Chiếc Boeing 747 khổng lồ lướt trên phi đạo mỗi lúc một
nhanh, Pierre chợt thấy nhẹ hẫng trong khi toàn thân anh như bị một sức mạnh vô
hình ép xuống nệm ghế. Chưa kịp hiểu về trạng thái nghịch lý xảy ra, anh đã lơ
lửng trên không. Máy bay rời khỏi phi đạo từ lúc nào.
Hơn năm mươi tuổi, lần đầu tiên đi máy bay, Pierre cảm thấy bần thần, khó chịu
trong người. Sợi dây an toàn gài lỏng lẻo nơi bụng chỉ làm tăng thêm nỗi bực dọc
tù túng. Hai lỗ tai lùng bùng, nhức buốt, có lẽ cơ thể anh không quen với sự
thay đổi cao độ bất ngờ.
Pierre vươn vai, ngả người ra ghế mong tìm thấy chút thoải mái tạm thời. Anh đảo
mắt một vòng, lòng máy bay rộng thênh thang, những ngọn đèn được giấu kín trên
trần tỏa ra một thứ ánh sáng mờ mờ, dìu dịu không làm xốn mắt người nhìn. Sàn
máy bay lót thảm màu xám, mới tinh và sạch bong. Những chiếc ghế xinh xắn, gọn
gàng sắp theo hàng ngay ngắn được gắn chặt xuống sàn. Hai lối đi sâu hun hút dẫn
đến tận phòng lái ở mũi phi cơ. Tất cả hành khách đều yên lặng nhắm mắt tựa như
đang ngủ, một vài người loay hoay với tờ báo trên tay. Mắt anh dừng lại bên
khung cửa. Pierre muốn nhìn thành phố Hồ Chí Minh lần cuối, đúng hơn, nhìn lại
nước Việt Nam nơi mà anh đã sống hơn ba mươi năm qua. Xe cộ, nhà cửa, ruộng đồng,
thành phố bên dưới nhỏ dần, nhỏ dần trước khi mất hút sau làn mây bạc.
Ba mươi năm qua, cuộc sống của Pierre gắn liền với cái đất nước nghèo nàn khốn
khó nầy. Chiến tranh đã qua rồi nhưng hậu quả của nó vẫn còn hiển hiện trước mắt.
Hơn nửa đời người chôn chặt ở đây, trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể, buồn vui lẫn
lộn, hạnh phúc níu kéo lấy khổ đau, giờ đây nhìn về tương lai, nhớ về quá khứ,
có hay chăng chỉ là một giấc mơ nặng trĩu bên lòng.
Pierre đốt một điếu thuốc, khói thuốc màu trắng xám chập chờn uốn lượn trong
không gian rồi chầm chậm chui vào những ống hút nhỏ đặt trên trần của máy bay.
Bỗng dưng anh thấy cay cay nơi mắt, xốn xang trong lòng, hồn anh dật dờ theo
khói thuốc trôi về quá khứ xa xăm.
*
Saint-Macaire là một làng nhỏ của hạt Aquitaine thuộc miền tây nam nước Pháp.
Quê hương của anh là dòng sông Garonne lững lờ uốn khúc, phát nguyên từ dãy
Pyrenees chảy qua hai thành phố lớn là Toulouse và Bordeaux, trước khi đổ ra biển
Đại Tây Dương. Saint-Macaire ở vào khoảng giữa hai thành phố này, đúng ra là nó
gần Bordeaux hơn. Xa xa về phía nam là dãy Pyrenees hùng vĩ, ở đó có những đỉnh
núi cao ngút trời xanh với tuyết phủ vạn niên chập chùng tiếp nối tưởng như
không bao giờ dứt. Dãy núi này làm thành biên giới thiên nhiên giữa Pháp và Tây
Ban Nha.
Mồ côi mẹ từ thuở bé, anh sống thui thủi một mình bên người cha trầm lặng ít
nói. Thời thơ ấu của Pierre trôi qua trong êm đềm và lặng lẽ thiếu hẳn bàn tay
chăm sóc dịu dàng của mẹ hiền. Buổi sáng ở đồng quê anh thường bị đánh thức bởi
tiếng gáy của mấy con gà trống sau nhà, cái lũ gà đáng ghét vô tích sự, sáng
nào cũng dựng đầu anh dậy trong khi anh còn muốn ngủ nướng thêm tí nữa. Nệm êm,
chăn vẫn còn ấm, bước ra khỏi giường, Pierre như còn luyến tiếc giấc ngủ êm đềm.
Mặt trời vừa ló dạng ở phương đông, anh đi vòng ra sau nhà, quăng một mớ cỏ khô
cho mấy con bò sữa rồi quay lại thả đàn gà ra sân. Mới bị nhốt một đêm mà đám
gia súc làm như bị cầm tù ba năm không bằng, gà chạy theo đường gà, ngỗng chạy
theo đường ngỗng, cứ loạn cả lên, con này vội vàng đào đất tìm mồi, con kia
vươn vai đập cánh, vài con gà trống bay tuốt lên hàng rào chuồng bò cất tiếng
gáy vang, trong khi bầy ngỗng vừa chạy vừa gọi nhau nghe đến điếc cả tai.
