1. Đọc mỗi lần một chữ
Khi tôi học lớp Năm, có lần được thầy gọi lên bảng đọc cho cả
lớp chép một đoạn trích từ cuốn Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch Hà Mai Anh, nguyên
tác Edmond De Amicis. Đó là sách dạy chính thức trong nhà trường miền Nam thời ấy.
Giờ ám tả, học trò lắng nghe, chép lên giấy. Năm cuối bậc tiểu học, chuẩn bị
thi vào trung học, nên bài cũng khó hơn. Phải đọc từng câu, dấu phẩy dừng ngắn,
dấu chấm dừng dài, các chữ tiếng nước ngoài phải đọc chậm. Khi thấy tôi luống
cuống, chữ nọ xọ chữ kia, thầy bắt dừng lại, đọc chậm, với lời khuyên: em hãy đọc
mỗi lần một chữ. Tôi đọc lại.
Tôi không bao giờ
quên lời khuyên ấy. Sau này, đó là nguyên tắc tôi dùng khi đọc bất cứ bản văn
nào, tiếng Việt hay sinh ngữ khác: đọc mỗi lần một chữ. Các nhà văn đều biết rõ
điều này, dù viết bằng bút máy, bút chì, hay máy điện toán, người ta chỉ có thể
viết mỗi lần một chữ, mỗi lần một dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy.
Đọc cũng thế. Đọc
thơ càng thế. Vì thơ là một ngôn ngữ quy ước, nhiều tu từ, điển tích, có tính
cô đọng, giản lược, đôi khi gián đoạn.
Ngôn ngữ cô đọng:
Lâm tri người
cũ chàng còn nhớ không
(Nguyễn Du)
Bạn đọc lại,
không phải đọc câu thơ ấy mà đọc tám chữ ấy, mỗi chữ một lần, từng chữ một. Nếu
ngoài đời, câu ấy của Kiều sẽ là: anh còn nhớ hồi xưa mình gặp nhau ở Lâm tri
không nhỉ, hình như trong tiệm phở 88?
Giản lược chủ từ:
Quây quần
trong một tổ
Như đôi chim bồ
câu
(Đông Hồ)
Giản lược nội
dung:
Mạnh giỏi
không em gái nữ sinh
Hồi này đi học
chắc ít bị tụi con trai nó phá
Nếu ta biết rằng
Nguyên Sa đang nói về chiến tranh, và "tụi con trai" phải đi lính hết,
thì thấy câu thơ rất buồn.
Điển tích:
Thương nữ bất
tri vong quốc hận
Cách giang do
xướng Hậu đình hoa
(Đỗ Mục, Bạc Tần
hoài)
Gái ca không
biết thù nhà
Bên sông còn
hát khúc ca Hậu đình
(Trần Trọng Kim dịch)
Khúc Hậu đình do
Trần Hậu Chủ sáng tác; ông vua vì ham vui chơi mà mất nước. Vui chơi không phải
là cái tội, nhưng làm vua, sắp mất nước, mà vẫn vui chơi là một cái tội.
Mỗi ngôn ngữ đều
có những chữ và quy luật chi phối các chữ ấy, gọi là cú pháp, văn phạm, ngữ
pháp, tùy trường hợp. Đọc thơ và làm thơ cần một số kiến thức căn bản về tiếng
Việt, khả năng phân biệt tinh tế chữ, nghĩa. Vì ngôn ngữ là biểu hiện hoạt động
cao nhất của tinh thần, biểu hiện của trí thông minh và ngược lại bồi đắp hay hủy
hoại trí thông minh. Một lối dùng chữ ngắn gọn, chính xác, chứng tỏ suy nghĩ mạch
lạc, một lối mô tả sự vật mập mờ, hồ đồ, chứng tỏ suy nghĩ luẩn quẩn, hời hợt.
Đọc hơi văn, biết tính cách. Tâm không chính, chữ không ngay. Trong khi tập
trung rèn luyện khả năng viết và đọc, nói và nghe, người ta cũng rèn luyện cách
suy nghĩ.
Quê nhà xa lắc
xa lơ đó
Ngoảnh lại tha
hồ mây trắng bay
(Nguyễn Bính)
Trong mấy chữ xa
lắc xa lơ chỉ có chữ xa là có nghĩa, hai chữ lắc và lơ không
có nghĩa, nhưng không có chúng thì nghĩa của chữ xa cũng thay
đổi.
Nghe một câu nói
hay, bạn dừng lại, đọc một bài thơ hay, bạn vui sướng như khi đứng trước cảnh đẹp.
Khi đọc, một điều gì thay đổi trong bạn cũng xảy ra. Không những thưởng thức
cái đẹp, bạn còn biết nâng cao hiểu biết và cảm kích đối với các giá trị văn hóa.
