Bạn vừa công bố một nỗi buồn. Xen chút dỗi hờn, khi gặp lại
một tác phẩm bạn dịch, bản đề tặng tôi, từ hàng sách cũ. Về chuyện này, có lẽ
chỉ cần nói rằng gần hai mươi năm nay tôi xa Việt Nam là đủ. Tôi đã không tính
đến kịch bản bị cấm cửa ở quê hương. Ở nơi ấy tôi không còn và không còn là một
hiện hữu vật chất nào nữa. Những thứ tưởng như chết mang theo còn buông bỏ, huống
hồ đồ đạc sách vở và cả những kỷ vật vô giá dù vô danh. Bạn ạ, có những mất mát
không thể đong đếm bằng nỗi buồn.
Tôi không thuộc trường phái tắm táp liếm láp những mất mát. Con xúc xắc gieo vào tôi đủ ngửa ra những mặt hào phóng để chốn lưu vong không biến thành nhà tù của dĩ vãng, nơi người ta mãi múc từ ao ký ức này đổ sang vũng hoài niệm kia, tát qua tát lại cho đến khi tất cả đều khô kiệt. Tiếng Việt mắc cạn ở đó, chưa đủ chết để hóa kiếp tử ngữ cho bảo tàng, không đủ sống để làm một sinh ngữ cho sáng tạo – một ngôn ngữ sống dở chết dở, như tình trạng của nhiều người viết buộc phải xa xứ. Họ có thể đổi đời, no ấm hơn, chắc chắn là an toàn hơn, về căn bản là tự do hơn, chưa kể con cái được hưởng một nền giáo dục tiến bộ hơn và bản thân về già được lắp răng giả chất lượng hơn. Nếu không cọ xát với ngôn ngữ ở quốc gia đang sống, có lẽ họ cũng hài lòng với vốn liếng tiếng Việt mang theo, yên ổn trong đó như trong hầm trú, nơi cố thủ cuối cùng của cái mà họ định nghĩa là hồn Việt.
Song lưu vong trước hết là một đứt gãy ngôn ngữ không thể hoặc
rất khó bù đắp. Tiếng Việt của tôi ở đây là một sinh thể yếu thế, thiếu dưỡng
khí, suy giảm trí nhớ, trầm lặng, bị động, cô độc, hàng ngày bị tiếng Đức thách
thức và thường trực đối diện nguy cơ xơ cứng, xói mòn, cổ hủ và bảo thủ, bệnh
thoái hóa tất yếu của một ngôn ngữ ở ngoại biên. Sức sống tự nhiên của một cộng
đồng ngôn ngữ trăm triệu thành viên, tôi buộc phải hấp thụ gián tiếp. Việc ấy vất
vả, nhưng khi biết cái giá phải trả cho một từ có thể mất, một thanh điệu có thể
quên, một cái tên có thể bỏ đi để chẳng bao giờ làm ơn quay về, khi nhúng tiếng
mẹ đẻ vào chiếc vạc dầu của ngôn ngữ toàn cầu, khi nhìn chữ rụng xuống để không
còn mọc lên trên một thổ nhưỡng khác, tôi thấy quan hệ giữa mình và tiếng Việt
nghiêm ngặt hơn nhưng cũng tự do hơn. Một quan hệ định mệnh tự nguyện. Nó không
đòi tôi phụng sự vô điều kiện. Tôi không đòi nó đảm bảo vô tận chuỗi cung ứng.
Hai bên đều trở nên khiêm nhường và tương kính, thay phiên phục vụ lẫn nhau;
tôi là công cụ trong tay nó và nó là công cụ trong tay tôi; tôi sở hữu nó và nó
sở hữu tôi. Nếu không lưu vong, có lẽ tôi đã phạm nhiều khinh suất hơn trong ứng
xử với tiếng Việt. Ngôn ngữ không phải là một tập hợp có tổng bằng không, cái
được chẳng hoàn trả cái mất, song ngay cả cái tổn thất lớn nhất cho một người
viết là bị đánh bật khỏi môi trường ngôn ngữ ấy của tôi cũng nhẹ thôi, so với
nhiều bi kịch khác.
