Nhà văn Đỗ Trường (ảnh Facebook)
Đầu năm 2022, tôi bất ngờ đọc được bài viết “Níu Một
Đời, Giữ Một Thời” của tác giả Ban Mai, một nhà văn trẻ trong nước. Cô
đang là giáo sư giảng dạy về Khoa Học Công Nghệ và Hợp Tác Quốc Tế tại Trường Đại
Học Qui Nhơn
Mở đầu bài viết, tác giả đã vẽ lại bức tranh đen tối, kinh
hoàng sau ngày 30.4.75:
“…phần lớn người Miền Nam làm việc cho chính phủ Cộng Hòa
đều bị tập trung cải tạo. Cuộc sống của nhiều gia đình đảo lộn. Vì sau khi đổi
đời, họ bị thất nghiệp, nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu
điều xơ xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và mì sợi. Trầm trọng
hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình
bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thu tri thức nhân loại. Thay vào đó là
những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa
Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương
Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210
trước công nguyên…
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…”
Và tác giả cho biết sự tình cờ được may mắn tiếp cận với
dòng văn chương miền Nam:
“Mùa hạ năm 2010, tôi tình cờ đọc bài viết của nhà thơ Du
Tử Lê giới thiệu về tác phẩm “Những cơn mưa mùa Đông” của tác giả Lữ Quỳnh do
nxb Thư Ấn Quán ở Mỹ xuất bản, thời gian này tôi đang tìm hiểu dòng văn chương
Miền Nam nên liên hệ, ngay lập tức nhà văn Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh trả lời,
tôi biết họ từ ngày ấy.
Bắt đầu từ đó, tôi tìm đọc dòng văn chương Miền Nam Việt
Nam do nxb Thư Ấn Quán phát hành, vì ngày xưa trước năm 1975 tôi còn quá nhỏ
chưa hiểu biết gì, tôi sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn, thuộc Miền Nam Việt Nam
vì vậy tôi không muốn văn chương Miền Nam bị thất lạc và bôi xoá, tôi cần phải
tìm hiểu và phổ biến lại cho thế hệ trẻ ở trong nước biết.
Thật may mắn, mùa thu năm 2011 nhà thơ Vũ Trọng Quang từ
Sài Gòn photo cho tôi trọn bộ “Văn Miền Nam” (4 tập) và 2 tập “Thơ Miền Nam thời
chiến” do Thư Ấn Quán phát hành năm 2009. Cuốn sách mới nhất tôi được Trần Hoài
Thư tặng là cuốn “Những tạp chí Văn học Miền Nam” do ông sưu tầm và nhận định
in năm 2018, ông đã sưu tầm được 15 tạp chí đã từng xuất bản ở Miền Nam Việt
Nam gồm các tạp chí: Ý thức, Bách khoa, Văn, Sáng tạo, Khởi hành, Vấn đề, Trình
bày, Thời tập, Hiện đại, Văn nghệ, Nghệ thuật, Mai, Văn học, Văn hóa nguyệt
san, Tình thương.
Nhờ ông, tôi có được một cái nhìn khái quát về diện mạo nền
văn chương Miền Nam Việt Nam mà hiện nay ở trong nước đã không còn nữa.
Nếu không có ông, làm sao tôi biết 462 tác giả trong 2 tập
“Thơ Miền Nam trong thời chiến”, mà phần nhiều là những người lính cầm bút đã
chết, đó là “những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương,
khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tập
sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người
nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương Miền
Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rỏ và đúng đắn hơn về một dòng văn
chương tình tự, tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản”
Cuối bài, tác giả có nhiều lạc quan về cái nhìn của một một
số trí thức trẻ trong nước và kêu gọi sự tiếp tay của mọi người trong trách nhiệm
“bảo tồn và chia sẻ Văn Học Miền Nam cho đời sau”.
“Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn
Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập
của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng,
trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một
nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới
nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây
trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài
thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính
nhân văn: “Ta về như lá rơi về cội/Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/Chút rượu
hồng đây xin rưới xuống/Giải oan cho cuộc biển dâu này”. Tuy đây chỉ mới là một
hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền
Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng
đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt
Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch
sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là
trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những
người yêu văn chương Việt Nam.”
Đọc bài viết của tác giả Ban Mai, tôi bỗng nghĩ ngay đến một
người khác, mà diện mạo của ông trong lĩnh vực này lúc nào cũng sáng lên trong
suy nghĩ và hy vọng của tôi: Nhà văn Đỗ Trường.