Một người loại trừ văn chương ra khỏi đời sống, chỉ cốt làm các bài tập cho đủ
điểm, ra đời hành nghề có lương cao, lên chức, nhiều bổng lộc, là tự hạ mình xuống,
làm mình nhỏ lại, thành một người chỉ sống vì các nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc,
ở, vệ sinh. Một cá nhân như thế vẫn có thể thành công về mưu sinh, địa vị,
nhưng sẽ trưởng thành không trọn vẹn. Nếu bạn có thể đọc thơ trong sinh ngữ
khác, tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa, bạn còn phát triển một tình yêu đặc biệt đối với
các nền văn hóa và các dân tộc ấy.
Khác với nghệ thuật,
thơ văn chỉ dùng đến chữ, vì vậy nhiều người hiểu lầm rằng để đọc thì không cần
học hành gì cả. Mặt khác, lại có kẻ xưng tụng thơ đến mức cho sự thưởng thức một
bài thơ là có tính thần linh, siêu việt, không thể phân tích, giải thích, và do
đó mang tính cá biệt, đơn nhất, không ai học được ở ai cả.
Đó là khuynh hướng
thần bí hóa hay gặp ở những xứ ít phát triển.
I understand English
This poem is written in English
I have no idea what this poem is saying
Tôi biết tiếng Anh
Bài thơ này viết bằng tiếng Anh mà
Nhưng không hiểu nó nói gì vậy ta?
(Billy Collins)
Thật ra, đọc thơ vừa là thích thú tự nhiên vừa là kỹ thuật
có thể học hỏi. Có những sở thích chỉ được khơi dậy dựa trên học tập. Cách phân
tích một bài thơ thông thường bắt đầu bằng các dẫn giải xuất xứ, tiểu sử tác giả,
hoàn cảnh ra đời bài thơ ấy, chủ đề chính trị hay xã hội của nó. Đó là phương
pháp thường dùng trong các sách giáo khoa. Tuy có những lợi ích quan trọng,
phương pháp văn học sử này có mấy hạn chế. Chẳng hạn, trong nhiều trường hợp,
xuất xứ không rõ, tác giả đã mất, hoặc nếu còn sống cũng không nhớ hết. Lấy thí
dụ bài Tương Tư của Nguyễn Bính: tôi không có tài liệu nào về việc nhà thơ làm
bài ấy ở đâu, thôn Đoài ngày trước là thôn nào. Chỉ biết rằng nhiều người vẫn
thích câu:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Giả sử chúng ta biết rõ chuyện tình của nhà thơ, cô gái
trong bài thơ ấy hiện còn sống, đang ở Paris quận 13 chẳng hạn, già móm mém
nhai trầu, ngay thế đi nữa thì ý nghĩa của câu thơ, tác động lên người đọc,
không mấy thay đổi. Khuyết điểm của phương pháp tiểu sử hay giáo dục hóa, luân
lý hóa thơ ca, còn ở chỗ gây cảm giác chán nản cho học sinh: người ta chỉ thấy
việc đọc thơ là một bổn phận. Bổn phận nào cũng kèm theo tưởng thưởng và hình
phạt. Thời đi học, bạn học để trả bài, không học thì thi hỏng, học giỏi được điểm
cao. Ra đời rồi, không ai cho điểm nữa: bạn thoát nạn đọc thơ, mừng hết lớn.
Cũng có những mặc định không đúng. Mặc định cho rằng khi đọc
một bài thơ, việc đầu tiên là tìm nghĩa của nó. Thứ hai là cho rằng nghĩa ấy cố
định, mỗi chữ mỗi câu là một bảng sắp xếp, như ổ khóa cửa, bấm mã số đúng thì mở
được, người nào cũng mở được. Thứ ba, giá trị một bài thơ tùy thuộc hoàn toàn ở
bạn, có thể thay đổi trong mọi trường hợp, nếu bạn cho nó hay thì nó hay, bạn
nghĩ nó dở thì nó dở, từ chối lý giải.
Đọc thơ là việc khó; thật ra, chẳng có việc gì dễ. Bất kể
chúng là môn bắt buộc hay trò chơi. Thơ vừa nghiêm trang vừa tiêu khiển. Đó là
sự tương tác giữa người viết và người đọc, rộng hơn là tương tác giữa người đọc
khác nhau, trong đó có nhà phê bình. Tức là sự trao đổi và san sẻ kinh nghiệm đối
với một tác phẩm, hình tượng của nó, ý nghĩa của nó, và bí mật nhất, sự quyến
rũ của nó.
Những bài thơ hay có sức hút, mời gọi. Cánh cửa của nó mở rộng.
Một bài thơ hay, ngay cả thơ trữ tình, bao giờ cũng dẫn tới đối thoại. Hãy để ý
câu mở đầu.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
(Lưu Trọng Lư, Tiếng Thu)
Hình ảnh, nhạc điệu của hai câu ấy tạo ra một lực đẩy: bộ
máy khởi động. Bạn muốn nghe tiếp những câu sau đó. Bạn muốn nghe lại nữa.
Nó thổn thức cái gì vậy?
