Một người dốt đặc về thơ phú như tôi mà lại từng được làm bạn
và lạm bàn về thơ cùng với một nhà thơ nổi danh như Tô Thùy Yên thì đúng là
chuyện lạ. Cho dù đó là chuyện ở trong tù. Vì vậy, khi biết tin anh qua đời, một
số bạn tù khuyên tôi nên viết một bài để tưởng niệm anh, nhưng tôi không dám.
Vì thấy rất nhiều nhà văn nhà thơ tên tuổi bậc thầy đã viết về anh, hơn nữa tôi
ngại người đời thường dị nghị chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ.” Hôm
nay nhân ngày giỗ lần thứ ba của anh (*), theo tập tục Việt nam, là ngày chính
thức mãn tang anh, tôi xin viết đôi điều để tưởng nhớ anh và nhắc lại vài kỷ niệm
cùng anh trong tù.
Khi còn ngoài Bắc, có thời gian tôi đã từng ở chung trại tù với anh Đinh Thành Tiên (tên khai sanh của Tô Thùy Yên), nhưng khác đội, lúc ấy chưa biết nhiều về anh và cũng chưa có dịp thân quen anh. Mãi đến tháng 9 năm 1981, chuyển vào Nam, đến Trại Z- 30 C Hàm Tân, anh và tôi được “biên chế” ở cùng một đội, và nắm gần nhau trong gần hai năm, cho đến khi tôi ra tù. Đặc biệt trong đội này có cả anh Đặng Trần Huân, cũng nằm cách chúng tôi vài ba người. Và tôi được hân hạnh thân thiết với cả hai. Khi ấy, tôi biết danh anh Đặng Trần Huân nhiều hơn là anh Đinh Thành Tiên, vì quanh năm hành quân trong núi rừng, chưa có cơ hội được đọc nhiều thơ Tô Thùy Yên, chỉ biết mỗi bài Chiều Trên Phá Tam Giang được phổ nhạc và loáng thoáng chuyện tình giữa anh và nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Riêng anh Đặng Trần Huân thì có nhiều chuyện vui trên báo Chiến Sĩ Cộng Hòa, và “Chuyện Cấm Đàn Bà” mà tôi thường đọc. Cả hai anh đều lớn tuổi hơn tôi, và sau khi biết cha tôi bị chết ở một trại tù khác trong Nam, vợ con nheo nhóc, tôi trở thành một trong những con bà Phước trong tù nên hai anh đều thương quí tôi. Nằm bên cạnh anh Tô Thùy Yên, nên tôi thường được anh đọc cho nghe những đoạn thơ anh ứng khẩu hay sáng tác. Anh có thói quen làm bài thơ nào cũng dài. Bất cứ lúc nào, ngay cả khi đang phải lao động, anh thì thầm ứng khẩu một vài câu hay vài đoạn, đến tối nằm đọc lại, ghi vào tờ giấy nhỏ để sau đó ghép thành một bài dài. Có khi cả năm mới đủ một bài. Nghe anh thì thầm những câu thơ anh viết, thét rồi tôi thuộc lòng và còn nhớ hơn cả chính anh. Tôi dốt về thơ nhưng lại có tính mê thơ từ nhỏ. Vì vậy có nhiều khi anh quên, tôi có nhiệm vụ phải nhắc bài thơ đã đến đâu rồi, để anh tiếp tục. Anh làm thơ trong trí, lẩm bẩm một mình, đọc cho tôi nghe, rồi chép vội vào một mảnh giấy nhỏ, nhét ở đâu đó. Thỉnh thoảng anh nhờ tôi giữ hộ một số. Có lần anh bỏ vào cuốn tự điển Anh-Việt được gia đình thăm nuôi, ngụy trang bằng cái bìa của cuốn truyện “Thép Đã Tôi Thê Đấy”nên qua mắt được gã công an kiềm soát. Anh học Anh văn bằng cách say sưa đọc cuốn sách gối đầu giường của người cộng sản, tác phẩm nổi tiếng của văn hào Nga Nikolai A. Ostrovsky, nhưng kỳ thực, chỉ có cài bìa, còn cả phần ruột là cuốn tự đỉển Anh – Việt của tác giả Nguyễn Văn Khôn. Có một lần không may, bất ngờ cả trại bị khám xét “đột xuất”. Các tù nhân có lệnh mang theo tất cả tư trang ra ngoài sân để chuyển trại. Một tên công an lục lọi đủ mọi
thứ, khám phá cuốn sách mang tên “Thép đã
tôi thế đấy” lại là cuốn sách toàn chữ của “đế quốc Mỹ”, và trong cuốn sách còn