Lượm mớ trứng mà mấy con gà mái vừa đẻ trong đêm, thường khoảng dăm bảy quả, trở
vào nhà Pierre làm bữa ăn sáng cho mình. Anh bỏ một ít củi khô vào cái bếp bằng
đất được đắp sát tường, khi lửa cháy đều ngọn lửa sẽ lan qua hai bếp bên cạnh.
Bếp đầu tiên nóng nhất dùng để nấu nước sôi pha cà phê cho cha anh, hai bếp còn
lại để chiên trứng và xúc xích.
Bữa ăn sáng của anh thường là bánh mì nướng, xúc xích chiên, trứng chiên và một
ly sữa tươi. Sau đó anh làm thêm một phần nữa với số lượng gần gấp đôi đem ra
ruộng cho cha anh.
Nắng đã lên cao, trong cái im vắng tĩnh mịch của đồng quê, cha anh đang mải mê làm
việc trên thửa ruộng khô. Ông khéo léo điều khiển cái cày do hai con bò kéo. Những
luống cày vỡ thẳng tắp, đất khô được lật bụng lên phơi mình dưới nắng ấm, thoảng
trong không khí Pierre ngửi được mùi thơm nồng của đất mới. Thỉnh thoảng cha
anh lại đưa tay áo lên quệt ngang những giọt mồ hôi đọng ở mí mắt. Trời không lạnh
nhưng lúc nào cha anh cũng có thói quen khoác thêm chiếc áo vét bên ngoài áo sơ
mi, cái mũ lưỡi trai màu xám đậm thường được kéo sụp xuống gần đến chân mày để
che nắng. Khi trông thấy anh ông mỉm cười, nụ cười hiền hòa đầy bao dung.
-Thế nào ngủ ngon không? Hôm nay con cho ba ăn món gì?
Anh chưa kịp trả lời, ông vội tiếp:
-Lại bánh mì xúc xích, trứng chiên phải không?
Cha anh vừa ngồm ngoàm nhai bánh mì vừa nói với anh:
-Nhà không có đàn bà cha con mình cầm chắc mấy món ăn này suốt đời.
-Ba nói vậy chứ … Hôm qua bà Marie cho con cái mũ nồi mới và hỏi thăm ba.
Gương mặt cha anh hơi ửng đỏ, ông vụng về bối rối gài lại hột nút nơi tay áo
khi nghe anh nhắc đến bà Marie.
-Này con, lễ Độc Lập tới nơi rồi, ba sẽ dẫn con xuống tỉnh, dạo thăm phố phường,
nhân tiện mua sắm ít đồ lặt vặt cho nông trại. Tối đến cha con mình ghé quán rượu,
uống dăm ba lít rượu vang Bordeaux. Mà này, con cũng đã lớn rồi, coi kìa mặt
con đầy mụn là mụn, tập uống Cognac là vừa.
*
Hàng năm khi những cơn gió mùa từ dãy Pyrenees thổi về đem theo cái lạnh se sắt
của núi rừng, khi lá của hàng cây phong trước nhà bắt đầu đổi màu từ vàng nhạt
sang đỏ ối và cánh đồng lúa mì chỉ còn trơ lại những gốc rạ, là lúc Pierre phụ
cha chuyển dần đống củi khô từ ngoài sân, sắp xếp gọn gàng bên hông nhà. Rơm rạ
cũng được chuẩn bị đầy đủ cho đàn bò sữa dùng trong suốt mấy tháng mùa đông.
Một hôm cha anh đứng nhìn cái chuồng bò cũ kỹ, xiêu vẹo, ông lắc đầu ra chiều
chán nản rồi nói:
-Chắc nó không chịu nổi qua mùa đông này.
Hơn một tuần, Pierre cùng cha cưa cây, san bằng nền, đào cống thoát nước, lợp
mái. Công việc tiến triển tốt đẹp, cái chuồng bò mới đã thành hình.
-Lấy cho ba chai rượu vang.
Pierre đi vào nhà, thấp thoáng nơi cửa trước cô bé hàng xóm rực rỡ trong chiếc
váy mới, cô nói với Pierre, giọng nói hơi ngập ngừng:
-Ngày mai, Yves lên Toulouse để chuẩn bị cho niên học tới.
Thanh niên, thiếu nữ trong làng nếu muốn tiếp tục việc học thường lên Bordeaux
bởi vì nó gần nhà. Sáu mươi cây số không lấy gì xa cho lắm, vài tuần có thể về
thăm nhà một lần. Đàng này Yves muốn đi Toulouse.
Pierre biết, Toulouse là một thành phố cổ kính với những viện đại học kỷ thuật
nổi tiếng của Pháp. Hơn một trăm bốn mươi cây số về hướng đông, đường xa diệu vợi
có lẽ cô bé muốn trở thành một nữ khoa học gia trong tương lai. Bạn bè của
Pierre kẻ trước người sau lần lượt rời bỏ nơi đây để đi Bordeaux hoặc Toulouse.
Một nỗi buồn nhè nhẹ chợt đến với anh, cô bạn gái của anh cũng sắp sửa lên đường
nay mai.