Nhưng bạn không dừng ở đó. Bạn muốn tháo những câu thơ ấy
ra, như người ta tháo cái máy. Những người không có kinh nghiệm khi tháo máy có
thể làm hỏng nó, thậm chí không gắn lại được. May thay, một bài thơ cho phép bạn
tháo ra và lắp lại bất kỳ lúc nào, bất kể bạn tháo như thế nào, đúng hay sai.
Bài thơ được cấu trúc như những câu hỏi, đối thoại. Hai câu mở đầu thoạt nhìn
không giống thơ có vần, nhưng đọc kỹ bạn sẽ gặp những chữ đi với nhau, mùa đi
với mờ, thu đi với thổn thức, thậm chí em đi
với nghe, không đi với trăng. Có một thuận lợi
mà tác giả tận dụng, đối với nhiều người chỉ cần nói đến mùa thu, nói đến hươu
nai, chinh phụ, là đã chạnh lòng, kỷ niệm dồn về. Tác giả đi đúng mạch xúc cảm
của nhiều người, bài thơ hay lên vì những yếu tố ngoài văn bản. Các nhà phê
bình gọi là đọc liên văn bản. Tuy nhiên trong một tình huống tốt đẹp như thế,
nhiều nhà thơ khác có thể đã không chọn được những chữ như Lưu Trọng Lư đã làm.
Mùa thu, lá vàng, nai, trong truyền thống nhiều dân tộc, là
các biểu tượng. Mạch xúc cảm của bài Tiếng Thu dựa trên quyền lực của
biểu tượng văn hóa.
2. Đọc lớn một bài thơ
Bạn cần tập đọc lớn lên khi gặp một bài thơ mới. Trước hết đọc
không suy nghĩ, không phân tích, không quan tâm nghĩa của nó ra sao, có ích cho
ai không? Bạn vứt hết các thứ ấy đi, và cứ đọc lớn lên đã.
Trăng:
(Xuân Diệu)
Tại sao tôi chọn bài thơ này, tôi không biết. Chỉ nhớ rằng
vào năm học lớp Đệ Ngũ, tức lớp Tám ngày nay, tôi đã phải học thuộc lòng. Và
sau này thỉnh thoảng nhớ lại, câu được câu mất, nhưng nhiều năm qua tôi chưa
bao giờ hối hận vì phải thức suốt đêm để học nó cả.
Cũng như đối với một bài hát, bạn nghe vài lần mới nhớ hết
các ca từ, giai điệu; các lần nghe ấy có khi trong một ngày, có khi cách nhau
năm, mười năm. Người xưa chú trọng việc đọc thành lời, hoặc nâng kỹ thuật lên
thành ngâm thơ. Bạn chú ý đến các chữ đầu câu, cuối câu, hiệp vần. Đối với các
chữ hiệp vần, bạn cần thận trọng: không được lướt qua, nhưng cũng không dừng lại
lâu quá. Có lần tôi nghe một ca sĩ nổi tiếng ngâm thơ, cô ngâm hay, nhưng đến
chữ có vần hay những đoạn mà cô thích, lại nhấn mạnh quá đáng. Các chữ hiệp vần
cần được đọc thận trọng, trọn tiếng, nhưng không được đọc lớn hơn nhiều so với
những chữ khác. Việc đọc lớn hơn các chữ khác, như người nghệ sĩ kia, sẽ gây cảm
giác màu mè giả tạo. Như một cô gái đã đẹp về nhan sắc hay về tính cách rồi thì
không cần bôi son phấn lòe loẹt nữa. Màu mè cũng là một hình thức của giả tạo.
Bạn thử đọc bài này nữa:
L’Adieu
Bản dịch của Bùi
Giáng:
Lời Vĩnh Biệt
Thế hệ thanh niên
học sinh ngày trước như tôi nhiều người thuộc những câu thơ này, và mang chúng
theo vào đời. Đọc lớn, bạn lắng nghe chính giọng của mình, để ý sự khác nhau của
âm thanh các chữ, những chữ xem ra hay hơn những chữ khác, những câu có vẻ đặc
biệt hơn những câu khác, ngẫm nghĩ về tác động của chúng. Đối với các ngôn ngữ
đa âm, bạn chú ý từng âm tiết. Khi đó bạn sẽ nghe được chất âm nhạc trong bài
thơ đầy nhạc điệu của Guillaume Apollinaire (1880-1918).
3.Ý nghĩa của thơ
Định nghĩa thơ là
việc khó. Nhưng mỗi người tự tìm cho mình một cách, có lẽ là bước đầu có ích.
Có nhiều định nghĩa, ví dụ:
– Nhà thơ Emily
Dickinson: "Nếu tôi đọc một cuốn sách và nó làm tôi lạnh thấu xương, không
một ngọn lửa nào sưởi ấm được cả, tôi liền biết rằng đó thực là thơ ca."
– Nhà thơ William
Wordsworth gọi thơ là "dòng trôi chảy tự nhiên của những cảm xúc mạnh mẽ
vô bờ."