Thời làm thư viện sách xuất bản tại miền Nam trước 1975 cho
Tủ sách talawas, tôi đã gặp những chữ ký và dòng đề tặng mà bình thường chỉ là
thủ bút đáng sưu tập của những nhân vật danh tiếng. Song hành trình lưu lạc của
những ấn bản ấy kể về số phận cay đắng của bao người cầm bút, đồng nghiệp của
tôi, ở nửa kia đất nước. Họ chết trong tù, tan nát trong giông bão hậu chiến,
vùi thây dưới lòng biển, cô đơn tàn tạ trong một tồn tại xa lạ nơi xứ người.
Joseph Brodsky hình dung lưu vong là cú ném vọt một nhà văn qua đêm đến chỗ mà
bình thường mất cả đời may ra mới tới: đến sự cô đơn tuyệt đối, nơi chỉ còn
mình và con chữ, không ai và điều gì có thể xen vào giữa. Song thực tế tầm thường
hơn nhiều. Trước khi đủ bản lĩnh để hưởng thụ vụ tăng tốc tuyệt diệu đó, phần lớn
các tác giả lưu vong đã tê liệt vì bị tước đoạt điều kiện thiết thực để có thể
theo đuổi nghề văn: tên tuổi và độc giả. Họ bị ném vọt qua đêm đến chỗ vô danh
để viết vào một chốn vô tăm tích. Cô đơn là người thầy tốt và người bạn tồi.
Mới đây trên eBay tôi thấy ấn bản vở kịch Eine Königin
Esther năm 1918 của Max Brod với dòng "Für Heinrich Mann mit verehrenden
Grüßen" ("Trân trọng đề tặng Heinrich Mann"), giá bán 680 Euro.
Người tặng và người được tặng, cả hai từng bỏ lại tất cả để đào thoát khỏi đất
nước không dung họ và chẳng bao giờ gặp lại quê hương nữa. Heinrich Mann ra đi
với một chiếc va-li nhỏ, Max Brod với chiếc cặp đựng bản thảo nhiều tác phẩm
chưa xuất bản của Franz Kafka, trong đó có tiểu thuyết "Vụ án". Thời
viết luận văn tốt nghiệp đại học, tôi được làm việc với Phông Lưu trữ Heinrich
Mann tại Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin. Tủ sách riêng của ông chỉ còn rất ít,
phần lớn đã thất lạc hoặc rải rác khắp các nẻo đường lưu vong. Dù sao ông vẫn
còn khá may mắn. Walter Benjamin - từng coi đời mình về chi tiết là thành công,
về tổng thể là thất bại - bất hạnh hơn. Ông chạy sang Paris khi đế chế Quốc xã ở
Đức hiện hình. Một phần tủ sách của ông bỏ lại ở Berlin được bạn bè giữ giúp,
lúc đầu tại nhà của Bertolt Brecht lưu vong ở Đan Mạch, sau chuyển được sang
Pháp. Khi Paris thất thủ, ông chạy trốn một lần nữa, mang theo duy nhất một cặp
xách với bản thảo tác phẩm mà ông cho là quan trọng nhất của mình. Trong cơn
tuyệt vọng vì cầm chắc sẽ bị trục xuất trở lại nước Pháp của chính quyền Vichy,
ông quyên sinh. Bản thảo cuối cùng trong chiếc cặp xách ấy biến mất, cũng như
toàn bộ tủ sách 3000 cuốn trong căn hộ bị Gestapo lục soát của ông ở Paris.