Trong một phút bất ngờ, Yves ôm chặt lấy anh, đặt lên má anh một chiếc hôn cuống
quýt vội vàng rồi quay người chạy mất. Pierre ngẩn ngơ chết lặng, đầu óc lùng
bùng, văng vẳng trong gió anh mơ hồ nghe được hai tiếng “Tạm biệt”.
Mãi cho đến khi bóng của Yves mờ xa, Pierre mới giật mình tỉnh mộng, anh đưa
tay sờ lên má. Mùi thơm của người bạn gái còn quanh quẩn đâu đây vương vương
trong không khí, chắc hôm nay cô bé xức nước hoa. Như người mộng du, Pierre đi
mà cứ như bềnh bồng trên mây, trôi nổi, chập chờn. Thuận tay anh xách luôn chai
nước lọc cho cha anh.
-Yves tới gặp con?
Điều mà Pierre không hiểu được là tại sao ông biết có Yves tới, trong khi ông
đang làm việc sau nhà.
-Sao ba biết Yves tới nhà mình?
-Ba biểu con lấy chai rượu vang, con lại lấy chai nước lọc, do đó ba đoán con bị
Yves nó hớp hồn.
Pierre đi vào nhà, anh thấm chút nước lạnh lên tóc. Đứng một mình trước tấm
gương Pierre chải đầu, sửa lại cái sơ mi cho ngay ngắn, nghiêng mình qua phải,
quẹo đầu sang trái rồi đưa tay sờ lên má cười một mình.
Pierre trở ra với chai rượu và hai cái ly. Cha anh đang nằm ngửa nhìn trời.
Pierre nhẹ nhàng đến bên ông. Khi thấy gương mặt tái nhợt với đôi mắt nhắm nghiền
của ông, linh cảm cho anh biết là có việc không lành. Anh xốc ông dậy, một ít
máu tươi còn đọng lại nơi góc nhọn của khúc cây mà cha anh vừa cưa xong quăng bừa
bộn trên mặt đất. Ông té ngửa và bị chấn thương sau ót. Đến xế chiều, ông trút
hơi thở cuối cùng. Từ lúc bị té cho đến khi chết, ông hoàn toàn mê man không biết
gì.
*
Pierre ngồi trong nhà hàng thưởng thức món ngỗng hầm đậu trắng, món ăn mà anh
ưa thích nhất. Thịt ngỗng mềm lụn, ngọt và béo ngậy, bánh mì nóng hổi, giòn tan
ăn với đậu trắng bùi bùi. Tuy nhiên món ăn không được đậm đà như anh nghĩ chỉ
vì nhà hàng dùng ít tỏi hơn ở làng anh. Pierre nghiệm thấy một điều là càng gần
dãy Pyrenees, càng gần biên giới Tây Ban Nha người ta càng dùng tỏi nhiều hơn
khi nấu nướng, nhiều không thua gì dân Tây Ban Nha. Thêm một chi tiết nhỏ ít
người để ý đến là dân miền nam nước Pháp cũng xây đấu trường, cũng thích đấu
bò. Đôi khi bên này dãy Pyrenees là chân lý thì ai dám nói bên kia là không.
Sau đám tang của cha, Pierre sống như một cái bóng ma suốt mùa đông giá buốt vừa
qua. Đêm đêm, anh ngồi một mình bên bếp lửa hồng, đối diện với nỗi buồn, nghe từng
cơn gió lạnh căm căm từ dãy Pyrenees thổi về, hình ảnh cha anh như ẩn hiện đâu
đây. Cho đến khi nhìn thấy bóng mình lung linh nhảy múa trên tường anh mới thật
sự tin rằng chỉ còn một mình anh trên cõi đời này. Sợ bóng tối, sợ cái vắng lặng
của đêm dài, đó là những lúc Pierre muốn điên lên được, muốn đập phá, muốn tự hủy
hoại thân mình. Cuối cùng không chịu nỗi tình trạng thần kinh căng thẳng kéo
dài, anh bỏ làng ra đi.
Đến lúc ngồi trong nhà hàng Pierre vẫn không hiểu tại sao mình đi Toulouse. Đi
tìm việc làm? Trốn xa cái cô đơn ở Saint-Macaire để tìm về nơi thị tứ đông người?
hay còn có một lý do lờ mờ nào giấu kín ở phía sau? Pierre đưa tay sờ lên má,
không biết giờ này Yves đang ở đâu trong cái thành phố Toulouse này. Anh gọi
thêm ly rượu vang thứ hai, rồi thứ ba, phải uống cho say, sau đó tìm cái vỉa hè
nào ngủ cho qua đêm. Mấy ly rượu vang cỡ lớn làm cho đầu anh nặng như đeo chì.
Rời nhà hàng, Pierre thả bộ dọc theo đường Lakanal, đường xá gì mà kỳ cục, ngắn
ngủn. Nếu như không có ngôi thánh đường nổi tiếng Jacobins, kiến trúc theo lối
Gothic được xây vào thế kỷ thứ mười ba, có thể chẳng ai thèm ngó ngàng gì đến
con đường này. Anh mỉm cười một mình, làng anh cũng có một ngôi nhà thờ được
xây vào thế kỷ mười hai hay mười ba gì đó, cũ kỹ trông chẳng ra làm sao. Thế
nhưng người ta giữ gìn trân quý nó như là bảo vật.