Bạn có thể tìm thấy
nhiều định nghĩa khác, hầu hết chúng đều đúng, nhưng một cách tương đối, về một
khía cạnh nào đó. Thật ra, thơ có thể là nhiều thứ khác nhau, có thể là bài
hát, sự xúc cảm, một triết lý. Có thể lãng mạn, có thể hài hước, châm biếm, có
thể là bản tường trình về lịch sử. Tuy nhiên tất cả liệt kê vừa rồi, trong khi
đúng với thơ, cũng đúng với nghệ thuật khác. Có thể phát biểu ngắn gọn rằng thơ
là một ngôn ngữ nghệ thuật với ba đặc tính: cô đọng, ngắn gọn, chặt
chẽ; có nhạc tính; được sắp xếp trong một hình thức sao cho tập hợp
các chữ tạo ra ý nghĩa nhiều hơn tổng số những ý nghĩa ban đầu
của từng chữ.
Các định nghĩa
khác nhau này, tuy vậy, lại giúp bạn mở rộng hiểu biết. Cần chú ý thơ không phải
chỉ là một phán đoán, tuyên bố, có thể viết dưới những hình thức khác nhau. Bài
thơ là một tồn tại độc lập, gồm những chữ, tất nhiên, được sắp xếp như một cấu
trúc cố định.
Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngút!
Mây trời Ai
lao sầu đại dương!
(Hữu Loan)
Nếu bạn thêm một
chữ Đèo Cả! vào, thành ba, hay rút bớt một, còn một, bạn sẽ thấy
sự khác nhau. Khi rút ngắn, câu thơ trở nên cụt lủn, không gây ấn tượng về ngọn
đèo hiểm trở. Khi nối dài, câu thơ trở nên dùng dằng không dứt khoát, thừa
thãi. Sự vụng về của các bài thơ dở, đầy rẫy hiện nay, thường xuất phát từ đây:
nghệ thuật dùng chữ kém.
Thế còn câu sau
đây?
Một đèo, một
đèo, lại một đèo
(Hồ Xuân Hương)
Bạn nhận xét ra
sao? Ba chứ không phải hai như Hữu Loan.
Trở lại với Hữu
Loan. Không ngồi trên đỉnh dốc đèo Cả, thì không viết được mấy câu nhiếp hồn
này:
Dặm về heo hút
Đá Bia mù
sương
Núi Đá Bia có thật,
gần đèo Cả, nhưng cái tên của nó gây cảm giác huyền bí sâu thẳm, như bao bọc bởi
mù sương. Lúc này bạn bắt đầu muốn biết đèo Cả ở đâu, núi Đá Bia là núi gì, có
gì hay ho ở đó, tức bạn muốn biết địa lý và lịch sử, còn gọi là sử địa.
Một người không
có trí tò mò về lịch sử và địa lý, thì làm sao có lòng yêu nước? Đôi khi cái mà
xưa nay bạn tưởng là lòng yêu nước thực ra chỉ là sự theo đuôi hoặc mê tín. Thường
là cuồng tín.
Đừng bỏ qua những
dịp dự các buổi đọc thơ, hay nghe thơ trên đài phát thanh, truyền hình. Cần chú
ý văn chương không có câu trả lời hay đáp số cụ thể như khoa học. Một bài thơ đối
với hai người đọc khác nhau có thể mang ý nghĩa khác nhau. Cùng một bài có người
chê dở có người khen hay. Bạn không nên quá lo âu về điều này. Không những
không cần quan tâm nhiều đến ý nghĩa của bài thơ, mà cũng không cần quan tâm vì
sao các ý nghĩa ấy có thể khác nhau đến thế. Đọc thơ cũng tựa như thể thao, bạn
phải xuống sân cỏ, sân trượt băng, bạn phải mang giày vào, trái bóng phải lăn
đi dưới chân, cây gậy phải nằm chặt trong tay bạn, trước khi bạn biết nhiều hơn
về thú vui, và sự khổ đau, tất nhiên, của chúng. Khi chạy theo trái bóng, bạn sẽ
nhận ra rằng lời hướng dẫn khô khan của huấn luyện viên, mà bạn đã từng ngủ gật
khi nghe chúng trong phòng học, thật là có ích biết bao. Bạn sẽ thấy càng nắm vững
luật chơi bạn càng chơi giỏi, và càng chơi giỏi bạn càng nắm vững luật chơi. Những
cầu thủ bóng đá nổi tiếng không thích đá vào chân đối phương vì họ có thú vui
khác, chân chính hơn, ví dụ đá vào bóng.
Những người không
thích đá bóng sẽ thích đá vào chân bạn.
Để thưởng thức
hay làm ra nghệ thuật, cũng như muốn chơi bóng hay, bạn phải té xước đầu gối,
ngã bong gân, tay chân bầm tím. Không ai muốn thế, nhưng cũng như trong đời, bạn
không nên tìm mọi cách để an toàn và để tránh chúng mãi.
