16 November 2022

ĐỌC MỘT BÀI THƠ NHƯ THẾ NÀO (1) - Nguyễn Đức Tùng

1. Đọc mỗi lần một chữ

Khi tôi học lớp Năm, có lần được thầy gọi lên bảng đọc cho cả lớp chép một đoạn trích từ cuốn Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch Hà Mai Anh, nguyên tác Edmond De Amicis. Đó là sách dạy chính thức trong nhà trường miền Nam thời ấy. Giờ ám tả, học trò lắng nghe, chép lên giấy. Năm cuối bậc tiểu học, chuẩn bị thi vào trung học, nên bài cũng khó hơn. Phải đọc từng câu, dấu phẩy dừng ngắn, dấu chấm dừng dài, các chữ tiếng nước ngoài phải đọc chậm. Khi thấy tôi luống cuống, chữ nọ xọ chữ kia, thầy bắt dừng lại, đọc chậm, với lời khuyên: em hãy đọc mỗi lần một chữ. Tôi đọc lại.

Sáng nay, chúng tôi vừa vặn có dịp xét đoán anh Garônê.
Giờ vào lớp, ông Perbôni chưa có đấy, ba bốn cậu đang thi nhau chế giễu anh Crôtxi khốn nạn – tức là cậu bé tóc vàng, tay liệt, con bà bán hoa quả. Họ lấy thước đánh cậu, lấy vỏ hạt dẻ ném cậu, họ gọi cậu là con quỉ què và mếu máo giả cách làm người liệt tay. Ngồi trơ một mình ở đầu ghế, cậu thẹn thùng và đưa mắt nhìn người nọ, người kia như để van lơn họ khỏi hành hạ mình. Được thể, bọn học trò càng làm già. Cậu phẫn uất quá, máu đưa lên cổ và phát run người. Thình lình, Phranti, một đứa học trò mặt xấu như khỉ, đứng lên ghế, khuỳnh hai cánh tay như người khoác hai cái giỏ, bắt chước bộ tịch mẹ cậu Crôtxi những khi đứng đợi con ở cửa trường. (Đã mấy hôm nay, bà không đến đón con vì bị ốm). Coi tấn tuồng câm ấy, học trò cười ầm cả lên. Crôtxi điên tiết, vồ ngay lọ mực trước mặt ném Phranti, Phranti né mình, lọ mực trúng giữa ngực ông Perbôni ở ngoài bước vào.

Mọi người hết vía, chạy trốn về chỗ và ngồi im thin thít.
Thầy giáo lên bục cau mày hỏi :

 

– Ai ném lọ mực ?
Chẳng ai hé răng.

Tôi không bao giờ quên lời khuyên ấy. Sau này, đó là nguyên tắc tôi dùng khi đọc bất cứ bản văn nào, tiếng Việt hay sinh ngữ khác: đọc mỗi lần một chữ. Các nhà văn đều biết rõ điều này, dù viết bằng bút máy, bút chì, hay máy điện toán, người ta chỉ có thể viết mỗi lần một chữ, mỗi lần một dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy.

Đọc cũng thế. Đọc thơ càng thế. Vì thơ là một ngôn ngữ quy ước, nhiều tu từ, điển tích, có tính cô đọng, giản lược, đôi khi gián đoạn.

Ngôn ngữ cô đọng:

Lâm tri người cũ chàng còn nhớ không

(Nguyễn Du)

Bạn đọc lại, không phải đọc câu thơ ấy mà đọc tám chữ ấy, mỗi chữ một lần, từng chữ một. Nếu ngoài đời, câu ấy của Kiều sẽ là: anh còn nhớ hồi xưa mình gặp nhau ở Lâm tri không nhỉ, hình như trong tiệm phở 88?

Giản lược chủ từ:

Quây quần trong một tổ

Như đôi chim bồ câu

(Đông Hồ)

Giản lược nội dung:

Mạnh giỏi không em gái nữ sinh

Hồi này đi học chắc ít bị tụi con trai nó phá

Nếu ta biết rằng Nguyên Sa đang nói về chiến tranh, và "tụi con trai" phải đi lính hết, thì thấy câu thơ rất buồn.