Đỗ Trường người Nam Định, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm
năm 1980. Sau thời gian theo học Khoa Anh Ngữ tại Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội, năm
1987 ông nghỉ học, đi buôn rồi theo lao động xuất khẩu sang CHDC Đức. Sau khi bức
tường Bá Linh sụp đổ, ông ở lại và cùng cả gia đình định cư tại thành phố
Leipzip, CHLB Đức. Tác phẩm đầu tay là tập truyện “Không Bao Giờ Thành Sẹo” do
Vipen xuất bản 2013. Sau đó là “Về Miền Ký Ức” (tạp bút),“Đất Nước
Với Những Đường Cong”, “Không Thể Sống Trong Im Lặng”, “Từ Hộ Chiếu Buồn Đến
Đau Thương Hành” (xuất bản năm 2019, là một tác phẩm đặc biệt nói về những
khổ nạn mà chính quyền CS Việt nam đã hành xử đối với ông, vì những bài viết của
ông), và mới nhất là “Men Còn Đọng Lại Đáy Vò”, viết về một số tác
giả tiêu biểu, những người lính cầm bút miền Nam (Nhân Ảnh xuất bản năm 2022.)
Ngoài ra, là một loạt các truyện ngắn, tùy bút, ký sự, biên khảo đựợc độc giả
khắp nơi đón nhận khá nồng nhiệt.
Sự nghiệp văn chương chưa dày lắm, nhưng tên tuổi ông
đã nổi bật cả trong lẫn ngoài nước, bởi các bài nghiên cứu khá tường tận, với
những nhận định một cách khá công tâm, sâu sắc, tinh tế về nềnvăn học miền Nam,
đặc biệt qua những tác giả vốn là những người lính cầm bút trong và sau cuộc
chiến.
Lần đầu tiên tôi biết và đặc biệt lưu ý tới Đỗ Trường, cách
nay hơn mười năm, khi đọc được bài viết “Những Giải Văn Học Không Có Thật”.
Ông phê phán (có thể gọi là lên án) Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội đã trao giải
thưởng cho tác phẩm Dị Hương của một tác giả trong nước:
“Ngắc ngứ mãi, rồi tôi cũng đọc xong truyện ngắn Dị Hương
của Sương Nguyệt Minh. Quả thật, ngoài những pha làm tình mang dáng dấp từ truyện
Đồi Thông Hai Mộ, Gia Long Nguyễn Ánh hiện lên đậm tính lục lâm thảo khấu với
giọng văn kiếm hiệp phương Bắc. Còn lại tôi không tìm được điều gì khác tác giả
muốn chuyển tải đến người đọc.”
Để rồi ông nhận định thêm về “hiện tượng” đa số các cây bút
trong nước lúc ấy:
“Trong khi viết về chiến tranh, các cây bút trong nước thật
sự chưa có cái nhìn công bằng với những người quân, cán của VNCH. Họ vẫn hiện
lên đầy rẫy ở các tác phẩm với những hình ảnh méo mó, với những tên gọi xếch
mé. Gần đây nhất tôi mới thấy các cây viết trong nước ca ngợi một người lính
VNCH, vì anh có công cùng với người lính Mỹ cất giữ cuốn nhật ký Đặng Thùy
Trâm, để hôm nay chúng ta mang ra phát động tuyên truyền. Chúng ta hãy bình tâm
đọc lại những vần thơ của nhà thơ Trần Trung Đạo, anh là một thuyền nhân. Cũng
viết về người lính, nhưng anh không phân biệt đâu lính VNCH, hay là anh bộ đội…..”
Sau này, qua nhiều bài giới thiệu, nhận định, phê bình về một
số tác giả và tác phẩm miền Nam của ông, tôi dần dà có nhiều thiện cảm và đánh
giá cao về khả năng văn chương, đặc biệt ý thức về một nền văn học mà cá nhân
ông trước đây chưa từng biết qua, và chắc chắn khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
đã từng bị đầu độc đó là loại “văn chương phản động”, “văn chương đồi trụy” mà
sau tháng 4 /1975 chính quyền Cộng Sản tìm mọi cách hủy diệt, nhưng không thể.