Một cơn gió từ bờ sông thổi đến mang theo cái mát lạnh âm ẩm khiến Pierre tỉnh
người. Anh đi dọc theo bờ sông, đường phố vắng vẻ chỉ một mình anh lang thang
như kẻ không nhà. Rõ lẩm cẩm, không nhà thiệt chứ như cái gì.
Bên kia đường, dọc theo kè đá ở bờ sông, ba người đàn ông đứng tuổi đang ngồi uống
rượu.
-Ê thằng nhỏ, giờ này mà còn phất phơ, phất phưởng ngoài đường, ở quê mới lên hả?
-Sao mấy chú biết?
-Nhìn cách ăn mặc với bộ điệu của chú mày không cần hỏi cũng biết. Ngồi xuống
đây làm vài ly rồi nói chuyện.
Người có khuôn mặt trẻ nhất trong bọn cất tiếng:
-Quê của chú em ở đâu?
-Saint-Macaire.
-Saint gì? Vùng này có hàng trăm cái Saint, nói khơi khơi như chú mày ai mà biết
được.
Pierre lên giọng.
-Saint-Macaire, sáu mươi cây số đông nam Bordeaux.
-Tốt, nhích lên phía bắc chút xíu nữa là chú em ăn bom của bọn Đức quốc xã rồi,
ăn hàng ngày chứ không phải chuyện chơi đâu. Có một lần tao đi ngang qua
Saint-Malo, thành phố trên chục ngàn dân chứ ít ỏi gì. Mẹ nó, cả thành phố bị
hư hại nặng nề bởi bom đạn của tụi Đức. Nói không ngoa chứ gọi là bình địa cũng
được. Người đâu không thấy, chỉ thấy gạch ngói ngổn ngang với dăm ba con chó ốm
đói đang chúi đầu vào mấy đống rác.
Gã ngưng nói, ực một hơi rượu như để thêm sức rồi vỗ vai Pierre.
-Chú em nè, gia đình chú đâu?
-Cha mẹ tôi chết hết rồi.
-Tổ mẹ nó, lại bom đạn của mấy thằng mắc dịch Đức chứ gì?
-Không phải, chết vì tai nạn.
-Bà con?
-Không còn ai.
-Thì ra chú mày thuộc loại tứ cố vô thân, thời buổi loạn lạc, dân tình xiêu tán
cũng là chuyện thường
Người già nhất trong bọn với gương mặt sạm đen, ngồi dựa kè đá bận chiếc áo dày
cộm, từ nãy giờ vẫn ngồi tì tì uống rượu. Ông ta lên tiếng:
-Làm một chuyến hải hành đến Đông Dương với bọn này cho vui. Độc thân như chú
mày rộng chân rộng cẳng đi đâu mà chẳng được, hơn nữa chiến tranh đã chấm dứt từ
khuya rồi.
Ông ta mở cái hộp sắt nhỏ, khoan thai nhồi thuốc vô tẩu, bập bập vài hơi.
-Từ đây qua bển cũng yên ổn, không còn sợ nạn máy bay oanh tạc, trước đây hả,
tao không rủ chú mày đâu. Ở đây chạy trốn máy bay của bọn Đức tặc, qua Đông
Dương lánh né máy bay của bọn Nhựt lùn.
Pierre như bị lôi cuốn theo những mẩu chuyện phiêu lưu của họ,
-Khoan khoan, mấy chú nói Đông Dương là cái gì vậy?
Người có bộ râu quai nón cười sặc sụa, phun cả rượu xuống bờ đá.
-Thằng nhóc, nó là cái thuộc địa của nước mình hơn sáu, bảy chục năm rồi mà mày
cũng không biết sao?
-Từ đây đến đó bao xa?
-Không xa lắm đâu, khoảng một tháng đường biển.
Vừa nói ông ta vừa chỉ chiếc tàu ở trên cảng.
-Ngày mai tụi tao xuôi dòng Garonne ghé Bordeaux, chuyển hàng lên tàu đi biển,
lấy thêm một ít rượu vang rồi cứ thế nhắm Đông Dương mà chạy.
Pierre say khướt sau mấy ly cognac uống với ba người thủy thủ. Khi anh tỉnh rượu
mới biết mình đang ở trên tàu gần tới Bordeaux. Hóa ra Pierre đã ngủ mê mệt suốt
một ngày. Đứng một mình trên mũi tàu nhìn dòng sông Garonne mênh mông bát ngát,
gió sông lành lạnh mang chút hương vị tanh tanh của biển dù Bordeaux nằm kẹt
trong góc vịnh. Pierre quay nhìn về hướng ngôi làng của anh, nước mắt bỗng dưng
tuôn tràn, chưa đi đã nhớ, chưa xa đã buồn, thử hỏi anh làm sao đủ can đảm đi đến
cái xứ Đông Dương xa xôi, lạ hoắc kia được.
Khi tàu cặp bến Bordeaux, thừa lúc mọi người lăng xăng bận rộn với công việc,
Pierre chuồn êm không dám nói một lời từ giã với mấy người thủy thủ. Anh quay
trở về Saint-Macaire.