Cứ tránh mãi sự
nguy hiểm thì bạn sẽ cúi đầu xuống hoặc sẽ học cách ngụy biện. Ý nghĩa của thơ
là mang lại cho người đọc lòng can đảm, tính dung thứ, lời xin lỗi, sự biết ơn,
lòng hối hận trước dĩ vãng và sự phản kháng trước tương lai. Bài thơ không phải
là trò tiêu khiển phút chốc, nhưng cũng không phải là bài toán đố nhức đầu bạn
phải giải, và giải mã một lần là xong.
Thơ là một ngôn
ngữ tự ý thức về mình.
Nói cách khác,
ngôn ngữ thơ chú ý đến chính nó, lấy nó làm mục đích, tức là phương tiện dùng để
diễn tả sự vật trở nên quan trọng bằng hoặc hơn sự vật được diễn tả. Trong khi
ý nghĩa góp phần tạo nên giá trị của thơ, thì ngôn ngữ quyết định giá trị ấy.
Đây là ca dao:
Tiếc thay cây
quế giữa rừng
Để cho thằng
mán thằng mường nó leo
Đây có lẽ là thơ:
Tiếc thay cây
quế giữa rừng
Thơm tho ai biết,
lẫy lừng ai hay (*)
4. Ngôn ngữ trong
thơ
Cần chú ý rằng
ngôn ngữ và lời nói là hai khái niệm khác nhau. Đối với người Việt, tiếng Việt
là ngôn ngữ chung. Mọi người đều nói và viết tiếng Việt, tuy nhiên mỗi người có
một lời nói riêng, cách nói riêng. Cách nói khác nhau còn vì giọng điệu khác.
Ví dụ:
Tôi chịu thua
anh.
Tùy theo giọng
nói và bối cảnh, có thể là câu tuyên bố nghiêm trang, nhưng cũng có thể là hài
hước và châm biếm.
Thơ là chữ. Chúng
ta có thể có quan niệm rằng thơ chính là cảm xúc hoặc tư tưởng. Kỳ thực dù cảm
xúc hay tư tưởng cũng đều thông qua cấu trúc vật thể là các chữ. Như vậy chữ là
phương tiện, hơn nữa, cấu trúc vật chất của thơ. Cũng như nhạc cụ đàn, sáo,
kèn, là phương tiện của âm nhạc, mực, chất màu, vải, giấy là phương tiện của hội
họa. Bài thơ là một cấu trúc toàn thể, tuy nhiên khi phân tích, người ta có thể
chọn lựa tách một bài thơ thành nhiều bộ phận, như bạn xem xét một cỗ máy, một
cái đồng hồ. Các bộ phận của đồng hồ tách biệt nhau: kim giờ khác kim phút,
bánh xe khác với dây cót. Một bài thơ thì khác: bạn không thể tách rời hình ảnh
và nhạc tính, thậm chí một chữ này và một chữ khác, mà không làm thay đổi nghĩa
của chúng.
Ngôn ngữ trong
thơ có tính dồn nén, có sức hấp dẫn hay sức đẩy, như một năng lượng. Một
câu thơ dở nhận rất nhiều năng lượng của nhà thơ, nhưng để mặc
chúng rò rỉ tan tác trong quá trình vận động, như một cái máy kém, tốn nhiều
xăng mà chạy ì ạch, xả khói đen mù trời.
Đó là đặc tính của
thơ dở, thời nào cũng vậy, nhưng thời nay càng nhiều, vì việc công bố dễ
dàng, không qua tay nhà biên tập khó tính.
Thơ ca là bộ
máy sử dụng năng lượng tiết kiệm nhất của ngôn ngữ.
Nghĩa của chữ thường
có hai: nghĩa đen, như trong từ điển, và nghĩa bóng, liên kết với những chữ
khác, văn cảnh khác. Cần biết việc sử dụng từ ngữ ảnh hưởng rất lớn đến nếp suy
nghĩ của một thế hệ, nhiều thế hệ, của một cuộc cách mạng, một quốc gia. Tối tăm
hay sáng sủa.
Phép tu từ có thể
là khai trí hoặc là thuốc lú bùa mê.
Em về điểm phấn,
tô son lại
Ngạo với nhân
gian một nụ cười
Thi sĩ Thái Can
không chỉ muốn nói về son phấn cụ thể, mà còn nói đến nghĩa bóng của nó, tức là
vẻ đẹp bên trong của tâm hồn, của ý chí. Tiếng Việt có nhiều chữ được dùng với
nghĩa bóng như thế: nóng tính, không phải nói về nhiệt
độ của cơ thể, trả giá, không phải chỉ nói về tiền bạc, lên
mây, ý nói sung sướng. Không phải chữ nào cũng được dùng theo nghĩa bóng,
và không phải tất cả mọi nghĩa của một chữ đều được sử dụng hết trong một câu
thơ.