Ông nghiên cứu và viết khá nhiều về những tác giả, tác phẩm
miền Nam. Một số tôi đã đọc được:
- Trần
Trung Đạo – Tiếng Vọng Từ Bên Kia Đại Dương
- Luân
Hoán – Người Kể Chuyện Bằng Thư
- Vũ
Hữu Định – Đường Đi Không Đến
- Vũ
Hoàng Chương – Lạc Loài Trong Cõi Nhân Sinh
- Đinh
Hùng – Con Đường Thi Ca Độc Đạo
- Hòa
Thượng Thích Như Điển – Chân Dung Một Nhà Văn
- Du
Tử Lê – Đời Lưu Vong Chưa Tận Tuyệt Với Linh Hồn
- Phạm
Tín An Ninh – Con Đường Giải Oan Cho Một Cuộc Bể Dâu
- Cao
Xuân Huy – Người Vẫn Không Thể Thoát Ra Khỏi Cuộc Chiến
- Tô
Thùy Yên – Tiếng Thơ Lầm Than Hào Kiệt Từ Một Thời Khủng Khiếp, Một Vận
Phân Ly
- Nguyễn
Đức Sơn – Chập Chờn Trong Cõi Hư Vô
- Thảo
Trường – Những Mảng Ghép Của Chiến Tranh
- Duyên
Anh – Từ Cảm Xúc Cho Đến Tận Cùng Của Con Chữ
- Trần
Hoài Thư – Người Ngồi Vá Lại Những Linh Hồn…
- Trần
Hoài Thư Với Những Vần Thơ Lúc Nửa Đêm
- Nguyễn
Bắc Sơn – Một Đặc Phẩm Của Thi Ca Miền Nam
- Phạm
Ngọc Lư – Người Vẫn Giữ Lửa Cho Văn Học Miền Nam
- Tùy
Anh – Từ tháng Tư buồn đến nỗi đau biệt xứ
- Phan
Nhật Nam – Hè Vẫn Còn Đỏ Lửa
- Nguyễn
Tất Nhiên – Một Trường Thiên Kịch Bản Bi Ai
- Cao
Đăng Khánh – “Lửa Ngoài Giới Hạn” Chúng Không Tạ Từ
- Nguyễn
Nho Sa Mạc – Một Ngôi Sao Xẹt Qua Bầu Trời Thi Ca
- Lữ
Quỳnh – Chiếc Cán Cân Của Văn Học Miền Nam
- Song
Vũ – Người Vẫn Chưa Thể Bước Ra Khỏi Cuộc Chiến
- Trạch
Gầm – Một Giọng Thơ Độc Đáo
- Cung
Trầm Tưởng – Từ Chuyện Tình Lãng Mạn Đến Hồn Thơ (Thế Sự) Lưu Đày
Đặc biệt, trong bài “Văn Học Miền Nam – Một Góc Nhìn”
được viết ngày 16.11.2021, nhà văn Đỗ Trường đã có cái nhìn rất sâu
sắc về Văn Học Miền Nam, đặc biệt hai khía cạnh Hiện Thực và Nhân Bản. Xin
trích đoạn một số tiêu biểu:
…tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền
văn học ấy vẫn mãnh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào lòng người ở ngay
đó, mà còn sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa
kìa!
…có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam
chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của
văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai
đoạn chiến tranh 1954-1975, bởi tính tuyên truyền đã bóp nghẹt những giá trị ấy.
Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng
…dù bị đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một
tên gọi mới, thì thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực,
và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ngòi bút của những
nhà văn người lính mà thôi.
…Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đã sản sinh
ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương
Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân
Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những
tác phẩm còn nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồn gió
mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc
đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xã hội, sự tàn khốc chiến
tranh, cũng như thân phận người lính.
…Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu
ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng,
sáng tạo của họ đã được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền
Văn học miền Nam được hình thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều
hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.
…Nếu không có thơ văn đích thực, thì chúng ta và các thế
hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng
như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một
chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính
đã nối những nhịp cầu ấy. Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến
trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên…Và cái
tình người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính.
