Thi sĩ Xuân Diệu, một thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn
(TLVĐ) đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu.”
Tình yêu và thơ rất giống nhau vì đó là hai “chủ đề” khó định
nghĩa nhất. Nó là hai thế giới không có lằn ranh, không ai biết bắt đầu từ
đâu và kết thúc chỗ nào.
Thơ thì “Hay” và có ý nghĩa với tác giả nhưng với độc giả,
phần nhiều: “Chẳng hiểu thi sĩ định nói cái gì?”
Tình yêu trong tiểu thuyết còn mông lung hơn nữa. Chấm dứt
trong hạnh phúc hay trong nỗi buồn của những nhân vật đều do tác giả quyết định,
không phải theo ức đoán của độc giả. Tác giả đưa ta đến một chỗ ta chưa nghe đến
bao giờ, và làm cho ta tin đó là nơi chốn có thật, đặt nhân vật vào một hoàn cảnh
vô lý rồi mặc ta tha hồ cười khóc hộ tác giả.
Nhưng cả tình yêu và thơ luôn luôn biến chuyển theo thời gian và không gian.
Hãy hình dung ra tình yêu của thời đại điện toán ngày hôm
nay.
Thói quen thỉnh thoảng uống cà phê trong quán một mình, tôi
mới có vào khoảng vài năm nay, và tôi thấy nó bỗng trở nên cần thiết. Ngồi một
mình, muốn nghĩ gì thì nghĩ, nhìn ngang nhìn dọc ra ngoài cửa kính xem xe cộ,
người đi, tha hồ tưởng tượng và đặt cho những nhân vật bên ngoài đó một cuộc đời,
một cuộc tình hay một vai kịch mà mình thích cho họ đóng tùy theo dáng dấp, y
phục, tuổi tác của từng người. Nhìn ra ngoài mãi, mới nhâm nhi hết một nửa ly
cà phê, chán, lại nhìn trong quán ngay chung quanh mình. Ở Starbucks có những
cái bàn đơn cho những cái laptop và một người lơ mơ ngồi viết hay đọc một
cái gì không rõ rệt hoặc cho sinh viên làm vội bài trước khi đến lớp, cũng có
đám ba bốn người họ chập hai cái bàn nhỏ ngồi với nhau uống cà phê trong giờ
trưa của một cơ sở gần đó, cũng có cái bàn cho một cặp tình nhân trẻ, ngồi xuống
không đầy mười phút cho một cái hẹn vội.
Hôm nay tôi vào Starbucks với một chồng sách của Tự Lực Văn
Đoàn (TLVĐ). Chọn một cái bàn trong góc để ngồi lâu và không ai chú ý đến mình.
Tôi đứng lên mua một ly cà phê đen, tự pha đường lấy, ngồi xuống nhâm nhi và ngắm
nghía.
Ngắm người ngoài cửa kính mãi, thấy đủ, tôi ngắm cái
bàn cạnh mình: một cặp người trẻ, có dáng vẻ của một cặp tình nhân. Hai ly cà
phê trước mặt, hai người cùng cầm trên tay hai cái iPhone, họ chẳng trò chuyện
gì với nhau cả, mặc dù giữa họ là một khoảng cách mặt bàn rất ngắn, nên khi hai
cái đầu cùng cúi xuống, hai vầng trán cụng vào nhau. Họ chăm chú nhìn vào cái
phôn trên một lòng bàn tay và những ngón của bàn tay kia cứ lướt đi lướt lại
thoăn thoắt trên mặt phôn. Thỉnh thoảng họ dừng lại uống một ngụm cà phê rồi lại
cúi xuống cái phôn.
Lạ thật! Rủ nhau vào quán để có một khoảnh khắc riêng
tư với nhau mà chẳng ai nói với ai tiếng nào. Họ ngồi như thế, làm những điều
như thế, cho đến khi ly cà phê của tôi gần cạn cũng là lúc họ đứng lên ra về. Cả
hai ra bãi đậu xe, trên tay mỗi người vẫn cầm một cái phôn, cặm cụi cúi xuống
nói với cái phôn trên khúc đường ngắn. Trước khi chui vào hai cái xe khác nhau,
lúc đó họ mới rời mắt khỏi cái phôn, xáp lại nhau, quàng tay qua vai, hôn môi
nhau, ngưng, rồi lại kéo dài ra một chút (chắc phải yêu nhau lắm).
Tôi cúi xuống trang giấy mở. Ngược lại dòng thời gian, đọc một
đoạn văn của một chuyện tình thơ mộng, như có, như không.
Bóng chiều sẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong hơn
lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một
mùi thơm nhẹ thoảng đưa, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều?
Mắt Loan lặng nhìn Dũng, nàng nói:
- Em nghe thấy tiếng sáo diều ở đâu.
Dũng đặt tay vào rá đậu ván tìm mấy chiếc lá lẫn trong quả
đậu.
- Tôi thích trước cửa buồng có một giàn đậu ván vì hoa đậu
ván đẹp.
Loan đáp:
- Hoa đậu ván màu tim tím…
Nàng nói câu ấy, tiếng khẽ quá như sợ hãi điều gì. Một
bàn tay Loan rời cạnh rá, đặt gần tay Dũng. Mấy ngón tay thong thả cời những quả
đậu lên lại bỏ xuống. Dũng nghĩ nếu lúc này đặt tay mình lên tay Loan và nắm lấy,
Loan sẽ yên lặng: Loan, cũng như chàng, chắc sẽ phải cho thế là một sự tự
nhiên. Một giây phút đợi chờ.
Đôi Bạn, tác phẩm viết sau Đoạn Tuyệt của Nhất Linh nhưng
lại là tác phẩm mở đầu cho một chí hướng cách mạng và mở đầu cho mối tình của
Loan và Dũng. Nói cho rõ hơn, Nhất Linh đã viết Đoạn Tuyệt, một tác phẩm tiểu
thuyết vị nhân sinh trước, sau đó ông thấy cần viết một tiểu thuyết vị nghệ thuật
nên Đôi Bạn được ra đời.
Dũng là một con trai của quan tuần phủ giầu có, nhưng chàng
chán ghét cái cảnh giầu sang của một gia đình quan cách mà chàng cho là không
lương thiện. Chàng chọn thoát ly cái đời sống chàng đang có để đi làm cách mạng.
Loan là một cô bạn láng giềng hồi nhỏ ở quê nhà, con của
một nhà nho lỡ vận (cũng là bạn cũ của ông tuần). Hai người yêu nhau, nhưng
Dũng biết chắc là không bao giờ cưới được Loan vì cha chàng đang thu xếp cưới
Khánh, con gái cụ thượng Đặng cho chàng và mẹ Loan thì cũng đã hứa gả Loan cho
Thân, một thanh niên con nhà giầu nhưng ít học.
Tình yêu của Loan và Dũng là tình yêu mong manh không rõ rệt,
nó như một hương thơm đọng lại trong không gian, lúc có, lúc không, nhưng họ cảm
thấy được sự tồn tại của nó. Thơm và đẹp.
Mùi hoa khế đưa thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng
như không phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Đó là một thứ hương lạ để
đánh dấu một quãng thời khắc qua trong đời: Dũng thấy trước độ mười năm sau, thứ
hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến phút chàng đang đứng với Loan ở
đây. Cái phút không có gì lạ ấy, chàng thấy nó sẽ ghi mãi trong lòng chàng cũng
như hương thơm hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong vườn cũ.
