Dừng xe trước quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào
ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường,
quán vắng Khách. Đã hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè
Bắc Âu ngày dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm.
Trời nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay những
cành thông như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo thêm chút mát mẻ,
thư thái cho Khách nhàn du.
Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở thành khách quen của Ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái. Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên thấy Lân trong bộ áo Thầy tu, Ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều Tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về Phật và Thiền học . Mặc dù, Ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân.
Gần mười năm nay, sau khi về hưu, hằng năm, vào khoảng giữa
tháng Mười, Vợ Chồng tôi thường sang Cali ở sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu
mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng
mình. Đến hè, mỗi lần trở lại Na-Uy, tôi thường ghé lại thăm Lân. Từ lúc nhận
ra tuổi già qua nhanh quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều và một số Bè bạn
đã lần lượt ra đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước
tôi một năm và Anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: Tu tại Gia. Anh
xuống tóc, ăn Chay trường và mỗi ngày sống với Kinh kệ như một vị Thầy tu, mặc
dù không đến Chùa.
Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt ở một số Chùa chiền
bây giờ không thích hợp với Anh. Hầu hết Bạn bè và những người quen biết đều
tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến mộ phong cách, đạo đức của Anh.
Thực ra, trước khi chọn con đường Tu hành, Anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một
Vị chân tu rồi. Hiền lành, đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất
là những người không may, gặp điều khốn khó và với ai , Anh cũng luôn nở một nụ
cười hiền hòa nhân ái.
Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm Tịnh thất, nằm
trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài ba người
Bạn chí thân.Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần, theo Anh ngồi
tĩnh Tâm hay tập Thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chìu tôi, theo tôi ra ngồi ở
cái quán cà phê bên vách núi yên tĩnh này. Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân
còn nhìn thấy một chút “Thế gian” và chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện
đời xưa, nhắc nhớ khoảng thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ.
Tháng sáu năm 1976, sau khi bị chuyển tù ra Bắc, đến Trại
Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp lại người bạn cũ, có thời ở cùng
đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua Anh bạn
này, tôi quen biết Lân từ đó, để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt
là dù qua bao lần “Biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may
mắn, đi chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981.
Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là Thiếu tá, làm việc ở Bộ
Chỉ Huy Hành Quân Không Quân thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân. Một công việc bất đắc
dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn là phi công trực thăng được chuyển về đây
sau khi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào
loại 2, không thể phi hành hay chiến đấu được.
Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp cứu - rescue một
phi hành đoàn Bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc.
Lớn hơn tôi một tuổi. Lân tình nguyện vào Không Quân và được
sang Mỹ học ngành Hoa tiêu trực thăng. Về nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long
Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn xử dụng trực thăng loại H-34, về sau này được
thay thế bằng UH-1. Đây là một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu
đen, không vẽ quốc kỳ và bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá
bài “ách xì” cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi
hổ, biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một Phi công tài
giỏi, thông minh và can đảm.
Sau đó, được thuyên chuyển về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm
1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều chiến công trong các cuộc hành quân
sang lãnh thổ Cam- Bốt. Năm 1972, tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản
thương cho Liên Đoàn 81 BCND và một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị
thương nhẹ, được đặc cách thăng cấp thiếu tá. Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên
chuyển đến một phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó thì Anh tình nguyện
tham gia phi vụ cấp cứu - rescue một phi hành đoàn Bạn bị bắn rơi.
Nhờ tài năng, lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không
bỏ Anh em không bỏ Bạn bè”, Anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4
người của một phi hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát
hỏa, người xạ thủ đã bị tử thương. Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch
và bất ngờ đáp xuống trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân
truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm gãy
xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi gặp anh
co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng hiểm nguy với tất cả
lòng thán phục Lân. Anh bảo, nếu không có Lân hôm ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã
không thành và ba người bạn cùng phi đoàn đã bị địch quân giết hay bắt sống.
Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp xếp cùng tổ với Lân. Chúng
tôi thuộc đội phát rừng vào mùa Đông và tăng gia vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở
vùng này rất lạnh, không trồng rau được. Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực
khổ, nhưng Lân rất khỏe mạnh. Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là
một sở trường đặc biệt của Lân mà Bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm,
cá bằng tay không, khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các
loài vật , Anh biết ngay đó là con vật gì.
