Khi còn trong lòng một chiếc trực thăng cất cánh từ một bãi
đáp nhỏ ngoại ô Pleiku, tôi đã liên tưởng đến cảnh tượng đổ nát của một thị trấn
sừng sững chịu đựng gần hai tháng trời dưới cơn bão đạn. Và tôi đến Kontum lần
này không để rong chơi cho thỏa chí, không để hẹn hò với tình nhân, cô tình
nhân bé bỏng ở cuối con đường Lê Thánh Tôn yêu dấu. Tôi đến thị trấn này, như
đã nói, để tận mắt chứng kiến cảnh tiêu điều sau gần hai tháng thị trấn ngập
tràn lửa đạn. Nhìn những gì đã mất mà hoài hoài chẳng tìm đâu ra được. Một dấu
tích trong luyến tiếc nhớ thương. Những mất mát xót xa đến phát khóc.
Tám năm bỏ trường mà đi rong chơi lận đận. Hình ảnh tôi mang
theo vẫn là ngôi trường tỉnh của những năm cuối cùng ở bậc Trung học. Tôi ước
mơ một lần trở lại quê nhà để thăm trường xưa, trở lại chỗ ngồi của mình ở chiếc
bàn cuối về góc trái. Và tôi đã trở về nhưng không tìm lại được những hình ảnh
dấu yêu đó bởi trường đã đổ nát sau biến cố Mậu Thân.
Tôi đã đứng trước cổng trường hàng giờ để cúi đầu mặc niệm.
Để nghe lòng rưng rưng muốn khóc. Gạch ngói và cỏ đã phủ kín dấu chân tôi và dấu
chân bạn bè ngày xưa. Tôi hằn học với mình tại sao lại trở về. Bởi vì, ngôi trường
đổ nát, những hình ảnh thân yêu ngày nào đã bị dập vùi.
Mai này những học sinh ở đây trở lại với ngôi trường Đào Duy
Từ hẳn hoi rồi họ cũng sẽ nhận lấy một đau buồn xót xa như tôi bây giờ. Tôi
thương họ như thể đã thương tôi. Tôi thấy chính mình cũng bị mất mát, bị cướp
giật. Cướp giật những kỷ niệm thay vì được nuôi lớn để đủ nghị lực mà sống. Thì
ra chiến tranh đã làm mất mát nhiều quá. Và sau chiến tranh thường khi kẻ bại
trận phải bồi thường, nhưng có những thứ mà kẻ bại trận không thể bồi thường được,
trong đó có kỷ niệm. Thật đáng tiếc!
Giặc đã giẫm chân lên làng này sau nhiều năm vây hãm. Trước
khi rút lui, rất cẩn thận mang theo tất cả những gì ăn được và nhóm lửa đốt
làng. Ăn chẳng được thì đạp đổ, đó cũng là một phương sách, một quy luật của
chiến tranh. Cũng trên đường đi vào làng Phương Nghĩa, tôi đã gặp một người mẹ
cặm cụi bới đống tro tàn. Bà tìm của cải chôn dấu trước khi bỏ chạy? Không. Tôi
đã hỏi. Bà tìm dấu tích đứa con thân yêu của mình. Nghe tin chồng chết ở Tân Cảnh,
người thiếu phụ vội vàng đi đón xác chồng.
Đứa con lên mười đang ngã bệnh đành để lại nhà nhờ hàng xóm
trông nom. Từ bệnh viện 2 Dã chiến qua nhà xác Dân y không tìm đâu ra người chồng
đã “mất”. Xác chồng được đưa về nhà xác quân y viện Pleiku. Người thiếu phụ
quên bẵng đứa con để nghĩ đến chồng. Khi chôn cất chồng xong trở về thì ngôi
nhà bây giờ chỉ còn là một nắm tro. Nước mắt còn đâu mà khóc.
Nước mắt đã khô cạn tự bao giờ! Bây giờ láng giềng còn ai để
mà hỏi tin tức đứa con yêu dấu. Bới đống tro tàn tìm dấu tích đứa con cũng là một
cách nuôi nấng chút hy vọng là con mình còn được sống! Đó là một thảm trạng của
muôn ngàn thảm trạng của chiến tranh tại thành phố bé nhỏ này và tại một vài
nơi khác có dấu chân giặc đi qua.