Tình yêu của Loan và Dũng không có một hứa hẹn, thề thốt gì
như những người cùng thời sống bên ngoài xã hội, nhưng Dũng tin chắc càng xa
nhau, không gặp nhau tình yêu của cả hai lại càng có thật và không bao giờ mất
đi được. Một khoảng khắc rất ngắn ngoài vườn hay trong quán nước bên đường với
nhau cũng mang lại hạnh phúc tràn ngập trong tâm Dũng. Giống như hơi nước bốc
trên mặt hồ, một mảng khói xám mang mang không biết là sương hay khói sóng
nhưng nó luôn luôn ở đó, mất đi, lại hiện ra nên cả hai điều biết chắc là có và
đẹp.
Dũng có cảm giác êm ả lạ lùng và cái quán hàng trong đó
có Loan ngồi, chàng tưởng như một chốn ấm áp để chàng được cách biệt hẳn cuộc đời
mà chàng thấy đầy phiền muộn, buồn bã như buổi chiều sương khói ngoài kia.
Loan tin chắc là Dũng yêu nàng, nên ngay cả khi Loan sang
nhà Dũng phụ với Hiền, chị của Dũng, trong việc sắm sửa chăn gối cho cô dâu,
Loan vẫn vui trong lòng vì tin chắc Dũng sẽ không khi nào lấy Khánh, Dũng sẽ bỏ
đi, có Loan đi theo hay không thì nàng chưa rõ, nhưng chàng sẽ bỏ đi. Loan có cảm
tưởng chính mình là cô dâu.
Loan kéo về phía mình tấm chăn bông mà Hiền vừa lồng
xong, cuộn tròn lại. Nàng chống khuỷu tay rồi nghiêng mình đặt má lên tấm chăn
bông. Một tia nắng chiếu thẳng vào mặt khiến Loan lim dim mắt lại; những bụi
vàng bay tản mạn trong ánh nắng. Đôi môi nàng tự nhiên hé mở, cười một cách yên
lặng. Nàng đưa đi đưa lại gò má trên nền vóc ấm nắng:
Ấm lạ, cô dâu nào đắp chăn này tha hồ ấm.
Tôi không có tham vọng đào sâu về tình yêu của tất cả các
nhân vật trong tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, vì đề tài này rộng quá. Tôi chỉ
muốn nói đến cuộc cách mạng ái tình trong văn chương TLVĐ nói chung.
Dù yêu bằng cách nào và dưới ngòi bút của tác giả nào thì
tình yêu trong tiểu thuyết TLVĐ vẫn chuyên chở cái sứ mạng: “Đổi mới trong
tình yêu và trong cách nhìn về tình yêu”. Giúp cho sự thay đổi một xã hội
đã bị dìm sâu vào văn hóa Khổng Mạnh.
Những tác giả của nhóm TLVĐ theo Tây học. Họ muốn xây dựng một
thế hệ phụ nữ Việt cấp tiến hơn, biết yêu chính bản thân mình mà không qua một
gò bó ép buộc nào. TLVĐ muốn vẽ một bức tranh xã hội Việt Nam không phải chỉ bằng
mực Tầu, một thứ bồ hóng pha nước rồi cho một cái tên rất đẹp là “Tranh Thủy
Mặc” họ muốn vẽ ra một xã hội mới bằng hộp mầu có đủ mười hai sắc của một
cái cầu vồng.
Trong Đẹp của Khái Hưng. Nội dung của truyện này là một
tình yêu đẹp giữa một họa sĩ lớn tuổi (Bạn của bố) và cô cháu gái mới lớn (Con
của bạn). Hai nhân vật chính là Nam và Lan.
Quan niệm về tình yêu của Lan là quan niệm mà phần đông, những
người thuộc lứa tuổi nàng, ở thời điểm đó không suy nghĩ như thế. Họ có thể lấy
chồng từ thủa còn rất trẻ do sự hứa hẹn trước của hai bên cha mẹ, nhưng họ
không biết tình yêu là gì.
Lan yêu chú Nam, bạn của bố từ khi chú Nam đến chơi ở nhà
Lan, lúc cô mới 9 tuổi. Khi chú Nam chào từ giã gia đình cô, cô bé chín tuổi,
đôi mắt xanh và to đã nước mắt đầm đìa và Lan phải nén lòng mới không khóc òa lên
trước mặt mọi người. Trong một giây yên lặng với tất cả buồn rầu của một cuộc
biệt ly, Lan đã rụt rè hỏi mẹ: “Thế mà me bảo me cho con về chơi Hà Nội với
chú”.
Có ai biết được đấy là một câu tỏ tình của cô bé lên
chín.
Tình yêu đó cứ lớn dần theo tuổi và mặc dù không gặp lại chú
Nam nữa, Lan vẫn cứ yêu và chờ gặp lại. Khi gặp lại nhau ở Quảng Yên, Lan được
17 tuổi, đã đi học ở Hà Nội. Lan làm đủ mọi cách, từ cử chỉ cho đến ngôn ngữ để
Nam hiểu là cô yêu Nam, nhưng Nam vẫn không chú ý, vẫn coi Lan là một cô bé, mới
lớn thích lý sự, thích chứng tỏ sự hiểu biết với người lớn, Nam còn khó chịu
khi thấy Lan sắc xảo, thông minh quá.
Nam không chịu nhìn ra tình yêu của Lan thì chính cô phải tấn
công trước, tấn công không được, chú Nam vẫn giả vờ không hiểu thì cô phải viết
thư tỏ tình. Cô nói thẳng thắn ra là: Em yêu anh từ khi lên chín, Lan nói trong
thư, khi chú Nam từ biệt Lạng Sơn về Hà Nội, cô khóc ngấm khóc ngầm nhớ, nhớ
thành thực, nhớ sâu xa chứ không phải nhớ một ông chú hờ. Rồi mấy năm sau về Hà
Nội học, Lan lớn lên và tình yêu bất diệt. Lan theo dõi việc làm của Nam, đến dự
những cuộc triển lãm tranh của Nam, chạm tay vào những bức tranh Nam vẽ và Lan
thất vọng lắm, vì Nam không nhận ra cô cháu ngày xưa. Nhưng Lan vẫn ngấm ngầm
yêu đơn phương.
Tình yêu của một cô bé lên chín “ ĐẸP” như cái tựa của cuốn
sách. Một thứ ái tình mới mẻ của đầu thế kỷ 20. Thời mà “Cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó” hay có khi lấy chồng vì một lời hứa hẹn trước của hai bên cha mẹ. Nhưng Lan
nghiễm nhiên từ chối cuộc hôn nhân hứa hẹn để “Yêu” cái tình yêu từ thời thơ dại
của mình và nàng đã thắng.
Khái Hưng mở đầu cho “tự do luyến ái” bằng một cô gái được
đi học, có kiến thức để tiếp tục yêu “Cái tình yêu từ thời thơ dại của mình”.
Cô đọc tiểu thuyết Pháp, áp dụng tình yêu tiểu thuyết vào tình yêu của chính
mình. Cô tự động tìm đến xưởng vẽ của người đàn ông cô yêu và bắt đầu một cuộc
chinh phục, bằng sự hiểu biết của một cô thiếu nữ có học ở tuổi 17.
Trong những dịp trò chuyện, Lan tìm đủ mọi cách để chinh phục
Nam, nói cho Nam hiểu Nam cần có một người vợ.
Ra vườn, Lan ngắm quanh một vòng, rồi cười bảo Nam
- Trong vườn hẳn có nhiều cây bất tử.
Nam không hiểu, hỏi lại:
- Bất tử?
- Vâng, vì được sống mãi trong tranh họa sĩ.
Nam cho câu khen rất ý nhị và cảm động nhìn Lan
- Nếu vậy Lan cũng bất tử rồi.
- Vâng, nếu bức tranh của con được lưu lại hậu thế, mà chắc
thế nào cũng được lưu lại hậu thế, vì ông là một họa sĩ có tài, có đại tài.