có cả mấy mẩu giấy có vài câu thơ “phản động” nên anh bị cùm hơn hai tuần. Cuốn
sách và mấy bài thơ, tất nhiên bị tịch thu. Hôm mới được thả về đội, anh yếu và
mệt quá, thêm một chút “phản kháng” nữa, nên anh dặn tôi, khuya này, khi nào
nghe anh rên thì tôi hô to ‘cấp cứu, có tù bệnh đột xuất”. Lúc ấy người phụ
trách trạm xá là Bác sĩ Anh, nguyên là Y sĩ Thiếu Tá bị bắt trong vụ nhà thờ
Vinh Sơn sau 1975, kêu án 30 năm tù. Nghe nói là ông có một ông anh lại là
Trung Tá Bác sĩ Công An CS, nên bảo lãnh để được ra làm ở trạm xá thay vì phải
lao động. Dường như Bác sĩ Anh là bạn khá thân với anh Đinh Thành Tiên trước
kia, nên hai người có hẹn nhau, nếu khi nào anh Tiên gọi cấp cứu thì bác sĩ Anh
đến khám và cho lên bệnh xá nằm vài hôm, khỏi phải đi lao động. Anh được ban
cho cái bệnh loét bao tử. Đây cũng là dịp để anh thoải mái làm thơ. Chỉ có tôi
là người duy nhất biết được giao kèo bí mật này, nên khi anh Tiên kéo tay tôi
và bắt đầu rên là tôi hô to “Cấp cứu! Cấp Cứu! Có tù bị bệnh đột xuất”. Và lần
nào, đám công an cũng đưa Bs Anh đến khám và cho khiêng anh vê trạm xá! Bác sĩ
Anh là một bác sĩ giỏi, một con người khẳng khái, tư cách và rất hết lòng với
anh em.
Trong những bài thơ anh viết, bài mà tôi thuộc lòng và thích
nhất đó là bài “Tháng Chạp Buồn”. Anh viết mấy đoạn đầu của bài thơ này
vào giữa tháng Chạp năm 1981, mãi đến tháng Chạp năm 1982 anh mới viết xong mấy
đoạn cuối (tức là khi đã ở tù hơn tám năm, nhưng sau này có bài được viết là
chín năm). Anh đọc và giải thích từng câu, từng đoạn trong bài thơ cho tôi
nghe. Có những câu tôi rất tâm đắc, như :“Tám năm áo rách bao nhiêu lượt,
con vá chồng lên những nỗi niềm”, nhưng cũng có đôi câu tôi dốt nên không
hiểu, như “Cha mẹ già như trúc trổ bông”, nhờ anh giải thích tôi mới
biết khi trúc trổ bông là trúc sắp chết. Tôi nể phục sự hiểu biết, tài làm thơ
của anh và rất cảm động khi đọc bài thơ anh viết, bởi câu nào cũng mang đầy tâm
trạng của anh mà cũng của chính tôi và những người bạn tù khác nữa. Anh bảo viết
bài thơ này tặng tôi. Và anh tặng thật. Anh viết vào một mảnh giấy được xếp thật
nhỏ với chữ cũng thật nhỏ đầy kín cả hai mặt. Chữ anh viết khá đẹp. Mảnh giấy xếp
nhỏ có thể kẹp giữa hai ngón tay. Khi nghe báo tin tôi được ra tù, anh mừng cho
tôi, nhưng tôi cũng nhận ra nét thoáng buồn trong mắt anh, vì từ nay sẽ mất thằng
bạn tù anh xem như thằng em thân thiết, từng lắng nghe và thuộc những bài thơ
mang cả nỗi lòng anh. Biết tôi đã thuộc nằm lòng, anh vẫn bảo cố giấu mảnh giấy
có chép bài thơ mang về làm kỷ niệm, vì khá dài nên cũng chóng quên. Nhưng khi
lên ban chỉ huy trại xếp hàng chờ lãnh tấm giấy ra trại, thấy mấy anh bạn tù
phía trước bị khám xét quá kỹ quá, tôi nhát gan, vội bỏ mảnh giấy vào miệng
nhai nát rồi nuốt vào cái dạ dày đang đói. Khi về đến nhà, tôi liền ngồi viết lại
cả bài thơ và đưa cho vợ tôi đọc. Nàng rơm rớm nước mắt.
Khi biết tin anh đến Mỹ, tôi đang định cư ở NaUy, nên nhờ cô
con gái lớn đang sang học ở Cali liên lạc tìm thăm anh. Anh vui lắm. Từ đó anh
em thường liên lạc thăm nhau. Anh nhắc tôi chuyện anh nhờ tôi gọi cấp cứu trong
tù để hai anh em phì cười. Tôi chép lại bài thơ “Tháng Chạp Buồn” gởi
cho anh, vì anh cho biết đã không còn nhớ chính xác một vài câu “nguyên tác”
trong đó.