Trời nóng băm
bốn độ
Đèn, sao khắp
đế đô
Nam Trân tả cảnh
Huế mùa hè. Sợ bạn nghĩ là ông muốn dùng nghĩa bóng, thi sĩ còn cẩn thận chú
thích: băm bốn độ. Tuy nhiên khái niệm nghĩa đen hay nghĩa bóng, sự
đối lập của chúng, nhiều khi không còn quan trọng trong những văn cảnh khác.
Hoa tặng vừa
tàn bông thược dược
Tìm chàng bỗng
vắng, bóng chàng xa
Trong hai câu thơ
của J. Leiba, bông thược dược có thể là bông hoa thật, nhưng người đọc không
quan tâm nhiều lắm, vì hình như có một nghĩa khác đằng sau quan trọng hơn. Bông
hoa được sử dụng như một hình ảnh nói về ngày xuân, hạnh phúc, sự ngây thơ.
Ngôn ngữ học gọi là phép ẩn dụ.
Các kiến thức về
từ nguyên học và về điển tích cũng quan trọng trong việc đọc. Cần làm quen với
các phương pháp dùng chữ thiên biến vạn hoá. Lối nói phóng đại hay thậm xưng:
Ôi những cánh
đồng quê chảy máu
Dây thép gai
đâm nát trời chiều
(Nguyễn Đình Thi)
Như một tác phẩm
hội họa. Cách nói hình ảnh này cũng hay gặp trong thơ siêu thực Pháp, thứ Nguyễn
Đình Thi chắc có chịu ảnh hưởng.
Việc chọn chữ của
một nhà thơ thường có khuynh hướng cá nhân: không phải người nào cũng dùng tất
cả các chữ và dùng chúng với mật độ như nhau. Nếu so sánh các từ ngữ trong thơ
của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, hay Xuân Diệu và Nguyễn Bính, tức là những người
cùng thời, bạn sẽ thấy một số chữ được dùng với tần số xuất hiện cao hơn ở người
này và thấp hơn ở người khác. Việc chọn chữ như vậy gọi là từ vựng của mỗi tác
giả. Các chữ làm nên một câu văn phạm hay một câu thơ, để mang lại nghĩa cho
chúng, theo những quy luật ngữ pháp nhất định. Công việc ấy có thể gọi là cú
pháp (syntax). Trong khi tuân theo lề luật riêng của một ngôn ngữ, mỗi bài thơ
có thể thiết lập những độ tự do khác nhau, trong việc đem lại ý nghĩa mới cho
cú pháp của mình. Việc chọn chữ trong thơ không những có tầm quan trọng đặc biệt
đối với mỗi nhà thơ mà còn đối với cả một phong trào, một thế hệ, một khuynh hướng
thẩm mỹ. Đối với phong trào thơ mới, việc chọn chữ như trong câu thơ sau đây:
Ta mơ trong đời
hay trong mộng?
Vùng cúc bên
ngoài đọng dưới sương
(Lưu Trọng Lư)
Là không thể có
trong thơ Việt trước đó.
Nếu có cái nhìn về
lịch sử, chẳng hạn khi so sánh thơ Việt trung đại, thơ mới, thơ hiện nay, chúng
ta sẽ thấy ngôn ngữ mới đầu dành cho tầng lớp quan lại quý tộc, về sau dành cho
trí thức xuất thân Tây học, và cuối cùng đó là ngôn ngữ dành cho mọi người. Thơ
ca ngày trước nói về các điều to lớn, vĩ đại, linh thiêng, thơ ca ngày nay nói
về cuộc sống hàng ngày, đôi khi tầm thường.
Ngôn ngữ càng tầm
thường, càng nhiều tiếng lóng, thô tục, càng giàu tính hài hước: đó là khởi điểm
của chủ nghĩa hậu hiện đại. Như vậy chữ trong thơ không chỉ dùng để mô tả các ý
nghĩa mà còn thể hiện vị trí của nhà thơ và đối tượng độc giả.
5. Hình ảnh trong
thơ
Hình ảnh trong
thơ là một chữ, một nhóm chữ, ghi lại một tác động giác quan, trong trường hợp
này là thị giác, tuy vậy hình ảnh không phải chỉ nói về thị giác, mà có thể gây
cảm giác như thể bạn đang chạm tay, ngửi mùi hương, nghe tiếng động, âm nhạc.
Hình ảnh biển quê hương đẹp, đứng mãi, tươi vui, nhờ chữ của Huy Cận:
Cái đuôi em quẫy
trăng vàng chóe
Đêm thở, sao
lùa nước Hạ Long
Cái mà người đọc
nhận được bằng hình ảnh nhiều hơn chính hình ảnh ấy.
Việc sử dụng chữ
trong thơ được điều khiển một cách có ý thức bởi nhà thơ. Một trong những hình ảnh
được dùng là sự tương hợp, so sánh, trong đó có hai phương pháp được dùng nhiều:
phép so sánh và phép ẩn dụ.
Cả hai đều nhấn mạnh
rằng cái này giống cái kia. Phép so sánh chỉ rõ sự so sánh:
Hai ta như sen
mùa hạ như cúc mùa thu
Như tháng mười
hồng tháng năm nhãn
Em theo chim
em đi về tháng tám
Anh theo chim
đi về với tháng ba qua.