Cảm động đã biến thành cảm tình và Nam không dám tơ tưởng
đến vẻ đẹp ngây thơ của Lan nữa: Lan là người lớn như mọi người đàn bà khác, có
khi còn hơn mọi người đàn bà khác.
Lan còn nói cho Nam hiểu là Nam cần có một người đàn bà
trong cuộc đời nghệ sĩ của chàng, người đó dọn dẹp những bừa bãi trong xưởng vẽ
và:
“Người ấy phải là một người đàn bà. Hơn thế, phải là một
người vợ. Các ông họa sĩ, thi sĩ, nói đến đàn bà, nói đến những người đảm đang
như nói đến quân thù. Cái đó đã thành lệ, thành sáo mất rồi. Nhưng không sao, họ
nói, họ phàn nàn, họ than phiền, mặc, họ không bỏ qua được cái cầu ấy, cái cầu
lấy vợ.
Trong một lá thư Lan viết cho Nam (cốt để chinh phục chàng),
nói chuyện nàng bị cô giáo phạt cấm túc, Lan nói:
Cô giáo em vô lý quá, ông ạ. Ai lại đọc tiểu thuyết trong
giờ khâu mà cấm phạt ra ngày chủ nhật.
Chương trình nhà trường mới lại càng vô lý chứ! Sao không
dậy con gái học vẽ như con trai mà lại bắt học khâu! Những việc nữ công ấy
có khó gì đâu! Ai làm chẳng được, mà cần phải dậy! Chừng họ tưởng công việc của
chúng em là khâu vá suốt đời chăng? Nếu quả như thế thì cũng buồn ông nhỉ! Đời
người phải là một đời nghệ sĩ, một đời họa sĩ, mới đáng sống, phải không ông?
Em nói thế không phải em nịnh ông đâu, em không thích nịnh ai bao giờ. Nhưng em
tin thế. Sống cho cái đẹp, sống để yêu cái đẹp, nói thế có đúng không ông? Hay
không có nghĩa gì hết.
Nhưng mặc Lan lý luận, Nam vẫn “trơ như đá vững như đồng”.
Nam là một nghệ sĩ đích thực, anh yêu vẻ đẹp của phụ nữ nói chung. Những người
mẫu từ vũ nữ đến tiểu thư con nhà, từ các người vợ của bạn. Ai có nét đẹp và
thích làm người mẫu chàng đều vẽ và mê đắm họ trong một thời gian. Nhưng chàng
không ở lại với ai lâu bao giờ. Chàng sợ ràng buộc. Lá thư dài tỏ tình gần mười
trang của Lan, cô bé yêu mình từ năm chín tuổi, thực sự làm Nam cảm động. Lan
đã thắng và kết cục của mối tình Đẹp đó là Nam hỏi cưới Lan làm vợ.
Lan trở thành cái người đàn bà mà Lan cho là cần thiết trong
xưởng vẽ của Nam. Thật ra người đàn bà đó chẳng qua chỉ là cái bình để Lan
rót vào trong đó cái tình yêu từ thời lên chín của mình. (Một tình yêu rất
TLVĐ)
Với Trống Mái, Khái Hưng đã cho một cô gái tân học có
cái nhìn bình đẳng về tình yêu rất mới. Mới đến nỗi chính cô cũng luôn luôn tự
hỏi mình, tự cười mình.
Hiền, một cô gái trẻ, đẹp theo Tây học từ Hà Nội về Sầm Sơn
nghỉ hè, Hiền gặp Vọi, một anh thuyền chài, có thân hình khỏe mạnh, đẹp như một
bức tượng Hi Lạp với một đầu óc đơn sơ (vì không có học). Hiền luôn đem Vọi ra
để so sánh với Lưu, một người đang theo đuổi Hiền, một Trạng sư tương lai để thấy
cái khác biệt giữa hai người. Đã có lúc Hiền mơ mộng lãng mạn, tự hỏi:
“Ừ, họ cứ nói, cứ bàn suông rằng không nên phân biệt đẳng
cấp. Vậy sao ta không thể làm vợ anh Vọi được? Anh Vọi và ta đều không thuộc đẳng
cấp nào cả, vì đã không chia đẳng cấp thì làm gì có đẳng cấp.”
Hiền băn khoan giữa cái trí thức đầu óc và cái tâm hồn mộc mạc.
Hiền dư biết cái đẹp hình thức khó lòng mà cảm được trái tim của người trí thức.
Nàng bị giằng co giữa hai đầu sợi chỉ vô hình:
“Biết thế nào là tương đương? Tâm hồn không phải là trí
thức. Có trí thức mà gian trá, lừa dối, tàn ác, không bằng có một tâm hồn ngây
thơ thô lỗ mà thành thực.
Nàng nhận thấy Vọi đứng riêng ra một xã hội khác hẳn với
cái xã hội nàng đang sống, cái xã hội chỉ nghĩ đến dùng trí thức để che đậy một
tâm hồn xấu xa, đê hèn”.
Giầu đầu óc tưởng tượng Hiền còn phác họa ra cảnh “Một túp lều
tranh với hai trái tim… có lẽ bằng vàng”. Hiền và Vọi cùng trẻ, đẹp, khỏe mạnh
sẽ yêu nhau sống hạnh phúc với nhau và làm việc bằng tay chân như những người
dân chài lưới, ít học.
Trong khi đó thì tình yêu của Vọi đến với Hiền không có một
chút lý luận nào, nó giống như nước biển từ từ thấm vào cát, giản dị và chan
hòa. Tình yêu là một điều gì quá mới mẻ và lạ lùng. Giản dị, Vọi chỉ biết sung
sướng được ở bên Hiền càng lâu càng tốt:
“Cái sung sướng đó chẳng một lần nào Vọi tìm hiểu xem cỗi
rễ từ đâu. Chàng chỉ biết rằng hôm nào không gặp cô thiếu nữ “có lòng tốt” thì
chàng buồn rầu chẳng biết làm gì. Ngày ngày chàng đánh rút bên kia làn nước, mắt
lơ đễnh, tay chân rời rạc, tâm thần bâng khuâng. Nhưng cô Hiền chỉ đi qua một
lượt, và nhìn chàng, gật sẽ một cái là đủ kiến chàng trở nên vui vẻ, làm việc
nhanh nhẹn.”
Vọi không hề biết đó là tình yêu. Hay có thể, ban đầu không
hề nghĩ đến tình yêu vì chàng và Hiền cách xa nhau quá, chàng chỉ cho cô Hiền
là một người tốt bụng.
Vọi đã ngoài 20 tuổi nhưng chẳng hiểu ái tình là gì. Mẹ
chàng nói chuyện dạm vợ cho chàng thì chàng gắt gỏng có khi giận mẹ đến hai ba
ngày. Hiền đối với Vọi lại cao sang quá, lạ lùng quá đến nỗi chàng không coi
như là một người con gái.
Nhưng khi cô Hiền bỏ về Hà Nội rồi, Vọi như người bước
hụt, anh buồn bã, anh tương tư. Anh bần thần ít nói, anh trở nên chậm chạp, và
hay gắt gỏng. Anh đi tìm lại những bãi, những ghềnh anh đã đưa cô Hiền đi qua,
từ cái vỏ dừa cô Hiền nhét vào vách đá đến những chữ du khách khắc tên nhau mà
cô Hiền đã cắt nghĩa cho anh là tên của những cặp trai gái yêu nhau, ví dụ Hiền
thì khắc chữ H, Vọi thì khắc chữ V.
Cũng vì tình yêu cô Hiền anh xém giết “Thầy Lưu” vì có một lần
Lưu khoe là sẽ hỏi cô Hiền làm vợ và Vọi thấy mình thấp hèn kém xa người đàn
ông đang theo đuổi nàng. Nhưng với bản chất hiền lương của Vọi, cái tội ác đó
đã không xẩy ra.