Tôi chỉ thấy biết ơn và cả ngưỡng mộ những tiệm sách cũ đã
âm thầm cất giấu để một phần nhỏ tác phẩm của văn học miền Nam trước 1975 vẫn
còn lại ở đó. Như một phản kháng lặng lẽ, một lần nữa của những Guy Montag
trong "Fahrenheit 451". Phần lớn đã làm mồi cho những chiến dịch thu
hồi, cấm lưu hành, bài trừ, "quét sạch nọc độc" văn hóa văn nghệ
"phản động, đồi trụy, bất hợp pháp". Sau này những ấn bản ấy được bán
chui, giá "khá chát"- để dùng lại lời của bạn – song tôi thấy hoàn
toàn xứng đáng. Các nhà buôn sách cũ không bán cân giấy lộn. Đam mê sách và
tình yêu lợi nhuận của họ - cái nào quyết định, không quan trọng - là bộ lọc
sáng suốt hơn hẳn sự thẩm định của phần lớn giới nghiên cứu và phê bình chủ
lưu. Thị trường tỉnh táo hơn những yêu ghét dỗi hờn và đáng tin hơn những tiêu
chuẩn đạo đức thường đầu lưỡi và những tiêu chí văn hóa thường bất nhất của chúng
ta. Tủ sách của Kafka được cô em út trông nom cho đến khi bà bị dồn vào trại tập
trung và cuối cùng bị giết ở Auschwitz. Tưởng đã vĩnh viễn thất lạc, cho đến
khi được một nguồn ẩn danh, rất có thể là một hậu duệ Quốc xã hay một kẻ trộm
am hiểu văn chương, bán cho một tiệm sách cũ ở Munich và tiệm này lại đem bán
cho Đại học Wuppertal. Giới nghiên cứu Kafka ăn mừng. Viện Lưu trữ Văn học Đức ở
Marbach cũng ăn mừng khi mua được bản thảo viết tay cuốn "Vụ án" của
ông, giá 2 triệu dollar. Kafka giao bản thảo ấy cho người bạn thân Max Brod để
đốt; Max Brod không đốt mà xuất bản, rồi tặng lại cho Esther Hoffe, thư ký và
người tình của mình. Bà đem bán. Giá rất "chát". Ở thế giới bên kia,
tôi tin là cả Kafka lẫn Max Brod đều chẳng buồn tiếc gì hết. Họ không phải những
bạo chúa xây lăng tẩm hoành tráng để chôn sống những cuốn sách yêu dấu theo
mình.
Vậy nếu phải buồn, chúng ta nên thực lòng buồn, nhẹ thôi, vì
những ấn bản có thủ bút đáng nâng niu của mình chỉ được bán với cái giá không đủ
mơn trớn lòng sĩ diện. Không nhiều thì ít, văn nghệ sĩ là chủng loại tồn tại nhờ
khai thác lòng tự ái của bản thân. Song cái Tôi lưu vong dường như biết tiết chế
và tự khoanh vùng hơn. Biết rằng phần lớn các cuộc đời lưu vong không phải những
con lắc chao đảo mà là những quỹ đạo một chiều, theo hình dung của nhà thơ lưu
vong không ngừng chất vấn trạng thái lưu vong, vẫn Joseph Brodsky. Lần này ông
không nói quá. Ông không trở về Nga khi Liên Sô đã sụp đổ: người ta không thể tắm
hai lần trong cùng một dòng sông, dù đó là sông Volga, hai lần trong cùng một
vùng biển, dù đó là Biển Đen. Người ta thay đổi, tách ra, rời xa và bỏ lại
chính mình, để một lúc nào đó trở thành một vật thể tự do, một phi thuyền trong
khoảng không, lúc đầu còn bị trọng lực ở nơi xuất phát níu kéo, nhưng rồi sẽ tiến
vào một trường hấp dẫn khác, với những lực hút chưa hề biết đến ở bên ngoài.
Tôi không thể đem theo gì nhiều trong khoang chứa bé nhỏ của
cái phi thuyền đó. Vì thế xin bạn đừng làm theo Bernard Shaw. Gặp ở hàng sách
cũ một ấn bản cuốn sách của mình với lời đề tặng một người bạn, ông mua lại, viết
thêm: "Một lần nữa trân trọng đề tặng", rồi đem gửi cho người bạn ấy.
Phạm Thị Hoài