Trở về nhà, đêm đầu tiên Pierre trằn trọc, trăn trở, giấc ngủ thật sự chỉ đến với
anh khi trời gần sáng. Qua đêm thứ hai, anh thức trắng đêm bên bếp lửa, khóc sướt
mướt, khóc đến khi đôi mắt sưng lên.
Ngồi một mình trong căn phòng vắng lặng, Pierre lẩm bẩm, không lý ngồi đây gặm
nhấm nỗi cô đơn như vậy suốt đời hay sao? Đi hay ở? Đã đến lúc phải quyết định
dứt khoát, không được do dự lừng khừng. Nghĩ đến Đông Dương như một lối thoát
cuối cùng, Pierre vội vàng nhét vài bộ đồ vào xách tay, ra đi nhưng lòng còn
dùng dằng luyến tiếc. Anh trở vào nhà, tần ngần đứng nhìn quanh. Khi thấy tấm
gương soi mặt gắn trên tường, anh gỡ ra rồi dồn hết sức mạnh vào đôi cánh tay đập
xuống nền nhà. Hình ảnh của cha anh và Yves méo xệch, tan tành trộn lẫn với tiếng
kêu loảng xoảng của những mảnh thủy tinh vỡ vụn, âm thanh vang vang trong đêm vắng
dội vào tai như muốn cắt đứt mạch máu của mình. Máu trong huyết quản của Pierre
dường như chuyển động nhanh hơn, toàn thân anh nóng hừng hực, đầu óc như mê đi.
Pierre hất tung cây đèn dầu lên tường, ngọn lửa bùng cháy, lan theo vết dầu
loang lỗ trên mặt đất. Trong phút chốc cả ngôi nhà chìm trong lửa đỏ.
Đi được một đoạn, quay nhìn lại căn nhà thân yêu lần cuối cùng, tất cả chỉ còn
là lửa và lửa, lòng quặn đau như dao cắt, Pierre đưa tay gạt lệ rồi cắm đầu chạy
như ma đuổi.
-Mày đi đâu mấy hôm nay? Bọn tao tìm muốn chết, lẹ lên tàu sấp nhổ neo rồi.
Cho đến lúc đất liền hoàn toàn chìm khuất sau mặt biển cuối chân trời, Pierre mới
thấy rõ ràng mình đã thực sự lìa xa quê hương để đi đến một nơi mà mình hoàn
toàn không muốn đến.
Đông Dương, Đông Dương.
*
Đệ nhị thế chiến chấm dứt, đem lại thắng trận lại cho phe Đồng Minh. Đã đến lúc
nước Pháp phải đòi lại những gì của người Pháp, tính luôn những thuộc địa ở
Đông Dương.
Giọng nói của người thủy thủ già vẫn còn vang vang bên tai của Pierre:
-Liên bang Đông Dương, mảnh đất mà thế hệ cha ông của mình đã tốn không biết
bao nhiêu tiền bạc, công sức kể cả việc phải hy sinh xương máu mới tạo dựng
nên. Một Vạn Tượng của Lào, xứ sở của mười ngàn con voi, nằm bên bờ sông Mekong
giữa rừng thiêng núi thẳm. Một Đế Thiên Đế Thích cổ xưa, với những tượng đá bốn
mặt đầy huyền bí của Cam Bốt. Và Hòn Ngọc Viễn Đông, thành phố Paris nhỏ ở Việt
Nam. Mỗi nơi có một sắc thái riêng biệt của nó, tùy mày chọn lựa, tao không có
ý kiến.
Pierre đến Saigon vào lúc những toán quân bại trận của Thiên Hoàng lục đục xuống
tàu về nước. Kỷ luật, trật tự vẫn còn đó nhưng áo quần lôi thôi, xốc xếch. Những
gương mặt ngơ ngác, thất thần dường như hồn một nơi mà xác một nẻo, họ di chuyển
trong im lặng như một đạo quân ma.
Lìa xa quê hương yêu dấu, đi đến một vùng đất xa lạ cách nhau gần nửa quả địa cầu,
dưới sức nóng oi bức, cháy da của vùng nhiệt đới, ngỡ ngàng, ngơ ngác trước nếp
sống của người dân bản xứ, Pierre có cảm tưởng như mình đã quyết định sai lầm
khi đến đây, anh nói với chính mình:
-Có muộn hay không khi mũi tên đã lìa khỏi dây cung?
Lấy lại Đông Dương, chính phủ Pháp dồn mọi nỗ lực để tái lập guồng máy cai trị ở
đây. Khuôn thước, mẫu mực vốn đã có sẵn từ sáu, bảy chục năm trước nhưng vấn đề
nhân lực lại khiếm khuyết trầm trọng. Công sở, hãng xưởng đâu đâu cũng thiếu
người. Pierre vào nhận việc ở hãng Bason sau hơn hai năm lông bông, phiêu bạt
giang hồ khắp Nam kỳ Lục tỉnh, anh làm sếp hơn bốn mươi công nhân người bản xứ.
Sau mấy tháng làm việc đầu tắt mặt tối, phân loại máy móc rồi sắp xếp từng khu
vực, tổ chức lại đội ngũ công nhân, Pierre phát hiện được vài điều thích thú.