Rồi mùa thu qua đông tới hình bóng cô Hiền tưởng đã phai mờ,
Vọi đã vui vẻ trở lại với các bạn chài lưới, quên đi cái chuyện tình vô lý của
mình.
Nhưng một buổi trưa, Vọi ngồi trên một tảng đá chăn hộ con
bò cho em mình.
“Trời giá lạnh, mỗi khi cơn gió bấc thổi tới rung mấy chiếc
lá lộc vừng và đưa la đà qua mặt, Vọi lại rùng mình run lập cập tuy chàng ngồi
sưởi ở dưới ánh nắng.
Một chiếc lá rơi vào lòng Vọi. Chàng cầm vân vê trong
tay, tò mò ngắm nghía. Bỗng Vọi kinh hoảng kêu lên:
- Trời ơi! Cô Hiền.
Màu chiếc lá rụng đỏ xẫm như màu vỏ xò vừa nhắc tới anh
màu áo tắm Hiền thường mặc.
Tất cả cái thời kỳ tắm biển lại hiện ra rõ rệt, hiện ra với
những cô thiếu nữ trắng trẻo xinh tươi mà trong số đó, cô Hiền xinh tươi, trắng
trẻo nhất.”
Hóa ra anh chàng đánh cá Vọi không hề quên được Hiền, một
người như cô tiên dịu dàng hiện xuống đời mình, anh nhớ nhung, đau khổ và biết
người ta đùa giỡn trên sự chất phác của mình, anh cam phận. Nhưng anh không thể
ngưng yêu, anh nhờ người dậy viết tên và anh biết khắc tên của hai người: Hiền
và Vọi, bằng hai chữ H-V trên những tảng đá từ hòn Trống Mái đến xóm Sơn (nơi
gia đình Vọi ở).
Khi Vọi biết yêu thì cũng chính là lúc Hiền quên ngay anh đánh
cá khờ khạo từ khi nàng bỏ biển trở về Hà Nội.
Những người trí thức hay có thói trêu đùa độc ác với kẻ dại
khờ. Khi cô Phụng, bạn Hiền gặp lại Vọi ở Sầm Sơn báo tin cho Vọi biết là Hiền
sắp lấy “thầy Lưu”, linh hồn Vọi rơi ra từng mảnh.
“Thì ra anh chàng rể là “thầy Lưu” ….Biết thế!
Nét mặt Vọi bỗng trở nên dữ tợn. Chàng nắm chặt hai bàn
tay lại. Lúc đó vừa tới nhà Phụng. Nàng thản nhiên mở cửa đi vào, để mặc anh
đánh cá với sự thống khổ trong lòng.
Chiều hôm ấy khi trời mưa phùn âm u, giá rét, tuy gió rít
dài trong lá phi lao xơ xác, tuy biển dữ dội văng sóng bạc lên mỏm đá hà, người
ta vẫn thấy một anh chàng đánh cá đi đi lại lại trên bãi cát.
Chàng chắp hai tay sau lưng, ngửa mặt nhìn trời. Quần áo
chàng ướt đẫm. Hai má chàng ướt đẫm. Chẳng biết đó là nước mưa hay nước mắt...”
Câu chuyện kết thúc với cái chết của Vọi. Cái chết rất mơ hồ,
không rõ rệt. Vọi chết vì bị cá nhà táng ăn khi lặn sâu xuống gỡ lưới, hay anh
quyết định ở lại dưới lòng biển, chết, khi biết tình yêu thật sự là gì?
Tình yêu của Hiền, người thiếu nữ Tây học có lãng mạn bao
nhiêu chăng nữa, chỉ là một lúc bốc đồng với những tư tưởng sôi nổi, mới lạ.
Nhưng cuối cùng cũng chỉ còn lại là lòng nhân đạo, lòng thương hại, thể hiện
trong việc Hiền đến nhà Vọi, nghe tin Vọi chết, cho mẹ chàng mười lăm đồng
trong số tiền lẻ của một trăm mười lăm đồng trong ví của vị trạng sư, người chồng
tương lai của nàng.
Nhưng với Vọi, anh đánh cá thất học có tấm thân đẹp như tượng
Hy Lạp đó, đã yêu và chết cho mối tình chân thật của mình.
TLVĐ xuất hiện trên văn đàn trên dưới 10 năm (1933-1944) làm
xoay đổi cả một trào lưu yêu đương mới. Giúp phụ nữ biết suy nghĩ, cân nhắc giữa
những tập quán xã hội và hạnh phúc cá nhân mình.
Trong tác phẩm Lạnh Lùng của Nhất Linh. Một phụ nữ
góa chồng rất trẻ, có người yêu nhưng không dám nghĩ đến chuyện tái giá vì mẹ
chồng và mẹ mình mỗi ngày nhắc nhở vào tai nàng bốn chữ: “Tiết Hạnh Khả
Phong”.
Nàng tự hỏi: “Nhưng một người đàn bà góa sao lại không được
đi lấy chồng như một người con gái? Sao cứ phải ở vậy mới được tiếng thơm cho
cha mẹ, cho gia đình?”
Câu hỏi này, trước khi có TLVĐ, không ai nghĩ đến. Họ cho việc
“Tam Tòng” là một việc gần như bắt buộc phải như thế, không thể nghĩ khác hay
làm khác được.
Cái xã hội phân chia đẳng cấp còn đáng trách hơn nữa. Đã là con
quan hay là quan thì không bao giờ có quyền hạ mình xuống để yêu thương hay lấy
một người thuộc giới hạ cấp, nghĩa là nghèo và ít học. Cái phân chia đẳng cấp
này đôi khi dắt người ta đến tàn ác mà không biết. Như trong Nửa Chừng Xuân,
khi biết mẹ mình đã phá vỡ mối tình của mình và làm khổ lụy đến vợ con mình vì
phân chia giai cấp, Lộc tuy đau khổ, phẫn uất vẫn cố bênh mẹ:
“Phải, bao sự lầm lẫn của mẹ ta nguyên do chỉ ở chỗ quá
suy tôn cổ tục, quá thiên trọng tập quán. Mẹ ta đuổi Mai cũng chỉ vì thế, chứ
khi nào mẹ lại tàn ác được đến thế?"
Ngoài đả phá hủ tục, tình yêu trong TLVĐ còn đi xa hơn nữa:
Như Chương trong Đời Mưa Gió, một người học thức có địa vị trong xã hội có thể
từ chối những mối tình môn đăng hộ đối vì sau một lần thi trượt đã khám phá ra:
phụ nữ chỉ yêu chức vị bằng cấp của mình.
“Chương buồn rầu đến báo tin hỏng thi với người vợ chưa
cưới, tưởng sẽ được nàng an ủi khuyến khích, sẽ được nàng đem lời âu yếm vỗ về.
Nhưng trời ơi!
Trái hẳn, Chương chỉ gặp vẻ mặt lãnh đạm của ông bố và
dáng điệu khinh bỉ của bà mẹ. Nhất, câu nói rất có lý của bà ta, thì luôn luôn,
mãi mãi còn văng vẳng bên tai chàng:
“Người lấy con tôi phải là người có nghề nghiệp,
căn bản”.
Từ đó, Chương biết mang tấm tình chân của mình ra yêu cả đến
một cô gái giang hồ và chung thủy với tình yêu của mình.