Trong bài “Phạm Ngọc Lư -, Người Vẫn Giữ Lửa Cho Nền
Văn Học Miền Nam”, (khi đang ngồi đọc Văn thơ miền Nam 1954-1975, tác
giả chợt nhớ đến nhà thơ Phạm Ngọc Lư, sống trong nước, gốc giáo chức (theo lệnh
động viên nhập ngũ vào khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, nhưng chỉ một
thời gian ngắn, được biệt phái trở lại ngành giáo dục), sau
1975 dù phải sống đời lang bạt khốn cùng, nhưng vẫn tiếp tục sáng
tác những bài thơ (hành) đầy khí khái miền Nam, nhà văn Đỗ Trường đã viết:
“…Từ độ“đất trời dị biệt, gió mây bất đồng” thì
nền Văn học miền Nam bị khai tử. Và tròn bốn mươi năm, tưởng chừng nó
cũng đã chìm vào lãng quên. Nhưng nhìn lại, dường như dòng văn học ấy vẫn
nảy nở, âm thầm chảy trong lòng đất Việt. Có thể nói, ngay sau biến cố
1975 dòng chảy đó tự chẻ ra như những nhánh sông luân lạc… rồi tìm về,
tụ lại đó đây. Tuy chưa thể cháy lên, nhưng nó đã cùng với những nhà thơ,
nhà văn hải ngoại làm ấm lại phần nào cho nền Văn học miền Nam.
Nếu được phép đi tìm những khuôn mặt cho Văn học
miền Nam còn ở lại trong nước, chắc chắn thi sĩ tôi nghĩ đến trước
nhất phải là Phạm Ngọc Lư. Tuy viết không nhiều, nhưng cốt cách Con
Người cũng như hồn vía văn thơ của ông trong một cái xã hội dối trá lọc
lừa, không phải ai cũng giữ được.”
Không chỉ viết về những tác giả, tác phẩm của Văn Học Miền
Nam, nhà văn Đỗ Trường cũng đã viết về một số nhà văn nhà thơ tiêu biểu miền Bắc.
Ông ca ngợi tài năng, sự thành công và cả thái độ “phản tỉnh”của họ, nhưng cũng
đã thẳng thắn phê phán những trường hợp sai lầm, tiêu cực:
-Trong bài “Vài Suy Nghĩ Về Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn
Chiến Tranh Của Nguyên Ngọc” có một đoạn nhà văn Đỗ Trường viết:
“Đọc “Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh” của nhà
văn Nguyên Ngọc, tuy rất khoái, nhưng tôi cảm thấy còn chút lăn tăn. Bởi, không
chỉ Nguyên Ngọc, mà một số nhà văn trong nước vẫn còn luyến tiếc cái Trường viết
văn Nguyễn Du. Một cái trường, dường như có tác dụng hợp thức hóa bằng cấp cho
các bác vừa từ chiến trường trở về thì đúng hơn. Chứ các bác đã thừa biết, có
cái trường quái nào đào tạo được nhà văn, nhà thơ đâu. Do vậy, không những giải
tán cái trường này, mà các bác nên giải tán luôn cái Hội nhà văn, cái Văn Nghệ
Quân Đội, cũng như các trường báo chí tuyên truyền, trường luật pháp cùng các
đoàn, trường nghệ thuật quân đội đỡ gánh nặng thuế má của người dân
Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc về sự đánh giá cao Nỗi Buồn
Chiến Tranh của Bảo Ninh. Tuy nhiên, cuốn sách này còn không ít những đoạn Bảo
Ninh lên gân, và bốc phét hơi bị nghĩa lộ, chứ không toàn bích như Nguyên Ngọc
đã viết
Cách nay vừa tròn hai mươi năm(1993), tôi có về Hà Nội, gặp
được ông em họ vừa ở tù ra vì can tội là lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có
đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết
hoàn toàn sai về người lính VNCH. Như câu chuyện bốn người lính thám kích bị bắt,
tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành động đến thuật lại
những mẩu đối thoại của những người lính thám kích này.
Lính thám kích được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản
lãnh. Họ không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi nữa,
thì cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải của họ. Điều này hắn khẳng
định không thể có. Người lính thám kích đã được giáo dục về nhân cách, ngay sau
khi đã được tuyển chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải
tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả kháng. Cho
nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi nhởn nhơ như
vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa, trong trường hợp đã bị bắt, trước sự sống
chết, không thằng nào ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó trình quý anh, tụi
này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời..
Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện còn nhiều cảnh tưởng tượng
quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo
lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.
Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của mình. Và còn nhiều
lời nặng nề khác của hắn về Nỗi Buồn Chiến Tranh, nhưng tôi xin phép không chép
ra đây. Hắn ra người thiên cổ đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn
và những người lính cả hai miền Nam-Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua.”