-oOo-
Trên con đường dẫn ra phố chính tôi tình cờ gặp lại Hưng và
Tân, hai người bạn xa cách đã lâu bây giờ mới gặp lại. Hai thằng bạn trông hốc
hác quá chừng. Râu dài như tóc và tóc dài hơn râu! Bộ áo quần trận nhàu nát, nhớp
nhúa, cái bảng tên may trên áo đã không còn đọc được, bụi đỏ bám đầy. Hưng kể
cho tôi nghe thành tích của Tiểu đoàn nó “hạ” chiến xa giặc. Nó nói thật say
sưa, giọng nói trầm trầm đều đặn như một thi sĩ đang đọc thơ mình trước một cử
tọa đông đúc và biết nghe thơ. Hắn nói về những người bạn đã chết, đã anh dũng
hy sinh để giữ thị trấn này, và lúc đó khuôn mặt Hưng trông dàu dàu buồn bã. Hắn
cũng nói đến Trâm, người yêu của hắn, đã không còn đủ bình tĩnh ngồi ở Cần Thơ
chờ tin thắng trận từ Kontum. Trâm đã đến với Hưng trong cơn khói lửa ngút ngàn
vây phủ bốn bề. Và bây giờ, khi gặp tôi, Hưng hết lời ca ngợi tình yêu đó. Tôi
hiểu Hưng cùng nỗi sung sướng còn lại với một cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn
chàng.
Tân cũng tranh phần Hưng kể lại những ngày nó sống thật kham
khổ trên quốc lộ 14. Hai bạn tôi có quá nhiều điều muốn kể. Chẳng đứa nào hỏi
tôi câu nào, chúng đồng hóa tôi như một máy thâu, chỉ nghe mà không được phát.
Tôi không lấy làm bực bội gì cả, trái lại thấy thương bạn mình ghê quá, gần hai
tháng bạn tôi chẳng được tâm sự. Những gì muốn nói cứ chồng chất ngày này qua
ngày khác để chờ có dịp phát nổ. Và gặp tôi như một ngọn nến châm thùng thuốc nổ
đó. Khác với Hưng nói chuyện thật say sưa, Tân nói nhỏ chỉ vừa đủ cho ba đứa
nghe, giọng nói rời rạc chìm lỉm. Tân nói về những vết thương trên người chưa
khô mủ. Về những cấp chỉ huy hết sức can trường mà nó hết lòng cảm phục. Trung
tá Hưng sau hai mươi chín ngày dẫn đoàn quân đi tiên phuông khai thông Quốc lộ
chỉ còn một nắm xương bọc lấy da. Cuối cùng khi con lộ dài 48 cây số được mở rộng
cho người ra vào Kontum thì người sĩ quan can trường đó đã được binh sĩ chiến
đoàn khiêng lên máy bay đưa ông về bệnh viện. Ông không được đồng bào Kontum
choàng lên vai nhưng vòng hoa chiến thắng vào một ngày cuối cùng trên Quốc lộ.
Tân cũng nói đến Thiếu tá Triết, người được chỉ định thay thế Trung tá Hưng bị
thương. Tân nói đó là một sĩ quan đảm lược và gan lì. Một sự can đảm cần thiết
để lật ngược thế cờ ở khúc đường cuối của quốc lộ khi chiến đoàn vượt qua con
suối máu cuối cùng để đi vào thị trấn Kontum. Tân còn kể cho tôi nghe suốt hai
mươi chín ngày ròng rã anh chỉ uống nước bẩn đỏ ngầu đầy những lăng quăng, và
có những người ngã bệnh sốt rét cấp tính. Họ vừa run rẩy khi lên cơn sốt vừa cắn
chốt lựu đạn tung vào đám giặc điên cuồng đang cố tìm cách bám vào thành chiến
xa. Hai mươi chín ngày với những gói cơm sấy dùng nước lã dơ bẩn. Và cuối cùng
đoàn quân đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Anh mô tả đoạn đường anh vừa đi qua
như một con lộ máu. Tân nói đến núi Chư Pao và nhân đó đọc cho tôi nghe mấy câu
thơ trong một bài thơ của một nhà thơ trẻ:
Chư Pao ai oán hờn trong gió,
Một chiếc khăn tang một tấc đường.
(thơ Lâm Hảo Dũng)
Tân nhấn mạnh, chỉ có hai câu thơ đó mới nói lên được những
gian truân mà bạn bè anh đã trải qua. Anh nói anh ít đọc thơ nhưng anh thuộc
lòng bài thơ “Dưới chân đồi Chu Pao” đó của Lâm Hảo Dũng. Lẽ dĩ nhiên khi khẳng
định như vậy về giá trị của một bài thơ anh đã có những lý lẽ riêng của mình.
Tân và Hưng dắt tôi đi thăm vài nơi trong thị trấn. Những gì
còn lại và những gì đã mất của thành phố chịu quá nhiều bất hạnh. Lúc ra về, tạm
biệt một phố thị điêu tàn, tôi mang theo một chút buồn, một chút xót xa ngậm
ngùi về một nơi mà tôi hết lòng yêu mến. Hương Thu của Phương Nghĩa nay chắc đã
không còn? Và tôi nghe như tiếng khóc nàng ngày nào còn ở trong tôi.
Vũ Hoàng, 1972
(Trần Vũ đánh máy lại tháng 5-2018 từ “Tuyển tập Bút ký
Phóng sự Chiến trường 1972”, Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in 1973.)