“Ngày thường, bận về việc dạy học, chấm bài, chàng ít rảnh
thì giờ mà mơ màng, hồi tưởng tới quãng đời đã qua. Và có nhớ đến Tuyết thì
chàng cũng tìm đủ lẽ phải, đủ lý luận để ghét được, để quên được một cô gái
giang hồ nhơ nhuốc. Nhưng trong mấy ngày tết, mọi sự đều biến đổi, cho đến cả
tính tình của ta. Người mà ta yêu khi xưa dù là người dơ bẩn vụt hiện hình ra,
trong sạch, đứng trong cái khung mộng ảo của hoa đào thắm trên cái nền trắng dịu
của cánh thủy tiên ...
Vì thế mà Chương âu yếm nhớ tới Tuyết.”
Ở xã hội mà người ta khinh rẻ gái giang hồ, coi gái giang hồ
là những người chỉ kiếm tiền bằng thân xác, không có trái tim rung động với
chân tình thì TLVĐ cho chúng ta một cái nhìn khác:
“Tuyết thổn thức ứa hai hàng lệ. Sau hai năm, những quần
áo nàng để lại khi ra đi, chàng còn giữ gìn cẩn thận. Nàng nghĩ thầm: “Nếu ta
biết chàng yêu ta đến thế thì ta đừng đến nhà chàng có hơn không. Chàng sẽ mãi
sống với hình ảnh không già của ta. Nhưng nay chàng đã trông thấy ta rồi, thì từ
đây, ta sẽ không còn chiếm được một chỗ cỏn con trong tâm hồn chàng nữa”.
Tuyết đã bỏ đi hẳn, không bao giờ quay về nữa, để giữ mãi
trong lòng Chương những mảnh tình còn lại cho nàng.
Trong Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng đã dắt tình yêu vào
dưới một mái chùa với Phật, với Sư, với Tiểu với khói nhang lãng đãng. Đã thiền
hóa ái tình trần thế bằng một mối tình gần như không có thật nhưng lưu lại
trong lòng độc giả mùi hương của những cây nhang và những tiếng chuông thu
không.
Ý nguyện chân tu Lan đã cảm hóa được tình yêu thế tục của Ngọc:
“…Tôi thú thực với chú rằng không bao giờ trí tôi lại
sáng suốt như bây giờ. Những lời tôi nói với chú, tôi nguyện có Phật tổ chứng
minh, thật ở tận đáy tâm can mà ra. Tôi vẫn biết lòng chân thành của tôi không
thể cảm được linh hồn chú, nên hôm nay tôi chỉ lên từ biệt chú một lần cuối
cùng mà thôi. Từ nay kẻ bắc người nam, xin không gặp mặt nhau nữa.”
Xóm Cầu Mới của Nhất Linh với mối tình giữa Siêu và
Mùi hai anh em họ, con dì con già là một mối tình rất lạ.Trong đó, vai nữ cô
Mùi là cô gái con một cụ Lang, ngoài việc cô xinh đẹp, đảm đang, tốt bụng, dễ tức,
hay khóc, biết uống rượu và thích được say nữa, cô còn rất thông minh trong
tình yêu, cô luôn luôn đoán trước được ý định của Siêu và gần như dẫn dắt Siêu
trong cuộc tình của hai người; Siêu bị cô cuốn đi mà không biết, mặc dù Siêu là
người am hiểu về đời sống, có học và lớn tuổi hơn cô. Lồng trong cuộc tình của
Siêu-Mùi còn cuộc tình của Bé và Đỗi, chuyện tình của Bác Hòa hàng cơm và Nhỡ.
Mỗi nhân vật có một cá tính riêng nhưng rất gần gũi đời thường, với văn phong
tinh tế, dí dỏm, chi tiết và lãng mạn một cách trong sáng. Đọc xong cuốn truyện,
gấp sách lại ta có một cảm tưởng nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy truyện nó tự
nhiên như thế, phải diễn tiến như thế, phải khép lại như thế. Nó tự nhiên đến nỗi
cho người đọc cái cảm tưởng là: Nếu mình là Mùi, là Siêu, là Nhỡ, là Bé…thì
mình cũng “Yêu” như thế.
Siêu hơn Mùi năm tuổi, nên khi Siêu bế ẵm Mùi là sự tự nhiên
trước mắt mọi người, cho đến khi Mùi khoảng mười hai tuổi, đã hơn cả năm Siêu
không còn bế nữa. Một buổi trưa cả nhà đi vắng, Siêu kéo Mùi nằm ngả vào ngực
mình, Siêu cúi đầu vào tóc nàng, áp mặt vào má nàng và môi chàng đưa đi đưa lại
mấy cái nhẹ trên má. Mới mười hai tuổi nhưng cô Mùi hình như đã biết thế nào là
tình yêu, cô giơ hai tay ôm vòng lấy cổ Siêu, kéo đầu chàng xuống và để hai môi
chàng đặt lên môi mình.
“Nàng không nhớ rõ lắm, mà nàng nhớ làm sao được rõ vì
nàng có biết nàng làm gì lúc đó đâu; nàng bàng hoàng về một thứ khác; lúc đưa
môi cho Siêu hôn không phải nàng chỉ cốt được cái thú Siêu hôn mình, có một thứ
gì to tát hơn nhiều mà ngay lúc đó nàng chỉ cảm thấy mơ màng, không sao rõ được
là thứ gì.”
Siêu lúc đó mười bẩy tuổi, vốn tính nhút nhát chưa dám một lần
nào ngồi nói chuyện với con gái. Mùi là em họ Siêu, nên chàng muốn thử hôn cho
biết ra sao, nhưng chàng sợ vì thấy Mùi tự ý ôm lấy cổ chàng, đặt môi chàng lên
môi nàng. Từ đó chàng lờ đi như câu chuyện chưa hề xẩy ra. Mùi còn bé quá, lại
là em họ chàng, vẻ mặt Mùi lúc đó cũng không đẹp đến nỗi làm chàng mê đến dại dột.
Chàng cũng không ngờ là Mùi yêu mình bắt đầu từ hôm đó.
Nhưng Mùi yêu mãnh liệt lắm. Khi Siêu theo gia đình đi làm
ăn xa, lúc tiễn Siêu, Mùi mong cho Siêu cũng buồn như nàng, nhưng hình như Siêu
không tỏ ra vẻ gì là buồn bã cả và điều đó đã làm Mùi ấm ức; đi ngang qua một bụi
găng, tay nàng chạm phải một cành, đau nhói, nàng tức giận đập nguyên cà bàn
tay vào cho hả cơn tức vì sự lạnh nhạt của Siêu, thế là máu chẩy đầy bàn tay.
“Cả cái đau khổ của nàng như hiện ra trên bàn tay run
run; nàng đã bắt đầu thấy xót ở những vết thương. Thế là nước mắt nàng trào ra
được; Mùi khóc, khóc nức nở cho cái tình yêu đầu tiên trong đời bị tan vỡ và quả
tim non nớt biết yêu của nàng, ở trong ngực, nàng thấy nó cũng đương chẩy máu
ròng ròng như bàn tay mềm trắng đầy máu kia.”
Và nhân cái bàn tay chẩy máu ấy, nàng giả bộ ngất đi, để
mong sao cái tin nàng ngất giữa ngày Siêu đi bay đến tai Siêu. Vở kịch ngất đi
vì tình của nàng đã đến tai Siêu thật và khi nghe Siêu kể lại, Mùi đã cười hoan
hỉ vì sự thành công của mình.
Siêu gặp lại Mùi năm năm sau, từ cô bé em họ mười hai,
thành thiếu nữ mười bẩy tuổi mới tinh, Siêu không ngờ Mùi lớn lên lại đẹp như vậy.
Mùi đã lôi Siêu vào cuộc tình bằng những cá tính rất đặc biệt của cô. Vì Siêu
đem bà mẹ điên và em về ở trọ nhà Mùi, lại đưa cả vốn liếng của gia đình cho
Mùi buôn gạo nên mối tình đó không sao tránh được, nhất là Mùi luôn luôn đánh động
Siêu bằng cách này hay cách khác. Vừa lãng mạn yêu Siêu vừa đảm đang buôn bán.