Trong bài “Hữu Loan – Tài Năng Và Sự Mâu Thuẫn
Trong Tư Tưởng Cũng Như Thi Ca”, (viết nhân 10 năm ngày mất của thi
sĩ Hữu Loan), nhà văn Đỗ Trường đã đưa ra một vài chi tiết mà gần như hầu hết
trong chúng ta chưa được biết về tác giả bài thơ nổi tiếng“Màu Tím Hoa Sim”
này:
“Khó hiểu, và bất ngờ hơn nữa, trong cùng một thời
điểm Hữu Loan viết bài ngợi ca: Chế Độ Ta, khác hẳn với sự châm biếm,
đả kích ở bài: Cũng Những Thằng Nịnh Hót. Sự mâu thuẫn, nhức nhối
này, làm cho người đọc một cảm giác “Cây gỗ vuông chành chạnh” Hữu Loan,
dường như còn một khuôn mặt khác nữa:
Có thể nói, Hữu Loan có cái nhìn méo mó về Hà Nội và
Saigon, cũng như cuộc di cư của hơn một triệu đồng bào miền Bắc
(sau1954), khi ông viết bài Đêm vào tháng 5/1956. Qủa thực, dưới cái tư
tưởng, quan điểm phiến diện như vậy của Hữu Loan, Hà Nội trước kia, và
Saigon hôm nay (1956), hiện lên trong thơ như một thứ ung nhọt, giang mai
cùng mã tấu. Sự đĩ điếm, bỉ ổi ấy, càng rõ nét hơn dưới phép so sánh
của ông: “Đêm Hà Nội/ Ngày nay/ Như em nhỏ nằm tròn/ Ru trong nôi
chế độ”. Cái khía cạnh, và sự ru ngủ này, trong thơ Hữu Loan, dường
như ít được các nhà nghiên cứu, và phê bình nhắc đến:
Sau 1954, những thi sĩ, nhà văn cùng thời như, Chế
Lan Viên, Xuân Diệu, hay Nguyễn Tuân… đều phải đảo bút, úp mặt quay lưng
vì cuộc sống là điều dễ hiểu. Song với Hữu Loan một nhà thơ thẳng
thắn, và can trường là một điều thật khó lý giải. Do vậy, cần lắm một
sự nghiên cứu của các bậc tiền bối từ trong nước ra đến hải ngoại,
để làm sáng tỏ một cách chân thật nhất về nhà thơ tài năng, đáng kính
Hữu Loan.
Và một trong nhiều trường hợp thay đổi tư duy ngược lại: nhà
thơ Đinh Thị Thu Vân (trong Hội Văn Nghệ Long An)
“…ngay từ những ngày đầu cầm bút Đinh Thị Thu Vân đã
hồ hởi, reo vui: “Tháng Tư ơi xin đẹp mãi tâm hồn.”. Và Ba mươi
tháng Tư đến, nhà thơ như cởi bỏ dĩ vãng, gột rửa được tâm hồn. Lời
tự thú ấy đã được Đinh Thị Thu Vân viết thành thi phẩm: Nếu không có ngày
Ba mươi tháng Tư, rất đồng điệu với khí thế hừng hực của những ngày
sau 30-4-1975. Quả thực, nó chẳng khác gì một bản kiểm thảo trước chi
bộ đảng đoàn vậy
—-
Nếu “Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư” là lời tự
thú, để rũ bỏ quá khứ, gột rửa tâm hồn, thì đến với “Saigon Đau” lại
là sự tìm về dĩ vãng, trong cái tiếc nuối và nỗi đau mất mát của Đinh
Thị Thu Vân. Có thể nói, “Saigon Đau” là bài thơ tiêu biểu, và rõ nét nhất
cái mâu thuẫn tư tưởng trên những trang viết của Đinh Thị Thu Vân. Và nó
cũng là một trong những bài thơ viết về thế sự xã hội hay nhất, mà tôi
được đọc. Thật vậy, nỗi đau và sự luyến tiếc đó, dường như không phải
của riêng nhà thơ, mà nó đưa đến, và nhận được sự đồng cảm của rất
nhiều người. Vẫn những lời thơ tự sự, Saigon Đau như một mũi khoan
xoáy vào lòng người đọc. Nhất là những kẻ buộc phải rời xa quê. Ta hãy
đọc lại những trích đoạn có lời thơ dân dã, song rất đẹp dưới đây để
thấy rõ, (và so sánh) cái mâu thuẫn tư tưởng, cũng như cái tôi, và chất
trữ tình trong thơ thế sự xã hội của Đinh Thị Thu Vân:
-Một vài nhận xét về Đỗ Trường từ những nhà văn thành danh
trong và ngoài nước:
-Trong bài viết về tác phẩm “Từ Hộ Chiếu Buồn Đến
Đau Thương Hành” của tác giả Đỗ Trường, nhà thơ Trần Trung Đạo đã có nhận
xét:
“Nhà văn Đỗ Trường cảm nhận giá trị văn chương và hoàn cảnh
của tác phẩm bằng trái tim trong sáng hơn là tình cảm riêng tư, quen biết trước.