Đám công nhân bản xứ siêng năng, khéo tay và nhất là họ thông minh chứ không đần
độn như anh nghĩ. Óc tò mò thúc đẩy anh quan sát, theo dõi họ kỹ hơn. Pierre
chú ý nhiều đến Tám Thẹo, gã là hình ảnh của con bò mộng đứng giữa bầy cừu. Tám
Thẹo với thân hình vạm vỡ, gương mặt đen sạm, cặp lông mày rậm nằm trên đôi mắt
sắc như dao thêm một vết thẹo dài nơi đuôi chân mày như nói lên cái quá khứ đầy
kiêu hùng trong làng dao búa. Pierre vẫn thường nghĩ với trình độ học vấn lớp vỡ
lòng, chữ viết như gà bươi lẽ ra Tám Thẹo phải sống đầu đường xó chợ với lũ côn
đồ chuyên cướp giựt, hoặc xuống bến tàu làm thủ lãnh mấy tay anh chị, đâm thuê
chém mướn có lẽ hợp hơn. Đàng này Tám Thẹo là một thằng thợ tiện, cái nghề cần
hiểu biết chút ít về toán học.
Tám Thẹo thường đi cặp với ông Tư thợ nguội, một ông già thật thà chất phác. Nếu
giải thích được hiện tượng hai thái cực sẽ gặp nhau tại một điểm, đó là trường
hợp của Tám Thẹo và ông Tư. Giờ nghỉ trưa, thay vì về nhà ăn trưa rồi đánh một
giấc thoải mái như mọi người, ông Tư và Tám Thẹo thường ăn cơm tại hãng, sau đó
họ bày bàn cờ Tàu xuống sàn nhà, bàn cờ mà dân bản xứ gọi là Cờ Tướng. Thế giới
của hai người bấy giờ thu gọn lại quanh mấy con cờ xanh, đỏ, lúc lên Xe, khi xuống
Ngựa rồi nghểnh Sĩ, hạ Tượng.
Khi đánh cờ ông Tư lúc nào cũng từ tốn, trầm ngâm suy nghĩ, gặp thế cờ khó ông
nhíu mày, bóp trán, gãi đầu trong khi Tám Thẹo tự nhiên như chốn không người,
gã nằm dài xuống sàn, cong người như con tôm, cùi chỏ chống xuống đất, bàn tay
đỡ lấy đầu cười khoái chí.
-Chiếu Tướng nè, chạy lên mây. Phen này ba gả con gái của ba cho tui họa may
tui nhường ba nước cờ này.
-Mả mẹ mày, vợ con cả đống mà cứ nói bậy, giống hệt như là bọn đá cá lăn dưa,
tao phang cái bàn cờ lên đầu mày bây giờ.
Nhắc đến con gái ông Tư, Pierre nhớ lại tháng trước bỗng dưng trái tim của anh
đột nhiên chết cứng, chết không kịp trối khi anh bất chợt thấy cô ta. Cô bé với
thân hình cân đối, gọn gàng trong chiếc áo bà ba may bằng vải nội hóa, mái tóc
dài óng ả, đôi mắt đen lay láy, sáng ngời và nhất là nụ cười lúc nào cũng tươi
như đóa hoa hồng. Pierre biết ngay mình vừa bị một cú sét nhiệt đới đánh trúng
đầu.
Từ đó vào mỗi buổi trưa, Pierre thường ngồi trong văn phòng trước hàng đống giấy
tờ bày bừa bộn trên bàn. Ở đây qua khung cửa kính nhỏ anh có thể nhìn trộm con
gái ông Tư mà không sợ bị một ai bắt gặp. Cô bé mỗi ngày một đẹp hơn, hấp dẫn
hơn, càng nhìn Pierre càng chết mê chết mệt trong khi con gái ông Tư thản nhiên
dọn cơm cho cha. Cô đặt cái cà mèn xuống đất, thong thả nhắc chén nước mắm ra,
hình dáng cái chén còn in rõ trên mặt phần cơm đựng trong cà mèn. Cô xới cơm
vào một cái tô nhỏ gác đôi đũa ngang miệng tô, ngăn kế tiếp là thịt kho, ngăn
chót là rau luộc. Trong lúc ông Tư ăn cơm, cô cầm chiếc nón culi phe phẩy quạt,
cô quạt cho ông Tư mà Pierre thấy mát rượi cả người. Dưng không anh đâm ra ghen
với ông Tư. Một chút mặc cảm tự tôn dân tộc khiến Pierre vững lòng khi anh có ý
định cưới con gái ông Tư.
Không muốn tình trạng thương trộm nhớ thầm kéo dài, vào một buổi chiều trước giờ
tan sở, Pierre ực một ly Cognac để lấy thêm can đảm rồi đến nói với Ông Tư:
-Tao thương con gái mày. Tao muốn cưới nó làm vợ.
Ông Tư luống cuống sợ sệt ra mặt, cái sợ của một người công nhân khi phải nói
chuyện với sếp. Cố gắng lắm ông mới thốt lên được vài tiếng:
-Mày biết con gái tao?
-Biết chớ, con nhỏ thường đem cơm cho mày vào buổi trưa.
-Chưa bao giờ tao nghĩ đến chuyện con gái tao sẽ lấy một người chồng ngoại quốc.