Điển tích:

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu đình hoa

(Đỗ Mục, Bạc Tần hoài)

Gái ca không biết thù nhà

Bên sông còn hát khúc ca Hậu đình

(Trần Trọng Kim dịch)

Khúc Hậu đình do Trần Hậu Chủ sáng tác; ông vua vì ham vui chơi mà mất nước. Vui chơi không phải là cái tội, nhưng làm vua, sắp mất nước, mà vẫn vui chơi là một cái tội.

Mỗi ngôn ngữ đều có những chữ và quy luật chi phối các chữ ấy, gọi là cú pháp, văn phạm, ngữ pháp, tùy trường hợp. Đọc thơ và làm thơ cần một số kiến thức căn bản về tiếng Việt, khả năng phân biệt tinh tế chữ, nghĩa. Vì ngôn ngữ là biểu hiện hoạt động cao nhất của tinh thần, biểu hiện của trí thông minh và ngược lại bồi đắp hay hủy hoại trí thông minh. Một lối dùng chữ ngắn gọn, chính xác, chứng tỏ suy nghĩ mạch lạc, một lối mô tả sự vật mập mờ, hồ đồ, chứng tỏ suy nghĩ luẩn quẩn, hời hợt. Đọc hơi văn, biết tính cách. Tâm không chính, chữ không ngay. Trong khi tập trung rèn luyện khả năng viết và đọc, nói và nghe, người ta cũng rèn luyện cách suy nghĩ.

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

(Nguyễn Bính)

Trong mấy chữ xa lắc xa lơ chỉ có chữ xa là có nghĩa, hai chữ lắc và  không có nghĩa, nhưng không có chúng thì nghĩa của chữ xa cũng thay đổi.

Nghe một câu nói hay, bạn dừng lại, đọc một bài thơ hay, bạn vui sướng như khi đứng trước cảnh đẹp. Khi đọc, một điều gì thay đổi trong bạn cũng xảy ra. Không những thưởng thức cái đẹp, bạn còn biết nâng cao hiểu biết và cảm kích đối với các giá trị văn hóa. Một người loại trừ văn chương ra khỏi đời sống, chỉ cốt làm các bài tập cho đủ điểm, ra đời hành nghề có lương cao, lên chức, nhiều bổng lộc, là tự hạ mình xuống, làm mình nhỏ lại, thành một người chỉ sống vì các nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, vệ sinh. Một cá nhân như thế vẫn có thể thành công về mưu sinh, địa vị, nhưng sẽ trưởng thành không trọn vẹn. Nếu bạn có thể đọc thơ trong sinh ngữ khác, tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoa, bạn còn phát triển một tình yêu đặc biệt đối với các nền văn hóa và các dân tộc ấy.

Khác với nghệ thuật, thơ văn chỉ dùng đến chữ, vì vậy nhiều người hiểu lầm rằng để đọc thì không cần học hành gì cả. Mặt khác, lại có kẻ xưng tụng thơ đến mức cho sự thưởng thức một bài thơ là có tính thần linh, siêu việt, không thể phân tích, giải thích, và do đó mang tính cá biệt, đơn nhất, không ai học được ở ai cả.

Đó là khuynh hướng thần bí hóa hay gặp ở những xứ ít phát triển.

I understand English

This poem is written in English

I have no idea what this poem is saying

 

Tôi biết tiếng Anh

Bài thơ này viết bằng tiếng Anh mà

Nhưng không hiểu nó nói gì vậy ta?