Anh không viết theo cách “mặc áo thụng vái nhau”. Cảm xúc dâng lên sau khi đọc
một bài thơ, một truyện ngắn anh bắt gặp đâu đó, và như thế anh ngồi xuống viết.
Anh có thể không biết và cũng không quá cần phải biết ngay tác giả của bài thơ,
bài văn mà anh đang phân tích là ai, tầm cỡ nào, còn sống hay đã chết, miền Nam
hay miền Bắc, Cộng Sản hay Quốc Gia.
Trong không gian mênh mông không hố hầm ngăn cách của tâm
hồn anh, họ là những con người có trái tim Việt Nam như anh và cùng rung môt nhịp
xót xa hay hy vọng với anh.
Với nhà văn Đỗ Trường, giá trị của tác phẩm làm nên tên
tuổi chứ không phải tên tuổi làm nên giá trị tác phẩm”
-Trong bài viết “Thân Phận Bút Mực Trong Con Chữ Đỗ Trường”, nhà
văn Trần Mạnh Hảo đã có những nhận xét khá độc đáo:
“Đỗ Trường viết văn bí mật như người đi vào một thành phố
bị chiếm. Chao ôi, những trang giấy trắng này đã bị sự dối trá chiếm đóng từ
muôn nơi, trong đó có quê hương của ông tàn tạ những chân trời. Ông hân hoan
trao sự thật lòng mình cho trang giấy như người vợ đêm tân hôn trao cho chồng sự
trinh trắng cả tâm hồn và thể xác…”
-Đặc biệt và mãnh liệt hơn, trong bài viết ngày 28.8.2017,
dưới cái tựa: “Đỗ Trường – Kẻ Không Khoan Nhượng Với “Bầy Sâu Đang
Khiêng Nước Việt Đi Chôn”, được đăng trên RFA, nhà văn Võ Thị Hảo sau khi
nhận định về tài năng và khí tiết của Đỗ Trường, đã kết luận như sau:
“Người Việt ở Đức và mọi nơi trên thế giới rất cần thêm
những người viết mang nhân cách chính trực như Đỗ Trường. Ngay tại Đức quốc, ai
ngờ lại quá hiếm hoi những người viết như vậy. Chúng ta cần biết bao những người
dám nói và viết lên sự thật để tẩy rửa sự tanh tưởi của những cơ hội và nhạt đạo
tâm hồn.
Không cần nổi danh, Đỗ Trường viết vậy là chỉ để tự cứu rỗi
chính mình. Nhưng nhân cách viết da diết vì sự thật và cộng đồng ấy đã cần
mẫn ngày ngày gắng gỏi cho một sự nghiệp lớn và vì thế anh thành danh ngoài
mong muốn.
Bằng những gắng gỏi, góp gió thành bão của mỗi người, sẽ
tới một ngày, Việt Nam…”
-LỜI KẾT:
Bài viết này, ngoài việc giới thiệu đến độc giả diện mạo đặc
biệt đáng quí của một nhà văn sinh ra và lớn lên từ miền Bắc trong giai đoạn
chiến tranh, cũng để thay cho lời cám ơn gởi đến nhà văn Đỗ Trường, người đã
“chuyên chở văn học miền Nam, đặc biệt những người lính cầm bút miền Nam, vượt
qua vũng lầy của cuộc chiến” do chế độ CS man rợ đã cố tình hủy diệt sau tháng
4.1975, để mang đến cho mọi người Việt Nam, đặc biệt những thế hệ hậu sinh
trong nước, giá trị đích thực và vĩnh cữu của nó.
Bắc Âu, 23.6.2022
Phạm Tín An Ninh