(Tế Hanh)
Đó là sự so sánh
trực tiếp một sự vật (hai ta) với một sự vật (sen mùa hạ, cúc mùa thu), làm
không gian trở nên mênh mông. Các câu so sánh thường có chữ như để
giúp phân biệt.
Trong khi đó:
It pleure dans
mon ceour
Comme il pleut
sur la ville
(Paul Verlaine)
Là một so sánh ngầm.
Tác giả có cách
chơi chữ khó dịch giữa pleure (pleurer) là khóc và pleut (pleuvoir)
là mưa.
Mưa khóc trong
lòng tôi
Mưa rơi ngoài
phố vắng
Ph ối h ợp c ả
hai ph ư ơng ph áp, trong một ngôn ngữ khác Tế Hanh v à Verlaine, gấp gáp hơn:
Tôi xa người
như xa núi sông
Em bên kia
núi- bên kia rừng?
Em bên kia nắng?-
bên kia gió?
Tôi một giòng
sương lên mênh mông
(Du T ử L ê)
Khi bạn so sánh một
vật này với một vật khác là bạn tạo ra mối quan hệ giữa chúng, dịch chuyển từ vật
này đến vật khác một số thuộc tính của chúng. Sự dịch chuyển như thế hàm ý so
sánh.
Nhớ cảnh sơn
lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió
gào ngàn với giọng nguồn hét núi
Những câu thơ của
Thế Lữ trong bài Nhớ Rừng tả con hổ trong vườn bách thú, làm bạn nghĩ tới một
điều gì khác, ngoài con vật ấy: con người, xã hội tù ngục, chế độ độc tài, hoàn
cảnh khốn khổ của trí thức, sự bị làm nhục, giấc mơ tự do của tác giả.
Phương pháp so
sánh trực tiếp còn được nhiều người, như ở nhiều nhà thơ Pháp, sử dụng như nghệ
thuật chính yếu cho một bài thơ.
La Même Voix,
Toujours
Je suis comme
le pain que tu rompras,
Comme le feu
que tu feras, comme l’eau pure
Qui
t’accompagnera sur la terre des morts.
Comme l’ecume
Qui a muri
pour toi la lumière et le port.
Comme l’oiseau
du soir, qui efface les rives,
Comme le vent
du soir soudain plus brusque et froid.
(Yves Bonnefoy)
Anh như mẩu
bánh mì em bẻ ăn
Như lửa em
nhen, như dòng nước mát
Sẽ chảy cùng
em trên đất người đã khuất
Anh sẽ vì em
như bọt sóng
Tung chín đỏ
ráng chiều vùng vịnh
Như chim hoàng
hôn xóa mất bãi bờ
Như ngọn gió bất
ngờ, thổi gào, lạnh buốt.
Chịu ảnh hưởng
các nhà thơ phương Đông, đặc biệt là haiku Nhật Bản và thơ Đường Trung Hoa, nhiều
nhà thơ phương Tây sử dụng hình ảnh tiết kiệm, ấn tượng:
The apparition of these faces in the crowd;
Petals on a wet, black bough
Những khuôn mặt bỗng hiện ra trong đám đông
Những nụ bông trên cành cây đen, ướt
(E. Pound, In a Station of the Metro)
Biểu tượng có thể xem là một hình ảnh đặc biệt, một điều gì
chúng ta có thể nhìn thấy được nhưng lại mang ý nghĩa đằng sau nó, tượng trưng
cho một điều khác, lớn hơn. Ví dụ, ở nước ta, thức ăn chính là cơm gạo, sản phẩm
của cây lúa nước. Vì vậy, bát cơm tượng trưng cho sự no đủ. Bữa ăn gọi là bữa
cơm, mời tiệc gọi là mời cơm. Cơm trở thành biểu tượng cho nền văn hóa. Tương tự,
người da đỏ Bắc Canada có nhiều chữ khác nhau để chỉ tuyết, trong khi tiếng Việt
chỉ có một.
Đường Tự Do chạy thẳng
Các anh đi về tuổi đúng hai mươi
(Quách Thoại)
Tên riêng của một con đường ở Sài Gòn trở thành một biểu tượng.
Như vậy một chữ để chỉ một hình ảnh, trở thành biểu tượng, khi có chức
năng nối kết giữa cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy.
Tư tưởng và cảm xúc là hai cột trụ của thơ ca, nhưng đó
không phải là những diễn tả trừu tượng mà được thể hiện bằng hình ảnh, ẩn dụ,
so sánh, đến lượt các hình ảnh này phải xuất hiện trong một phương cách hợp lý,
tự nhiên. Mấy câu thơ của Mary Oliver dày đặc hình ảnh dùng để mô tả một câu hỏi
siêu hình:
Is the soul solid, like iron?
Or is it tender and breakable, like
the wings of a moth in the beak of the owl?
Who has it, and who doesn’t?