(Billy Collins)

Thật ra, đọc thơ vừa là thích thú tự nhiên vừa là kỹ thuật có thể học hỏi. Có những sở thích chỉ được khơi dậy dựa trên học tập. Cách phân tích một bài thơ thông thường bắt đầu bằng các dẫn giải xuất xứ, tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời bài thơ ấy, chủ đề chính trị hay xã hội của nó. Đó là phương pháp thường dùng trong các sách giáo khoa. Tuy có những lợi ích quan trọng, phương pháp văn học sử này có mấy hạn chế. Chẳng hạn, trong nhiều trường hợp, xuất xứ không rõ, tác giả đã mất, hoặc nếu còn sống cũng không nhớ hết. Lấy thí dụ bài Tương Tư của Nguyễn Bính: tôi không có tài liệu nào về việc nhà thơ làm bài ấy ở đâu, thôn Đoài ngày trước là thôn nào. Chỉ biết rằng nhiều người vẫn thích câu:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Giả sử chúng ta biết rõ chuyện tình của nhà thơ, cô gái trong bài thơ ấy hiện còn sống, đang ở Paris quận 13 chẳng hạn, già móm mém nhai trầu, ngay thế đi nữa thì ý nghĩa của câu thơ, tác động lên người đọc, không mấy thay đổi. Khuyết điểm của phương pháp tiểu sử hay giáo dục hóa, luân lý hóa thơ ca, còn ở chỗ gây cảm giác chán nản cho học sinh: người ta chỉ thấy việc đọc thơ là một bổn phận. Bổn phận nào cũng kèm theo tưởng thưởng và hình phạt. Thời đi học, bạn học để trả bài, không học thì thi hỏng, học giỏi được điểm cao. Ra đời rồi, không ai cho điểm nữa: bạn thoát nạn đọc thơ, mừng hết lớn.

Cũng có những mặc định không đúng. Mặc định cho rằng khi đọc một bài thơ, việc đầu tiên là tìm nghĩa của nó. Thứ hai là cho rằng nghĩa ấy cố định, mỗi chữ mỗi câu là một bảng sắp xếp, như ổ khóa cửa, bấm mã số đúng thì mở được, người nào cũng mở được. Thứ ba, giá trị một bài thơ tùy thuộc hoàn toàn ở bạn, có thể thay đổi trong mọi trường hợp, nếu bạn cho nó hay thì nó hay, bạn nghĩ nó dở thì nó dở, từ chối lý giải.

Đọc thơ là việc khó; thật ra, chẳng có việc gì dễ. Bất kể chúng là môn bắt buộc hay trò chơi. Thơ vừa nghiêm trang vừa tiêu khiển. Đó là sự tương tác giữa người viết và người đọc, rộng hơn là tương tác giữa người đọc khác nhau, trong đó có nhà phê bình. Tức là sự trao đổi và san sẻ kinh nghiệm đối với một tác phẩm, hình tượng của nó, ý nghĩa của nó, và bí mật nhất, sự quyến rũ của nó.

Những bài thơ hay có sức hút, mời gọi. Cánh cửa của nó mở rộng. Một bài thơ hay, ngay cả thơ trữ tình, bao giờ cũng dẫn tới đối thoại. Hãy để ý câu mở đầu.

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

(Lưu Trọng Lư, Tiếng Thu)

Hình ảnh, nhạc điệu của hai câu ấy tạo ra một lực đẩy: bộ máy khởi động. Bạn muốn nghe tiếp những câu sau đó. Bạn muốn nghe lại nữa.

Nó thổn thức cái gì vậy?

Nhưng bạn không dừng ở đó. Bạn muốn tháo những câu thơ ấy ra, như người ta tháo cái máy. Những người không có kinh nghiệm khi tháo máy có thể làm hỏng nó, thậm chí không gắn lại được. May thay, một bài thơ cho phép bạn tháo ra và lắp lại bất kỳ lúc nào, bất kể bạn tháo như thế nào, đúng hay sai. Bài thơ được cấu trúc như những câu hỏi, đối thoại. Hai câu mở đầu thoạt nhìn không giống thơ có vần, nhưng đọc kỹ bạn sẽ gặp những chữ đi với nhau, mùa đi với mờ, thu đi với thổn thức, thậm chí em đi với nghe, không đi với trăng. Có một thuận lợi mà tác giả tận dụng, đối với nhiều người chỉ cần nói đến mùa thu, nói đến hươu nai, chinh phụ, là đã chạnh lòng, kỷ niệm dồn về. Tác giả đi đúng mạch xúc cảm của nhiều người, bài thơ hay lên vì những yếu tố ngoài văn bản. Các nhà phê bình gọi là đọc liên văn bản. Tuy nhiên trong một tình huống tốt đẹp như thế, nhiều nhà thơ khác có thể đã không chọn được những chữ như Lưu Trọng Lư đã làm.