Đôi khi Mùi vừa yêu vừa tính toán, làm hai việc cùng một lúc rất sáng suốt.
Tình yêu của hai người sống chung trong một mái nhà với những
va chạm nho nhỏ sẩy ra hàng ngày, rất đời thường nhưng rất lãng mạn. Mùi hay dỗi,
hay khóc nên trái ý một chút là khóc để thử xem Siêu yêu mình đến thế nào. Đôi
khi Mùi làm nũng, đòi uống rượu, rồi say, để cho Siêu phải hầu hạ mình. Mùi có
cái thú khám phá ra Siêu cũng yêu nàng như nàng yêu Siêu.
Trong một lần bất đồng ý với nhau, Mùi lăn ra khóc trên giường
của Siêu, Siêu phải kéo nàng dậy, phải làm lành.
“Nàng vừa đếm tiền, vừa tưởng tượng đến hơi nóng trong tấm
chăn của Siêu, mùi tóc của chàng trên áo gối và nhất là khi Siêu kéo tay nàng,
Siêu ôm lấy cổ vai nàng và kéo nàng ngồi dậy và nàng cưỡng lại. Nàng thấy không
những chỉ mình nàng để ý đến và đoán mang máng hình như Siêu cũng không phải
hoàn toàn vô tình trong cử chỉ đó. Bao nhiêu những cái tức, đều biến đâu mất,
tan hẳn đi, hình như không từng có, song cái thú được nằm trong chiếc chăn còn ấm
hơi người Siêu ôm trong tay thì lạ lắm, còn lại rõ ràng và làm nàng phiêu phiêu
trong người.”
Còn Siêu, dù tức giận vì trái ý với Mùi, nhưng chàng cũng thấy
cái may mắn nhờ hai người giằng co nhau mà chàng vô ý nắm được cái cổ của
Mùi.
Cái cổ mà từ thuở bé, khi chơi đánh đáo, Mùi thua, phải cõng
chàng. Lúc cõng, vì Mùi yếu và thấp nên chàng chỉ để hờ hai tay lên vai, và ruỗi
hai chân kéo lê trên đất cho khỏi nặng. Chàng đã nhìn vào gáy Mùi.
Bây giờ, lớn lên, có lần Siêu ao ước được đặt tay vào cổ Mùi
thì việc bất hòa sáng nay đã cho chàng cơ hội đó.
“Có khi chàng ngồi rất lâu chỉ ngắm nghía cái gáy của
Mùi, trong lòng bâng khuâng như thấy trước mắt một thứ gì êm dịu lắm, thanh
thanh, phảng phất có vẻ thần tiên và ngầm ở trong một thứ gì khác nữa. Chàng
không biết tả sao: nhưng cảm thấy như có một nỗi vui, nhẹ lắm thấm ở trong tóc,
trong da thịt đang tỏa ra, xông ra, nhưng xông rất ít gần như không có nữa.”
Tình yêu cứ thế mỗi ngày diễn ra bằng cách này hay cách khác
dưới một mái nhà. Siêu ở nhà Mùi nhưng bà mẹ điên và em chàng thì ở nhà trên với
gia đình Mùi, chàng ở nhà dưới, cách một cái sân. Mùi và Siêu gọi nhà trên là
“Bên nhà”, nơi Siêu ngủ gọi là “Bên Hiên”.
Mùi muốn sang bên hiên bao giờ cũng phải tìm được cái cớ cho
tự nhiên vì không lẽ lúc nào cũng sang. Nếu sang lúc sáng tinh mơ hoặc vào giờ
cả nhà đã đi ngủ thì vừa ngượng với Siêu vừa ngại người trong nhà nhìn thấy.
Sau một thời gian ở chung Siêu cũng lây cái tính giả vờ
tức rồi thành tức thật; giả vờ buồn, rồi thành buồn thật nếu người kia không
nhìn ra là mình đang tức, đang buồn.
Vào một cơn lụt lớn Siêu cũng phải sang bên nhà ở, Mùi và
Siêu tuy gặp nhau thường ngày nhưng không còn có phút nào riêng tư như ở bên
hiên được nữa. Cả hai cùng ấm ức trong lòng. Người nọ cứ cho là người kia không
nghĩ đến mình. Họ gây sự với nhau vì khói bếp do chính Mùi cho củi ướt vào để
trả thù Siêu, vì vẻ mặt lãnh đạm của chàng. Siêu tức giận bỏ về bên hiên, Mùi lấy
cớ chạy theo để “cho Siêu một trận”.
Nàng băng qua cái sân ngập nước mà không biết nông sâu thế
nào. Đúng như sự sắp đặt trong đầu của Mùi. Mùi nghiêng đi trong nước như bị sụt
xuống rãnh, nước ngập đến ngực. Siêu phải chạy ra cứu và vực vào bên hiên. Mùi
có cho Siêu một trận hay không? Chắc là không, vì:
Không nghe thấy một tiếng nói nào của hai người, hay có
nói mà nhỏ quá không ai nghe thấy.
“Chàng ngồi xuống cạnh ghế gỡ tay Mùi và kéo người nàng về
phía mình, nhưng nàng vẫn giữ mặt nàng cúi xuống đất không nhìn chàng. Siêu
cũng không cất tiếng nói, cứ ngồi thế lâu lắm. Rồi Mùi thong thả ngửa mặt lên
và hai người yên lặng nhìn nhau một lúc lâu, bốn con mắt ngơ ngác phân vân như
không biết vì còn tức giận hay vì đã vui sướng. Miệng nàng, Siêu thấy hơi nhếch
ở một bên mép, thoáng như mỉm cười rất nhẹ, nhưng nhẹ quá có thể không phải mỉm
cười. Siêu thì mỉm cười hẳn với nàng và nói như trong hơi thở:
- Xin lỗi cô…Tôi đã nóng quá. Tha lỗi cho tôi đi.”
Nét mỉm cười e
ấp ở miệng Mùi cũng lộ hẳn rõ ra một nét mỉm cười.
- Em xin lỗi
anh
- Không, lỗi ở
tôi cả.
- Không, lỗi cả
ở em.
Ở khóe mắt Mùi
lại mọng lên long lanh hai giọt lệ, nàng chớp mắt cho nước mắt chẩy xuống má.
Siêu cũng chớp mắt và chàng thấy đã rưng rưng lệ, chàng hít hơi thật mạnh một
cái rồi há miệng thở dài:
- Thích quá nhỉ
Mùi gật đầu
luôn mấy cái như tán thành:
- Em thấy nhẹ
cả người. Mấy hôm nay em thật khổ quá.
- Tôi cũng thế
Cả hai người đều
cố ý tránh không nói thêm là tại làm sao mấy hôm rồi lại khổ và cái cớ vì sao
hai người lại muốn cãi nhau.
Khi Siêu đưa Mùi
trở về bên nhà. Cả nhà điều chăm chú xem có phải Mùi vừa cho Siêu một trận hay
không? Siêu có còn muốn bỏ đi không? Mùi đóng kịch rất giỏi:
“Siêu thấy
nàng cau hai lông mày lại, nét mặt nàng Siêu thấy đầy sát khí. Chàng vội quay mặt
đi để không ai biết là chàng mỉm cười rồi đi thẳng về bên hiên. Cả Mùi và Siêu
điều thấy nhẹ nhõm, và như thế không phải vì hết giận nhau mà chỉ vì nhờ cuộc
cãi nhau kịch liệt ấy, từ nay cả nhà không ai có thể mảy may nghi ngờ được là
hai người yêu nhau vụng trộm.”
