Sau cuộc tấn công đợt 2 Mậu Thân của Việt Cộng, nhà tôi cháy
rụi. Khi lên Đà Lạt học, tôi xin tá túc ở nhà cô tôi ở cuối đường Phan Đình
Phùng. Mỗi chúa nhật, tôi và người em họ ra phố đều nhìn thấy những hình ảnh
oai hùng và đẹp mắt: sinh viên sĩ quan (SVSQ) trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam và
trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị đi phố cuối tuần!
Thỉnh thoảng tôi cũng gặp người cháu gọi bằng cậu đang học khóa 25 trường Võ Bị ghé thăm. Cháu lớn tuổi hơn tôi, con đời trước của chồng người chị cô cậu nhưng xưng hô với mọi người trong gia đình tôi như các cháu con đời sau của anh chị. Khi lên học Đà Lạt ghé thăm cô dượng tôi cũng xưng hô với cô dượng bằng ông bà, các em tôi bằng cậu dì, như ruột thịt.
Nhân coi lại phim The Longest Day (Le jour le plus long), đến
đoạn người con trai tướng Eisenhower xin ra chiến trường sau khi trị thương ổn
định, chỉ huy của anh ta không bằng lòng vì chưa thể chiến đấu như người bình
thường được. Vợ tôi bảo: Đâu phải con ông Tướng muốn gì cũng được! (dầu là muốn
đi chiến đấu) trong khi ở Việt Nam thì…
Chuyện lan man với vợ làm tôi liên tưởng đến người cháu dễ
thương đã quá cố này, đến những kỷ niệm với cháu hơn 45 năm trước ở Đà Lạt.
Sáng nay, lại đọc trên BM blog bài viết “Chuyện ở Học viện Quân sự West Point”.
Rất thú vị và điều này thúc đẩy tôi viết lại vài hàng những kỷ niệm với cháu và
những điều tôi biết về trường.
Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam nhận sinh viên đã có bằng tú
tài II, trúng tuyển sau khi thi đậu vào trường, có thời kỳ phải vượt qua cả kỳ
thi vấn đáp. Khóa sinh được gửi học ở quân trường Quang Trung Sài Gòn 3 tháng để
tiếp thu phần huấn luyện cơ bản. Quang Trung là TTHL cho tất cả những người
lính bình thường!
“Sau khi xong ở Quang Trung, bọn cháu (khóa 25) được xe đón
về trường ở Đà Lạt để học chính thức. Khi xe vào đến cổng trường, một lễ đón tiếp
tân khóa sinh diễn ra long trọng, có cả quân nhạc oai hùng, ai cũng rơm rớm nước
mắt, cứ như tổ quốc đã giao vận mạng đất nước vào tay mình nhưng khi vượt qua bảng
ghi khẩu hiệu “Tự thắng để chỉ huy” trước cổng, lệnh từ chỉ huy ban xuống: “Vất
ba lô, tất cả chạy quanh vũ đình trường ba vòng!”. Ba vòng vũ đình trường là 3
cây số! Và từ đó, bắt đầu thời kỳ “huấn nhục” diễn ra trong 56 ngày với những
thử thách cực kỳ cam go mà nếu không dốc lòng chắc khó mà tồn tại. Cháu kể cho
tôi nghe những ngày mới về trường như thế. Có lần, cháu ghé thăm, khi tôi lấy
xe đưa về, cháu giành chạy xe, tôi bảo, đường lạ để mình chạy, cháu bảo SVSQ Võ
bị không để người khác chở trừ phi là những người cùng trường. SVSQ cũng không
được đi xe lam, không được ngồi quán cóc, không ăn uống ở lề đường, ở các quán
xá bình dân mà phải vào nhà hàng, tiệm ăn sang trọng. Đó là tinh thần “Tự thắng
để chỉ huy”, tôi nghe mà ngạc nhiên pha lẫn thích thú.
Mỗi cuối tuần, phố phường Đà Lạt bỗng đẹp thêm và sang trọng
nhất là khu Hòa Bình nhờ có các SVSQ vừa VBQG vừa CTCT đi phép. Nghe kể mỗi
sinh viên đều có bốn bộ complet là lễ phục gồm 2 bộ tiểu lễ và 2 bộ đại lễ, hai
cho mùa đông và hai cho mùa hè. Chỉ đến khi SV xong thời kỳ huấn nhục, được “gắn
alpha” thì mới được đi phép ra phố với lễ phục, mới “được tôn trọng” như con
người, mới được cư xử theo hiến pháp và luật pháp. Còn huấn nhục thì cứ gọi là
bị đày đọa đến cùng và bị ít nhiều là tùy hên/xui.
Chuyện bị sĩ quan chỉ huy hay huấn luyện viên phạt là bình
thường nhưng việc bị khóa đàn anh phạt mới là cắc cớ, mới là kinh hoàng, là ác
mộng, và việc này có thể xãy ra ngay trong tiệm ăn, nhà hàng, giữa khu Hòa Bình
Đà Lạt, năm hai phạt năm một, khóa 24 phạt khóa 25 là chuyện thường.