-Thế cái đám thanh niên bản xứ ốm o gầy mòn, mặt mày vàng ệch như bị sốt rét, chân
tay đen đúa sần sùi như da cóc, bọn nó hơn tao chỗ nào?
-Tụi nó thua mày.
-Vậy sao mày không gả con gái mày cho tao?
-Người Việt thường có thành kiến xấu khi thấy một người con gái bản xứ lấy Tây.
Họ cho đó là một điều sỉ nhục tổn hại đến gia phong, đã là thành kiến, khó lòng
mà đánh đổ được.
Ông Tư thở dài, ông nói với Pierre mà như là than thở:
-Cưới vợ mà mày làm như đi chợ mua chai rượu không bằng. Ít ra tao phải có chút
thời gian để bàn luận với vợ con tao.
Ngày tháng chầm chậm qua đi, Pierre nóng lòng chờ đợi câu trả lời trong khi ông
Tư cố tình cho câu chuyện đi vào quên lãng. Ông không còn ăn trưa tại hãng nữa.
Một vài lần Pierre nghe được đám thợ xì xầm với nhau, câu được câu mất.
-Cưới hỏi mẹ gì, được vài năm lại trốn về Tây.
-Đúng là thực dân, tụi mày coi đó hai con mắt xanh lè như quỷ.
-Còn cái mũi nữa, cứ như là mũi của phù thủy.
Pierre đến trước mặt bọn thợ:
-Tụi mày ăn cắp giờ của hãng nói xấu ai đây?
Anh cứ đinh ninh nói như vậy họ sẽ giải tán trở về làm việc. Chuyện không ngờ được
lại xảy ra. Tám Thẹo với gương mặt hầm hầm, gã nói mà như chực đánh lộn, vết sẹo
trên mặt gã chuyển động theo từng câu nói:
-Tao nói mày. Mày đòi cưới con gái ông Tư? Cưỡng dâm thì có chứ cưới hỏi cái mẹ
gì.
Đến nước này thì Pierre không chịu nổi nữa rồi, anh sa thải ngay Tám Thẹo.
Ngồi một mình trong văn phòng vắng lặng, chiếc quạt trần quay nhè nhẹ phát ra
tiếng kêu đều đặn trầm buồn. Không khí mát lạnh ở đây làm cho cơn giận của anh
nguội mau. Pierre đâm ra ngờ vực chính mình, không biết là anh muốn cưới con
gái ông Tư là do tình yêu hay chỉ vì thấy một cành hoa đẹp muốn hái về để thưởng
thức một mình.
*
Những lúc sau này ông Tư thường hay lánh mặt, ông không muốn gặp Pierre. Phải
khó khăn lắm Pierre mới có dịp nói chuyện với ông Tư.
-Hôm nay tao có chút chuyện muốn nói với mày, sẵn đây tao mời mày ra quán làm
vài ly cho ấm bụng.
-Lại chuyện cưới con gái tao? Mày đuổi mẹ tao luôn cho rồi.
-Không dính dáng gì đến con gái mày hết, tao chỉ muốn chuyện trò để tìm hiểu
thêm về dân tộc của mày. Đừng nói chuyện xa xôi, gần đây thôi, tao biết Phan Bội
Châu, Nguyễn Thái Học.
Ông Tư sa sầm nét mặt.
-Nhà nước Đại Pháp của mày đưa một ông đi an trí, còn ông kia thì lên máy chém.
Pierre nhẹ giọng:
-Mày hiểu lầm ý của tao rồi, tao muốn nói dân Việt Nam của mày bên ngoài coi bộ
hiền lành, chăm chỉ, nhẫn nhục nhưng bên trong của mỗi người Việt Nam là cả một
ý chí bất khuất, kiên cường được tích tụ từ mấy ngàn năm qua. Tao có đọc lịch sử
của tụi mày.
Pierre rót rượu vang đỏ cho mình, đẩy ly rượu mạnh cho ông Tư.
-Tao biết mày không thích uống bia nên tao kêu một ly Cointreau cho mày.
Thấy ông Tư nhăn mặt tỏ ý khó chịu, Pierre vội vàng nói:
-Mày không thích rượu mạnh sao? Nhiều lần tao nghe tụi mày nói chuyện với nhau
uống bia con cọp thà uống nước đái bò ngon hơn. Cointreau là rượu nặng của Pháp
nó không thua gì ba xi đế của tụi mày đâu, cứ thử đi rồi sẽ biết.
Pierre gọi hai dĩa Chateaubriand, anh dùng dao cắt miếng thịt thành những cục
vuông nhỏ.
-Việt Nam gọi món ăn này là gì?
-Giông giống bò lúc lắc.
Pierre nâng ly rượu vang ngang tầm mắt.
-Bên Tây tụi tao ăn thịt bò uống rượu vang đỏ, cá tôm hải sản có rượu vang trắng.
Ông Tư lầm lầm, lì lì.
-Bày đặt cho lắm, phú quý sinh lễ nghĩa. Trắng hay đỏ cũng là rượu thôi. Tao hỏi
mày, ăn thịt bò mà uống rượu vang trắng có bị đau bụng không?
Pierre giật mình nghĩ thầm, thằng này hỏi một câu có lý quá, xưa nay Pierre chỉ
biết làm như cha ông mình dạy, có bao giờ anh thắc mắc đâu.