Siêu cũng giống
như Dũng trong Đôi Bạn tin rằng dù không lấy nhau, ngay cả không gặp lại nhau nữa,
cái tình yêu đó vẫn tồn tại giữa hai người yêu nhau, có khi lại khiến người ta
yêu nhau hơn là lấy được nhau.
Chàng yêu Mùi
nhưng biết không bao giờ lấy được Mùi nên tình yêu ấy lạ lắm: tuy là vẫn có ở
trong đôi phút thèm muốn vẩn vơ nhưng cái tình yêu đặc biệt giữa hai người nửa
là tình nhân, nửa là bạn hợp tính nhau vẫn vượt lên cao hơn….Đời Mùi đã hoàn
toàn thuộc về chàng rồi, không ai có thể cướp mất được; đi lấy chồng chỉ là một
sự xa nhau nhưng trọn đời nàng vẫn là người yêu của chàng.
Đi vào tình
yêu của Bé và Đỗi thì lại
rất đơn sơ. Cả hai không cần phải giả vờ như Mùi và Siêu hay giả vờ với nhau.
Bé hay đến mua tôm từ thuyền của Đỗi về làm nhân bánh cuốn cho quán cô Mùi nên
có dịp gặp Đỗi và hai người phải lòng nhau. Bé đau mắt thường xuyên nên Đỗi tự
làm thầy thuốc chữa mắt cho Bé, để lấy cớ được nhìn vào mắt Bé và Bé cũng nhân
đó tự nhiên được nhìn lại Đỗi mà không ngượng lắm.
Mỗi lần Bé bước
xuống thuyền mua tôm, Đỗi nói một câu gần như ra lệnh:
Đưa mắt đây
cho tôi xem nào.
Bé ngoan
ngoãn ngồi sát vào Đỗi, lật miếng vải che mắt lên cho Đỗi xem, nhưng thật ra là
nhìn. Hai người được dịp tự do nhìn nhau, đến nỗi chân giẫm lên nhau mà không
biết. Sau đôi lần như vậy cả hai cùng thấy việc xem mắt và việc giẫm chân lên
nhau phải đi đôi với nhau. Bé thì cho là một cái thú, bỏ sẽ tiếc lắm.
Nhất Linh cho
tình yêu của từng giai cấp xã hội khác nhau và người nào hợp với cảnh ấy rất
tinh tế, khéo và tự nhiên.
Khi Mùi say rượu,
nàng không tự tay cởi được cái áo khoác của Siêu mà nàng đang mặc trên người,
Siêu phải phụ nàng. Siêu còn thấy tóc tai nàng sổ tung, áo nàng lôi thôi trông
chẳng khác gì bức tranh vẽ Dương Quý Phi túy tửu.
“Siêu cởi áo
thong thả, làm như chỉ chú ý đến cách cởi áo thế nào cho Mùi khỏi ngã nhưng cả
người chàng nóng ran vì cái thú được ôm lấy người nàng và cởi áo cho nàng. Mùi
tóc thơm, mùi nồng nàn của da thịt, chàng tuy cũng uống rượu mà ngửi thấy rõ.
Hơi ấm của người Mùi tỏa ra và cái êm êm cảm thấy ở bàn tay khi nắm vào thân
nàng, tất cả những cái cựa quậy mềm yếu của người nàng trong tay mình, làm
chàng thấy lần đầu tiên đối với Mùi cái thú của lòng thèm muốn vì xác thịt hòa
hợp với cái thú của tình yêu.”
Nhưng với Đỗi,
thì Bé không phải Dương Quý Phi say rượu, hay một ai, ai khác. Trong lúc mê đắm
tưởng tượng hay nhất của chàng về Bé, chỉ có thể là một người vợ.
Bé mua được cái
thắt lưng màu hoa thiên lý, thắt vào đến khoe Đỗi, gặp trời mưa bị thôi màu, cô
tức giận ném xuống sông cho nó trôi đi. Đỗi dỗ dành:
- Tôi mua một
cái thắt lưng khác biếu đằng ấy nhé, một cái cũng màu hoa thiên lý như cái này
nhưng không thôi.
- Tốn chết.
- Không tôi có
tiền mà. Đằng ấy nhận đi nào. Cười đi chứ, phụng phịu mãi thế này khó chịu chết.
Rồi Đỗi lấy
tay lay người Bé mấy cái. Bé ngửa mặt lên thành ra má nàng chạm vào má Đỗi.
Nàng gật gật và mỉm cười. Cũng như lần đầu tiên, nhưng lần này rõ ràng hơn nhiều.
Đỗi cảm thấy một thứ gì rất nồng nàn tỏa ở da thịt Bé ra và hợp với chàng lắm.
Chàng thấy trước là khi lấy Bé làm vợ rồi, đầu gối tay ấp, đếm mấy chục năm
cũng không sao chán được cái hơi nồng nàn của người Bé mà hơi ấy chàng chỉ thấy
có riêng ở người Bé thôi.
Tình yêu của
bác Hòa và Nhỡ lại mở ra
một không gian lãng mạn khác.
Bác Hòa, một góa
phụ chưa đến ba mươi tuổi, mở quán cơm ở Bến Cháy, nơi chỉ có độ mươi nóc
nhà, Bến Cháy cách xa Xóm Cầu Mới nên thường vắng khách. Phu xe kéo khách đi
qua đó, khi trở về thì phải ngủ lại qua đêm ở quán cơm, sáng hôm sau mới về.
Nhỡ qua đó vài lần,
và lần này chàng phải ngủ trọ lại. Bác Hòa phải lòng Nhỡ từ bao lâu rồi, làm
sao biết được. Chỉ biết tối hôm đó khi Nhỡ quay xe về, ghé quán cơm ngủ trọ,
Bác Hòa đã làm sẵn một mâm cơm thịnh soạn như nhà có giỗ mời Nhỡ ăn. Hòa còn
mang cả bộ quần áo từ ngày đám cưới ra mặc vào. Khi Nhỡ về đến nơi không ngờ
mình được tiếp đón thịnh soạn như thế, và tối hôm đó chàng ngủ lại nhà bác hàng
cơm. Nhất Linh tả cảnh người đàn bà góa lâu năm thèm muốn một tình yêu, một người
chồng, trong đêm tối đã làm đủ mọi cách để vào nằm chung một giường với người
khách trọ. Nhưng cảnh tình tứ trong đêm lạ lắm. Hòa chủ động trước, nằm sát vào
Nhỡ, nắm tay Nhỡ và cả hai thấy như đã thân nhau lắm rồi. Khi Nhỡ đặt bàn tay
lên đùi nàng thì Hòa bẻ gập tay chàng lên và có vẻ giận, nhưng chính nàng thì lại
đặt đầu lên ngực chàng, cựa quạy đầu mấy cái như đứa bé nằm trong lòng mẹ, rồi
Hòa bắt nhỡ thề:
“- Thế này nhé,
đằng ấy phải thề làm theo thế nhé. Thề đi đã.
Nhỡ mỉm
cười hơi thấy là lạ
- Tôi xin thề.
Nhưng thề cái gì mới được chứ!
Tay Hòa đưa
lên vuốt má nhỡ:
- Nào thì nói,
thế này nhớ. Tôi với đằng ấy bây giờ coi nhau như hai người bạn, ở với nhau cả
đời. Nhưng không bao giờ…
- Không bao giờ
cái gì?