THÁNG CHẠP BUỒN
Tám năm lòng bạc những thiên thu
* * *
* * *
Tô Thùy Yên
Sau này, bài thơ TA VỀ, anh viết khi ra tù, đã trở thành một
tuyệt tác, đưa tên tuổi anh lên tột đỉnh thi ca. Bài thơ mà gần như người Việt
khắp thế giới đều biết đến, ngay một vài tờ báo văn nghệ trong nước cũng đã
đăng tải, bình phẩm và ngợi ca. Bài thơ rất dài, nhưng nhiều người thuộc nằm
lòng, chỉ cần nhắc đến một vài chữ, như “cám ơn hoa đã vì ta nở”… là biết
ngay đến Tô Thùy Yên. Nhưng với tôi, bài thơ “Tháng Chạp Buồn” lại gây cho tôi
nhiều xúc động hơn, không chỉ nó mang nhiều tâm trạng của “tám năm áo rách
bao nhiêu lượt, tôi vá chồng lên những nỗi niềm” mà còn gợi lại nhiều kỷ niệm
gắn bó giữa anh Tô Thùy Yên và cá nhân tôi trong những năm tù ngục
Trong tù, anh có kể cho tôi nghe cuộc tình của anh với nhà
văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Anh cũng tỏ ra ân hận và thấy có lỗi với cả hai người
đàn bà, chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và chị Huỳnh Diệu Bích, người vợ chính thức mà
anh hết lời ca ngợi. Cuộc tình này đã gây cho anh khá nhiều tai tiếng và cũng để
lại nhiều dằn vặt trong anh.
Anh Đặng Trần Huân lớn hơn anh Đinh Thành Tiên mười tuổi,
khi ấy tóc đã bạc trắng, cùng phục vụ trong Tổng Cục CTCT nhưng người Bắc người
Nam, khác tính nhau và dường như không mấy thân nhau. Tô Thùy Yên thì trầm
ngâm, ít nói, còn Đặng Trần Huân thì thường vui đùa, bỡn cợt. Khi tâm tình với
tôi, anh Đặng Trần Huân cũng thường có ý trách anh Tô Thùy Yên về chuyện Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Tôi vừa đùa vừa bênh vực: tình của giới văn nghệ mà, nên thông
cảm, bố ạ! Tôi thường gọi anh Đặng Trần Huân là bố và anh cũng xưng bố với
tôi. Vì có lần anh đùa, bảo “bố có cô con gái út chưa chồng, nếu mai này mày ra
tù mà vợ đã lấy chồng khác tao sẽ gã nó cho mày!” (xin lỗi cô gái út, nếu đọc
được mấy dòng này)
Cả hai anh đều sang Mỹ cùng gia đình theo diện HO. Anh Đặng
Trần Huân mất vào năm 2003 tại Nam Cali, sau khi sinh hoạt báo chí, văn nghệ một
thời gian. Anh Tô Thùy Yên thì nổi tiếng với bài thơ Ta Về, nhưng không còn
sáng tác nhiều. Chỉ ra mắt duy nhất tập thơ “Thắp Tạ”.
Đọc tập thơ anh gởi tặng, tôi nghĩ có lẽ đây là một kết
thúc, khi ở đầu tập thơ anh viết:
Và
Tôi gọi sang cám ơn anh và đùa:
- Đọc
tập thơ này có nhiều câu em không hiểu được. Vả lại, ông anh còn yêu đời
quá mà “thắp tạ” làm chi sớm vậy?
Tập thơ xuất bản năm 2004, mãi đến mười lăm năm sau, ngày 21
tháng 5 năm 2019, nhà thơ Tô Thùy Yên mới ra đi. Và đúng là anh cũng đã yêu đời
thật, khi trải qua một cuộc tình đẹp đầy tính văn nghệ với một cô con gái trẻ,
mê thơ và ngưỡng mộ anh!
Rồi mọi người sẽ nhớ tới anh, nhớ mãi thơ anh. Bài thơ Ta Về
sẽ trở thành bất tử. Riêng tôi sẽ không thể nào quên người anh, bạn tù, một nhà
thơ lớn, có tâm hồn, lãng mạn, nhưng luôn khí khái, đã cho tôi nhiều kỷ niệm dễ
thương, thi vị ngay trong cảnh khốn cùng nhất của kiếp con người.
Bắc Âu, 21.5.2022
Phạm Tín An Ninh
(*) Tô Thùy Yên mất ngày 21 tháng 5, 2019