Sau Mậu thân, do tình hình an ninh sau biến cố này, các trường
khuyến cáo SVSQ không nên đi quá Ngã Ba Chùa trên đường Phan Đình Phùng và Hai
Bà Trưng cũng thế. Có lần tôi theo cháu vào thăm trường, cậu cháu vào câu lạc bộ
uống café, khi vào nơi này phải đi ngang nhà ăn, ở đó treo tại các vị trí trang
trọng ảnh của các khóa sinh từ khóa I là những vị tướng nổi tiếng và đang tại
nhiệm của quân lực VNCH. Cũng ở nhà ăn, cháu kể khi ngồi vào bàn ăn, từ động
tác bưng chén cơm, đưa vào miệng đến đặt lại xuống bàn đều phải theo hình thể
hình học và theo các phương vuông góc với nhau. Không hiểu người ta thực hiện
việc này nhằm mục đích gì nhưng nghe kể thật là thú vị và điều này giúp người
nghe hình dung được hình ảnh người sĩ quan quân lực VNCH mang lon thiếu úy khi ra
trường!
“Ở West Point, có một slogan là cứ đưa cho tôi một người
không phải tâm thần, tôi đều có thể đào tạo thành 1 công dân ưu tú”.
Trích dẫn trên làm tôi liên tưởng tới slogan chữ to đặt ngay
trước trường Đào tạo Người nhái ở bán đảo Cam Ranh trước 1975 đại để là: “Việc
gì người thường không làm được, người nhái phải làm được!” Tôi không ở gần cháu
được lâu vì không còn học ở Đà Lạt năm sau nhưng sau này nghe gia đình kể lại rằng,
trước ngày ra trường, người anh em cột chèo với ba cháu là một dân biểu có thế
lực ở Sài Gòn có nhã ý đề nghị vận động cháu về làm việc ở Nha Quân pháp bộ Quốc
Phòng để khỏi đi chiến đấu nhưng cháu lễ phép cám ơn và từ chối với lý do là
không thể phụ lòng tin và mong mỏi của trường. Cả nhà không đồng tình nhưng nễ
cháu và không tiếc lời ca ngợi nhà trường.
Ra trường, cháu về đơn vị tác chiến của SĐ2 BB (đóng ở Quảng
Ngãi mà mùa hè đỏ lửa 1972 cũng đã xãy ra những trân kịch chiến với Bắc quân),
đó là điều mà cháu lấy làm tiếc vì khi ghi danh vào các binh chủng lừng danh
như Thủy quân luc chiến, Biệt động quân, Nhảy dù… đã có những đồng môn đỗ cao
hơn chọn trước và hết chỗ! Khi cuộc chiến kết thúc, cháu đã mang quân hàm đại
úy. Đẹp!
Sau 1975, khi cháu đi tù về, thỉnh thoảng tôi có gặp đôi lần,
vẫn như xưa với nụ cười hiền và mắt sáng khi cười, vẫn lễ phép, nhã nhặn, sau
đó lại nghe cháu về Sài Gòn làm việc cho một HTX của bạn cùng khóa, hợp tác xã
này ưu tiên và ưu đãi cho tất cả đồng đội ở tù về. Sau này, rất vô tình, tôi lại
gặp một cựu sinh viên khóa này ở thị trấn tôi làm việc, vậy là anh ta gọi tôi bằng
“cậu” và kể lại câu chuyện trên cùng những chia sẻ về sau khi cháu bệnh ở Sài
Gòn rồi qua đời và khóa 25 đã giúp đỡ vợ con cháu như thế nào.
Vẫn biết rằng, “La comparaison n’est pas
raison” (mọi sự so sánh đều khập khiểng), đem so sánh trường West Point
thành lập từ 1802 với trường VBQGVN ra đời ở Đập Đá, Huế năm 1950 (nhưng chỉ với
học trình 9 tháng rồi tăng dần lên 4 năm từ năm 1966) là không ổn nhưng tôi
nghĩ, sinh viên VBQGVN cũng không khác gì West Point như mô tả dưới đây: “Nhìn
các học viên WP đánh đàn, nhảy, khiêu vũ, võ thuật, hát, ảo thuật, thám hiểm, vẽ…hay
thậm chí tỉ mỉ ngồi cắt tỉa giấy để rèn luyện đôi tay khéo léo, bạn sẽ thấy
mình sẽ phải cố gắng thật nhiều. Một ngày chỉ có 24h, là công bằng cho tất cả mọi
người. Chúng ta phải ngủ 6-8 tiếng, ai cũng chỉ còn 16h trong ngày. Nên phải
chia ra, làm gì, học gì trong quỹ thời gian ít ỏi đó. Một WPer nếu sáng sớm
không nộp được bảng mô tả công việc trong ngày (daily to-do list) cho bạn trưởng
nhóm, thì coi như nắm chắc suất cuốn gói về quê”.
Với tuổi đời chỉ ¼ thế kỷ, chương trình và nội dung đào tạo
lúc đầu theo mô hình Pháp rồi Mỹ nhưng trường đã góp phần không nhỏ cho sự lớn
mạnh và làm rạng danh quân lực Việt Nam Cộng Hòa với những chiến công lẫy lừng
của những sĩ quan đã từ đó ra đi, đã làm những cố vấn Mỹ và sĩ quan đồng minh
chiến đấu chung chiến hào không tiếc lời ca ngợi và cả người của “bên thắng cuộc”.
. . sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn còn nễ phục kể cả khi họ chỉ là một tù
nhân đang bị đày đọa trong các trại tù.
Nguyễn Hoàng Quý