- Thôi không cần
nói, đằng ấy hiểu rồi…"
Hòa cứ rủ rỉ bên
tai Nhỡ những lời yêu thương, mê đắm, nhớ nhung, nhưng nếu Nhỡ muốn tiến xa hơn
một chút nữa thì nàng kháng cự lại ngay. Nhỡ phải kêu lên: “Con khỉ, cứ nói
như thế thì ai chịu nổi.” Cái kiểu yêu lạ lùng của Hòa không ngờ lại gây
lên sự khích thích cho Nhỡ, chàng thấy nó quá mới mẻ vì Hòa chỉ mong suốt đời
được yêu Nhỡ với tình suông như Thúy Kiều với Kim Trọng.
Hòa lăn vào Nhỡ
nhưng Nhỡ vừa làm một cử chỉ âu yếm thì Hòa lại bẻ gập tay Nhỡ lên rồi giận có
khác chi cô Thúy Kiều tự mình tìm sang nhà Kim Trọng trước, đàn hát cho chàng
nghe, nhưng khi thấy Kim Trọng “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” thì cô
nghiêm mặt lại “Xin rằng đừng lấy làm chơi”.
Đàn bà ở giai
cấp nào, thời đại nào khi yêu cũng khó hiểu như nhau.
Nhưng khác với cô
Kiều, sáng hôm sau khi hai người chia tay thì Nhất Linh đã đặt cả một tình yêu
sâu đậm mang nặng tính chất truyền thống của một người phụ nữ góa bụa thèm khát
tình gia đình, tình vợ chồng vào trong hành động. Hòa lục hòm lấy tiền cho Nhỡ,
khi Nhỡ nhất định không lấy thì Hòa nói:
“Vợ chồng mà,
sao mình cứ ngại. Đằng ấy hai cha mẹ đều nghèo, mình cầm lấy giúp thêm ít nhiều
cho em vui lòng. Em không giầu nhưng cũng có vốn để dành. Gọi là có ít tiền của
cô nàng dâu mới mà.”
Một phụ nữ trẻ,
góa chồng, yêu một người, tìm đủ mọi cách để vào giường người đàn ông đó giữa
đêm ngay trong nhà mình, nhưng nhất định không thất thân và sáng hôm sau đã
nghĩ ngay đến chuyện đưa tiền để giúp đỡ cho gia đình của người mình yêu .Tôi
không biết có phụ nữ nào ngoài nước Việt Nam yêu lạ lùng, yêu lãng mạn như thế
không?
Tình yêu trong
Xóm Cầu Mới nói hết thì thật vô cùng, cũng như Nhất Linh đã định viết cuốn truyện
này cả mười ngàn trang và cho mỗi nhân vật riêng một pho tiểu thuyết. Nhưng
đáng tiếc cuốn sách cũng như ông điều có một định mệnh riêng.
Nhất Linh viết
Xóm Cầu Mới bắt đầu từ năm 1940 ở Hà Nội. Mãi đến năm 1957 cuốn sách mới coi
như là hoàn thành. Một cuốn sách viết đi, viết lại trên quê mình, quê người,
từ Hà Nội, Quảng Châu, Hương Cảng, Đà Lạt tất cả năm lần. Thời gian ngưng nghỉ
gián đoạn là thời gian Nhất Linh còn bận tâm giữa chính trị và văn chương. Độc
giả đọc Xóm Cầu Mới phần đông đều có nhận định đây là tác phẩm cuối cùng nhưng
hay nhất trong những tác phẩm của Nhất Linh. Một cuốn truyện về cuộc đời, con
người, trên mọi khía cạnh.
Nhất Linh, một
nhà văn đã sống một đời với cái tâm bão nổi và tự chọn cho mình một cái chết im
lặng nhưng đầy bi thảm.
Nếu độc giả đã đọc
hết hay gần hết những tác phẩm của TLVĐ sẽ nhận thấy những nhà văn của TLVĐ là
những người đã dấn thân và mở đường cho một sứ mạng rất cao đẹp: dùng văn học để
đổi mới xã hội, nâng cao phẩm giá phụ nữ, thi vị hóa ái tình.
Đặc biệt ba khía
cạnh nổi nhất trong cuộc cách mạng văn học về tình yêu trong văn chương của
TLVĐ có thể phân tích rõ như sau:
Thứ Nhất: TLVĐ mạnh
dạn khẳng định cho ái tình tự do cá nhân, nhất là đối với phụ nữ. Khẳng định đồng
nghĩa với tranh đấu để thoát ra khỏi và phá bỏ cái quan niệm cũ, quan niệm “Tam
Tòng” của Nho Giáo đã dìm sâu vào bao nhiêu thế hệ bà và mẹ của chúng ta. Ở thế
hệ chỉ đàn ông mới có quyền yêu và tình yêu của đàn ông nặng về tình dục.
Trong tiểu thuyết
TLVĐ ta đã tìm ra được những người đàn ông biết yêu những mối tình đẹp, biết lý
tưởng hóa tình yêu và coi phụ nữ bình đẳng hay đôi khi hơn mình. Người đàn ông
trong TLVĐ đã nhìn ra: “Tình Yêu Môn Đăng Hộ Đối” là tình yêu giả tạo, hoàn
toàn dựa vào gia thế và bằng cấp. “Phi Cao Đẳng bất thành phu phụ”. Và còn đi
xa hơn nữa, họ biết đem cái nồng nàn say đắm của mình ra yêu cả đến những cô
gái giang hồ bằng tấm ái tình chân thật của mình.
Thứ Hai: TLVĐ
mang ái tình vào trong tôn giáo hay mang ảnh hưởng tôn giáo vào trong ái tình.
Nâng cao tình yêu lên, cho người ta thấy ái tình không phải chỉ thuần túy dựa
vào những nhu cầu của thể xác đòi hỏi.
TLVĐ còn dấy lên
một phong trào văn chương và ái tình Việt Hóa. Trước đây khi ta đọc truyện dịch
hay phóng tác thì văn chương ái tình, tâm lý, khung cảnh thấy hoàn toàn mang
cái âm hưởng Tây hay Tầu. Ngay cả cuốn tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách
một thời gây sôi nổi cũng chưa thoát được hẳn ra ngoài cái gò bó đó.
TLVĐ mở đầu Việt
Hóa câu chuyện và dĩ nhiên Việt Hóa các mối tình. Đây là điểm nổi bật của TLVĐ
cho độc giả gần gũi với câu chuyện, thấy như chính mình là những nhân vật trong
truyện, mình có thể là: Mùi, Siêu (Xóm Cầu Mới) Lan và Nam (Đẹp) Loan và
Dũng (Đôi bạn). Đặc sắc hơn hết Nhất Linh còn mở ra một cánh cửa ái tình cho ta
nhìn vào ở Bé, Đỗi, Nhỡ và bác Hòa hàng cơm là những người bình dân ít học mà
trước đây ta không hề tưởng những người này biết yêu là gì, biết ái tình là gì.
Họ chỉ sống theo số phận và bổn phận.
Thứ Ba: Tuy Việt
Hóa nhưng những mối tình trong TLVĐ vẫn mang một giá trị phổ quát, đã bay
ra ngoài nước Việt, gây chú ý cho độc giả ngoại quốc, được dịch ra nhiều ngôn
ngữ khác nhau: Sau đây là một số sách được tìm thấy:
Sách tiếng Nhật :
Hồn Bướm Mơ
Tiên – Khái Hưng, do
Takenchi Yonosuke dịch chung với Kawaguchi Kenichi. Tên sách tiếng Nhật: "Cho
Kon Sen Mu". Xuất bản năm 1984.
Đoạn Tuyệt - Nhất Linh, do ông Takeuchi
Yonosuke dịch. Tên sách tiếng Nhật: "Danzetsu". Xuất bản năm
1983.
Gánh Hàng Hoa - Khái Hưng và Nhất Linh, do cô
Sumiko Katayma dịch. Tên sách tiếng Nhật: "Hana wo Katsude".
Xuất bản 1995.
Trần Mộng Tú
7/7/2013