Chỉ cần một nhánh cây, Anh có thể “sáng chế” thành một cái bẫy
để bắt các loại chim, chồn và cả thỏ rừng. Nhờ vậy mà Anh nuôi sống cả một tổ
tù, đặc biệt cứu vài người bị đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam,
các loại lá, vỏ cây trị bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất
chích vào tay, sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này
rất độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại, đi
tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên. Chỉ sau một giờ đồng hồ vết sưng biến
mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, Anh đã câu được gần ba
mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát nước.
Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất
cả ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho Anh em.
Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là Anh biết có khoảng
bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một thanh tre và một sợi chỉ từ
cái bao cát được Lân xe lại và mồi câu chỉ bằng một miếng bông gòn nhỏ. Tối hôm
ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu
sinh, vì có thể bị bọn cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng Anh trốn
trại. Tôi cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng
mưu sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời tuổi
thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, Anh đã theo đám Bạn bè và cả
những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như thế.
Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài mưu trí, lanh lẹ, Lân còn là
một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình với Bạn bè. Một lần trải qua một trận
kiết lỵ kéo dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng
không vững. Lợi dụng lúc đi lấy “phân xanh” , loại lá cây để ủ thành phân bón,
không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã , cách trại
khoảng vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ
bắt một chú heo con, heo sữa mang về giấu ngoài khu vực tăng gia , nằm sát bên
hông trại, để hôm sau vùi vào hầm lửa do tù đào và dùng các gốc cây đốt lửa
sưởi ấm cho tôi ăn dần.
Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại được sức. Một lần khác, khi
được giao cho công việc lên phơi lúa trên sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy
trại, Lân thấy có một buồng chuối thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn
thận, bao lại bằng mấy tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau,
trong một buổi sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc , đứng cách vài thước
không nhìn thấy nhau, Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra
chôn giấu ngoài khu lao động. Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có mặt tay
quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi chuối chín dễ bị
phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời gian quá lâu thiếu chất đường,
nên cả tổ tám người thanh toán buồng chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20
phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy,
cả bọn bị ói thốc tháo ra toàn là chuối.
Biết tài bắt cá của Anh, nên mỗi lần trại tù hay hợp tác xã
bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu
hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác như cá lóc, cá
trê sống trong đó, sẽ ăn hết đám cá trắm cỏ con. Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ,
băng cách bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về
việc này. Nhưng thay vì phải giao tất cả cả bắt được cho trại, Anh tìm vài cái
hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc vào đó. Những
cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ lao động. Và cứ mỗi lần
tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc, mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì
là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá
trong đó mà không bị “phát hiện”.
Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Một khoảng thời gian ở
Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều
phải lên rừng chặt nứa , loại tre nhỏ mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì
theo hợp đồng của trại. Chỉ tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ
không được nhận khẩu phần ăn. Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung
quanh trại tù hết sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa
lên các dãy núi cao tìm nứa. Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông,
lạnh buốt xương và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách lên
núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ.
Bọn tôi phải đóng những cái cọc ngắn dọc trên các con đường,
mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã
xuống vực. Nguy hiểm hơn là khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi
trước, có thể mất mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để
chui qua những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối
đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời. Khi bọn tôi đang lo âu
có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu thì bất ngờ một
một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc, bóng một con vật to lớn nhảy xuống.
Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào
nhau, mặt thằng nào cũng tái xanh. Bỗng Lân quát lớn:
- Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên !
Tôi làm theo Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước
mặt mình không xa, một con dã nhân - vượn người?, cao to bằng ba con người,
lông lá đầy mình, mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi. Lân rất bình
tĩnh, bảo bọn tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào
không khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên
cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị phạt mất
phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho bọn tôi ăn đỡ đói.
Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng. Nếu hôm ấy mà không
có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao lần vào sinh ra
tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này, thực tình chúng tôi mất hết
bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy
một con vật lạ lùng, ghê sợ mà trước đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của
Ông Bà.
Năm 1979, trước khi chuyển trại để rời khỏi Hoàng Liên Sơn,
vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh Biên giới phía Bắc, đội tù chúng tôi
được chọn ra hai tổ đi lao động “thông tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở
cách xa trại khoảng mười cây số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng
20 người, đi bộ, có hai tên vệ binh đi theo. Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối,
bọn tôi được trú ngụ trong một cái Đình làng bỏ hoang, một phần mái và một bức
tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết có phải
để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng” cho bọn tôi một bữa
xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh
soạn nhất trong đời tù bọn tôi.
Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX hướng dẫn chúng tôi ra khu
ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100 mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ
ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt,
nhưng nếu bước chân xuống ruộng, người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi
lên được, vì càng cử động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có
thể ngập đầu. Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp
có thịt trâu, rượu mía tối hôm qua.
Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân đưa ra sáng kiến.
Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây kéo hai đầu, chỉ cần một
người , chọn những người nhẹ ký nhất ngồi trên tấm cửa, gặt lúa, những người
còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an
toàn cho người gặt lúa. Một tấm cửa khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó
lúa gặt được. Khi nào đầy lúa, người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến
của Lân được mọi người hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ
đủ loại lớn nhỏ được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một
số tre được mang tới để vài Anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài. Không ngờ
sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười thửa ruộng
sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá lớn. Tay Chủ nhiệm
xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi và “liên hoan”. Ăn cơm trắng
với cá “trám cỏ”.
Thấy có một cái trống rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình,
Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ” khác. Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một
cái chảo đun sôi gần cả một đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và
trắng mướt. Lân thái nhỏ ra, xin thêm đậu phụng - lạc, giã nát cùng với ít rau,
rắc lên. Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở
thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có thể quên
Lân và những ngày tù thật đặc biệt này.
Sau khi được chuyển về Trại Nghệ Tĩnh, Lân rủ tôi và một người
bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại. Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt
thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang
theo nhiều thức ăn khô, một số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ dấu kín trong hũ
mắm ruốc. Nhờ hối lộ hậu hỉ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt.
Nhưng chưa tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về
việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại không tin
vào khả năng của mình, nếu không có Lân.
Năm 1983, sau gần một năm được chuyển về Trại Z-30 C Hàm
Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê ngoài Nha Trang, tôi vào Sài gòn tìm
Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho biết là sau khi về nhà, Anh sẽ mua ghe tổ
chức vượt biên. Anh còn dặn dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp Anh
ngay. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân.
Thời gian trong tù, qua tâm sự của Lân, tôi biết rất rõ về
nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong gia đình Anh. Ông cụ đã mất trước
75, Lân chỉ còn Bà cụ đang sống với hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên
Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát,
làm việc tại Sài gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75.
Lân được cả nhà, đặc biệt là Bà mẹ hết lòng yêu thương.
Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ Mẹ để ra đi khi CS chiếm Sài gòn, mặc
dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong tay đã giúp khá nhiều Bạn bè ra khỏi
nước. Sau này Lân còn cho tôi biết, chính Mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều
tài sản và dùng vàng bạc giấu được sau các đợt “đánh tư sản”, tìm đường dây đến
một tay thứ trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm.
Lân là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy.
Khi tìm đến nhà, tôi gặp Mẹ và Cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng
là một người Tu hành. Bên kia phòng khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm
lớn hơn một người thật, cao gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của
Lân vừa mới được thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả Mẹ con đều bảo Lân đang sống
ở vùng kinh tế mới dưới Phước Tuy. Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ
đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức Lân.
Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi thăm, viện cớ
là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai người bảo là không biết,
hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó.
Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả Mẹ và em Lân cố
tình giấu giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho Cô em xem và kể thêm một số chi
tiết về Lân cũng như những người trong Gia đình. Khi ấy hai người mới tin và
cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số Bạn bè, nhưng chẳng may
ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị nhốt trong một trại tù
rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ chuyển lời thăm Lân khi có
thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc
với tôi. Mẹ của Lân bảo Cô em vào lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng
hai Mẹ con nhất mực bắt tôi phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi.
Sau hơn tám năm, trở về nhà, chưa kịp làm quen với mấy đứa
con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng Mẹ ngày tôi vào tù và cũng chưa kịp
hỏi được tin tức về nơi chôn cất Cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác
trong Nam từ tháng 6/1976 thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn,
nhận cái giấy trả lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận
cho tôi được tạm trú”. Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm
nuôi ba hôm, sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới
là sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài Bà cô già, góa bụa sống
trong ngôi nhà từ đường của Ông bà Nội tôi để lại.
Tôi lại bị chính quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều.
Không còn con đường nào khác, ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh, Con ông cậu ruột,
nguyên là một HSQ Hải quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến
khích và tổ chức vượt biên, chỉ dành cho Gia đình và những người thân thiết nhất.
Tôi nhờ đứa Cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một tuần lễ,
cũng nhờ Bà mẹ lo lót. Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán bộ thương nghiệp”
ra Nha Trang công tác.