Sau một phút ngần ngừ, Pierre nhẹ nhàng giải thích:
-Cũng được nhưng mà không ngon lắm. Không hợp thì đúng hơn. Từ chỗ không hợp nó
sẽ làm cho mình cảm thấy không ngon.
Gương mặt ông Tư bắt đầu đỏ ửng sau mấy ly Cointreau. Dĩa thịt bò hình như đang
lúc lắc trên bàn, vơi đi quá nửa.
Pierre thân mật khoác vai ông Tư.
-Mày còn nhớ thằng mặt sẹo mà tao đuổi mấy tháng trước không?
-Tám Thẹo?
-Nó sao rồi?
-Đang tìm việc làm, vợ con nó đói meo người.
-Tội nghiệp.. .Tao hiểu lầm nó, lỗi tại tao. Hôm đó tao quá nóng, ngày mai mày
kêu nó đi làm lại.
-Mày nói sao? Kêu Tám Thẹo đi làm lại?
-Ừ.
-Vậy thì tao phải về gấp, báo tin mừng cho nó.
Đợi ông Tư đi được một khoảng khá xa, nhìn theo cái bóng đen của ông đổ dài
trên hè phố như bóng của một loài ma trơi, Pierre vẫy một chiếc xích lô, anh
buông tiếng chửi thề:
-Mẹ nó, đồ con heo.
*
Bàn nhậu bây giờ lại có thêm một người, cứ mỗi chiều thứ Sáu, sau giờ làm việc
là cả bọn kéo nhau ra quán nhậu. Họ không đến những quán ăn sang trọng nằm dọc
theo bờ sông Saigon, không ngồi Continental, quên luôn Pancrazi ở đường
Charner. Cả bọn tìm đến những quán nhậu bình dân bản xứ, ở đây tha hồ say sưa
bù khú, chén chú chén anh.
Kể từ khi trở lại làm việc, Tám Thẹo trở thành tri kỷ của Pierre, tình bạn thắm
thiết đậm đà như men rượu cay nồng đưa hơi với tôm khô củ kiệu. Một hôm, sau
vài ly xây chừng Tám Thẹo cất tiếng:
-Anh Tư nè, chuyện con gái anh tới đâu rồi? Sao mà êm re vậy?
-Gả con gái tao cho Pierre sung sướng hay khổ cực, hạnh phúc hay không, điều đó
tao chưa biết được, có điều tao biết chắc chắn rằng người ta sẽ gọi nó la me
Tây.
-Thời buổi này anh nói vậy nghe sao được, hơi sức đâu mà chấp nhứt, câu nệ. Me
Tây cũng có năm bảy đường chứ bộ. Pierre cưới hỏi con gái anh đàng hoàng mà.
-Bộ cưới hỏi đàng hoàng, hàng xóm gọi nó là bà Đầm hay sao?
-Thói đời mà anh Tư, mọi chuyện chỉ là do ghen ghét, ganh tị mà thôi. Thấy người
ta hơn mình mấy ai mà chịu được.
Tám Thẹo ực một hơi rượu, xé một miếng khô mực, gã nhìn Pierre nháy mắt rồi nói
với ông Tư:
-Như trong hãng mình mới đây thôi, anh Tư làm việc siêng năng, cần mẫn đương
nhiên anh Tư phải lên chức trưởng toán thợ nguội. Tôi lanh lẹ giỏi tay nghề,
tôi làm trưởng toán thợ tiện, chuyện chỉ có vậy nhưng bọn thợ trong sở lúc rảnh
rồi lại tùng tam tụ ngũ, xầm xì to nhỏ. Hôm nay tụi nó đâm bị thóc, ngày mai lại
thọc bị gạo, cứ nhắm ngay ba sườn của mình mà cù làm sao không giận cho được,
chẳng qua họ muốn mà không được nên gièm pha này nọ. Nói thiệt với anh Tư, tui
chấp hết, bọn nó đụng đến tui chẳng khác gì chuyện bù mắt cắn sừng trâu.
-Nhưng mà …
-Còn nhưn với nhụy cái gì nữa, lấy Pierre con gái anh Tư sẽ sống sung sướng một
đời.
Ông Tư chống đối một cách yếu ớt:
-Tao phải hỏi con gái tao một tiếng, dầu sao cũng là chuyện hệ trọng đến cuộc đời
của nó.
-Hỏi thì phải hỏi rồi, nhưng mà anh Tư nên nhớ, phận làm con cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó. Ngày xưa anh chị cũng vậy có sao đâu? Cũng con cái đầy đàn, cũng ấm êm
hạnh phúc như thường.
-Còn vợ tao bỏ đi đâu? Tao phải bàn qua với bả nữa chớ.
-Ông bà mình có nói, xuất giá tòng phu, phu xướng thì phụ… phụ cái gì?
Tám Thẹo tắc lưỡi,
-Tôi quên bà nó rồi.
Ông Tư uống cạn ly rượu, nhăn mặt nhìn Tám Thẹo.
-Tòng với phụ cái mả mẹ mày, con gái tao mà nhảy sông tự tử, tao sẽ vặn họng
mày.
(còn tiếp 1 kỳ)
Huy Văn Trương