Có phải hồn ta bằng thể rắn, như sắt
Hay mềm, dễ vỡ, tựa hồ
Cánh mối kia trong mỏ chim cú nhọn hoắt
Ai có tâm hồn nhất, và ai không?
Trong khi ngôn ngữ là viên gạch bắt buộc để xây nên bài thơ
như một ngôi nhà, thì có những viên gạch khác, tuy không thể chỉ ra cụ thể, lồng
trong các chữ. Chữ mang lại thông tin, trong khi hình ảnh chính là hoa của cây,
điểm thăng hoa của bài thơ, sự kết tụ cao nhất của thi tứ. Một lần nữa sự thưởng
thức đối với hình ảnh trong thơ phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh xã hội, thời kỳ.
Có những hình ảnh đứng mãi với thời gian, nhưng có những hình ảnh về sau không
còn được yêu chuộng.
6. Giọng điệu trong thơ
Trong lời nói hàng ngày, cùng một câu, chỉ cần thay đổi chất
giọng, như khi bạn lên giọng, gắt gỏng, hay khi bạn nói thầm, nghĩa sẽ khác. Giọng
điệu của thơ không thể dễ dàng xếp loại. Như bạn đóng một cánh cửa, khi lịch
thiệp, lúc giận dữ. Có khi giữa hai thứ đó, bạn gây tiếng ồn đủ để mọi người ngạc
nhiên quay lại, nhưng không đến nỗi đóng sầm một cái: đó là hờ hững.
Tính ích kỷ hay vô tâm cũng hiện ra lúc bạn đóng cửa.
Tâm hồn cũng có tiếng vang.
Giọng hài hước:
Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em em cứ ỡm
ờ không thưa
(Trần Tế Xương)
Nhưng lối nói hài
hước hay châm biếm phổ biến nhiều hơn trong thơ tiếng Anh, tiếng Pháp, so với
thơ tiếng Việt, có lẽ vì tinh thần u mặc của người phương Tây.
Giọng khinh bạc:
Hớt tóc cạo
râu là chuyện nhỏ
Ba ngàn thế giới
cũng không to
(Nguyễn Bắc Sơn)
Trầm uất:
Thà cứ ở đây
ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi
thế nhân ơi
(Nguyễn Bính)
Dịu dàng, yêu
thương, nhưng thư thả:
(Bùi Giáng)
Đọc thơ cũng thế,
những bài thơ hay có giọng rõ ràng, hoặc tâm tình, hoặc kêu gọi, hoặc triết lý.
Những bài thơ dở có giọng không rõ ràng, như một người nói lắp, hay một kẻ suy
nghĩ lẫn lộn, hồ đồ.
Cùng một Tản Đà:
Từ vào thu đến
nay,
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây
thành
Lá thu rơi rụng
đầy ghềnh,
Sông thu đưa
lá bao ngành biệt ly.
Giọng tình tứ,
say đắm. Trong khi đó:
Cũng phường dối
nước quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn
dân giống hại dân.
Đúng là lời nguyền
rủa, sự khinh miệt đối với giới chức cầm quyền bất tài, tham nhũng, độc ác.
Khi nói đến giọng
điệu và thái độ của người nói, chúng ta sẽ đề cập đến một khái niệm khác là ý định.
Ý định của một bài thơ có thể tìm thấy dựa trên sự phân tích các đặc điểm của
giọng điệu trong bài thơ ấy. Cần chú ý rằng mặc dù có một số nhà thơ có ý định
khi sáng tác, ví dụ trong các bài thơ có tính tuyên truyền hay kêu gọi, như trường
hợp Phan Bội Châu:
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng
gà vừa gáy,
Chim trên cây
liền ngỏ ý chào mừng.
Xuân ơi xuân,
xuân có biết cho chăng?
Nhà thơ nói với
ai? Với thanh niên, đồng bào, với mùa xuân.
Hầu hết các trường
hợp khác, khi phân tích một bài thơ bạn thường dẫn đến kết luận ý định của nhà
thơ ấy, nhưng thật ra khái niệm ý định có thể gây hiểu lầm tai hại. Ngay cả hiện
nay, tôi vẫn ngạc nhiên thỉnh thoảng thấy một nhà thơ hay một nhà phê bình, dẫn
giải về các hoàn cảnh sáng tác với ngụ ý rằng đó là ý định căn bản của tác phẩm.
Ý định của một tác giả không nhất thiết phải là, và cũng không nên là, thứ chìa
khóa vàng để giải thích các giá trị căn bản của một tác phẩm. Ngay cả khi một
nhà thơ viết một bài thơ với ý định ban đầu, thì trong khi viết, ý định ấy cũng
có thể thay đổi, cũng như một người chuẩn bị xây căn nhà, cuối cùng anh ta có
thể xây một căn nhà nhỏ hơn nhưng đẹp hơn hoặc lớn hơn nhưng xấu hơn rất nhiều
so với bản vẽ ban đầu.
(Còn tiếp)
Nguyễn Đức Tùng