàn tay trong một hành động vô thức, ép chiếc đầu đứa
con vào đầu vú héo hắt !!! Thôi đủ quá rồi, đóng quân ở đâu cũng chỉ có thế
thôi… Hãy về ngủ yên trên một thôn xóm bình yên không nghe tiếng súng, và dân
quê đừng chắp tay van lạy mỗi lần chúng tôi xét hỏi và người đàn ông xin đừng
van vỉ than khóc khi thấy vợ mê đi trong cơn đau đớn, đưa bé chợt rú lên vì sữa
mẹ cạn nguồn…. Máu của mẹ đã chảy ra rồi đâu còn có sữa cho con.
Quê hương của tôi ơi, Quảng Điền, Phong Điền, Phú Thứ, Hương Thủy, Đồng Xuyên,
Mỹ Xá thôi đã quá đủ. Tôi đâu có ngờ một quê hương tang tóc như thế này ? Muốn
kết cỏ ngậm vành, muốn cắn răng vào đất, muốn nhỏ máu xuống dòng sông – Đau xót
lắm, tôi đang phá quê hương bằng tuổi trẻ của tôi – .Quá đủ những ngày Thừa
Thiên….
Phan Nhật Nam
Quảng Điền – Tháng 10 năm 1967