Tôi gởi Lân ở chung nhà với một người bạn thân khác của tôi
là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường Tiểu học mà Anh là Hiệu trưởng, không
ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn
trong một ghềnh đá sát bên bờ biển ở một nơi an toàn. Tôi hẹn cho ghe ghé đến,
đậu xa bờ khoảng 200 mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng Cháu chèo thúng
chai vào đón. Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, Anh sẽ bơi
ra tàu cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa hẹn
một “trang sử” mới.
Mặc dù có Người anh định cư ở Mỹ từ 1975, nhưng Lân quyết định
cùng đi Na-Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận”
Mỹ đã phản bội, bỏ rơi người Bạn đồng minh để đất nước và cả dân tộc mình điêu
đứng lầm than?
Lân cười, bảo chỉ muốn sống gần tôi, người Bạn đã cùng sống
chết với Anh trong suốt đoạn đời tù đày khốn khổ.
Lân cùng học rồi cùng vào làm một Sở với tôi cho đến ngày về
hưu. Chúng tôi cùng hăng say hoạt động trong một tổ chức kháng chiến ngay từ
ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi
tiếng và được nhiều người khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của
tổ chức từ Hoa Kỳ đến Na-Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về
“chiến khu quốc nội”(?), nhưng Ông ta bảo không còn cần thiết nữa. Chỉ một
tháng sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau lòng.
Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối. Những năm sau,
Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm Ông anh, họp Bạn bè và tìm hiểu các tổ chức, hội
đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong được đóng góp phần mình. Lân
thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm
được điều gì.
Chẳng lẽ rồi bọn mình cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ
chết!”hay sao?
Cuối cùng, dường như Lân đã không tìm được một “ánh sáng nào
ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức, phô trương, những bộ quân phục và
lon lá bị lạm dụng, những Ông Bà háo danh Chủ tịch, tranh giành cộng đồng này,
hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố
bịch như đám phường tuồng, làm Anh muốn buồn nôn.
Có những Ông chưa có một ngày trong lính, nhưng lúc nào cũng
tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh hoang chê bai ông tướng này ông tá khác,
phê phán đủ các trận chiến ngày xưa. Cũng có những Ông gốc lính, chẳng biết tài
năng đến đâu, chửi bới không sót một người nào, từ các cấp chỉ huy của mình
ngày trước cho đến Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bằng lời lẽ hạ cấp bẩn thỉu, chụp
mũ người này người khác, nếu không hoan hô “cái tài thao lược” của phe Ông.
Bạn bè thì một số thoải mái với cuộc sống mới và đã biến
thành những Con người mới, quên mình đã từng là lính và bị tù đày. Một số thì
tìm đến với nhau trong những hội hè, mong có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để
có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau
về Việt nam, để đi trở lại trên những “đường xưa lối cũ.” Lân bảo, vẫn biết mỗi
người có quyền chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay
xoa dịu phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao Anh vẫn
thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng.
Đôi khi Lân than thở với tôi:
- Đã hơn 30 năm sống trong cái cộng đồng ly hương này, sao
nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như ngày nào còn ngồi với Bạn trên
chiếc thuyền vượt biển ra khơi!
Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân:
- Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian nó sẽ xói mòn và làm đổi
thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc để chấp nhận và trân trọng những
gì tương đối, bởi rất nhiều Anh em, cũng như Chúng ta, đành phải “Lực bất tòng
Tâm” trước những ước vọng đó sao !
Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho Lân, một con người yêu nước,
tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng còn một nơi nào để “dụng võ”.
Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm, ngồi im lặng như một Thiền sư,
tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường Tu hành, ngày đêm với Kinh kệ, không biết
trong lòng Lân có còn nỗi khắc khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới
đây, trong lúc ngồi bên nhau Lân nói với tôi:
- Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai điều, trước khi chết được
thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng sản và khi nhắm mắt được có Bạn ở
bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi một bài kinh A Di Đà!
Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ treo trong quán cà phê vừa
hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối
nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng
dậy dành đi trả tiền. Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt
lên trời. Không biết Anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những
gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một Thầy tu. Anh
đứng yên lặng nhưng cái bóng của Anh lung linh, sống động trải dài theo bờ con
dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp lại người phi công trẻ,
hào hoa, oai hùng mà mình đã từng quen biết từ một thời nào xa xưa như trong tiền
kiếp.
Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng đội bạn bè đã hy sinh, nhớ
tới những chàng Phi công hào hùng đã từng sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè
1972 và suốt một thời binh lửa. Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy Anh đứng lặng
yên, bất động, hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la
chỉ có vài áng mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời.
Phạm Tín An Ninh