Mùa thu, lá vàng, nai, trong truyền thống nhiều dân tộc, là các biểu tượng. Mạch xúc cảm của bài Tiếng Thu dựa trên quyền lực của biểu tượng văn hóa.

2. Đọc lớn một bài thơ

Bạn cần tập đọc lớn lên khi gặp một bài thơ mới. Trước hết đọc không suy nghĩ, không phân tích, không quan tâm nghĩa của nó ra sao, có ích cho ai không? Bạn vứt hết các thứ ấy đi, và cứ đọc lớn lên đã.

Trăng:

Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá,
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi.
Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ.
Im lìm, không dám nói năng chi.
Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng,
Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang,
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá,
Và làm sai lỡ nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh tơ xanh,
Cho gió du dương điệu múa cành;
Cho gió đượm buồn, thôi náo động
Linh hồn yểu điệu của đêm thanh.
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ,
Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ.
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.

(Xuân Diệu)

Tại sao tôi chọn bài thơ này, tôi không biết. Chỉ nhớ rằng vào năm học lớp Đệ Ngũ, tức lớp Tám ngày nay, tôi đã phải học thuộc lòng. Và sau này thỉnh thoảng nhớ lại, câu được câu mất, nhưng nhiều năm qua tôi chưa bao giờ hối hận vì phải thức suốt đêm để học nó cả.

Cũng như đối với một bài hát, bạn nghe vài lần mới nhớ hết các ca từ, giai điệu; các lần nghe ấy có khi trong một ngày, có khi cách nhau năm, mười năm. Người xưa chú trọng việc đọc thành lời, hoặc nâng kỹ thuật lên thành ngâm thơ. Bạn chú ý đến các chữ đầu câu, cuối câu, hiệp vần. Đối với các chữ hiệp vần, bạn cần thận trọng: không được lướt qua, nhưng cũng không dừng lại lâu quá. Có lần tôi nghe một ca sĩ nổi tiếng ngâm thơ, cô ngâm hay, nhưng đến chữ có vần hay những đoạn mà cô thích, lại nhấn mạnh quá đáng. Các chữ hiệp vần cần được đọc thận trọng, trọn tiếng, nhưng không được đọc lớn hơn nhiều so với những chữ khác. Việc đọc lớn hơn các chữ khác, như người nghệ sĩ kia, sẽ gây cảm giác màu mè giả tạo. Như một cô gái đã đẹp về nhan sắc hay về tính cách rồi thì không cần bôi son phấn lòe loẹt nữa. Màu mè cũng là một hình thức của giả tạo.

Bạn thử đọc bài này nữa:

L’Adieu

J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends

Bản dịch của Bùi Giáng:

Lời Vĩnh Biệt

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó

Thế hệ thanh niên học sinh ngày trước như tôi nhiều người thuộc những câu thơ này, và mang chúng theo vào đời. Đọc lớn, bạn lắng nghe chính giọng của mình, để ý sự khác nhau của âm thanh các chữ, những chữ xem ra hay hơn những chữ khác, những câu có vẻ đặc biệt hơn những câu khác, ngẫm nghĩ về tác động của chúng. Đối với các ngôn ngữ đa âm, bạn chú ý từng âm tiết. Khi đó bạn sẽ nghe được chất âm nhạc trong bài thơ đầy nhạc điệu của Guillaume Apollinaire (1880-1918).

3.Ý nghĩa của thơ

Định nghĩa thơ là việc khó. Nhưng mỗi người tự tìm cho mình một cách, có lẽ là bước đầu có ích. Có nhiều định nghĩa, ví dụ:

– Nhà thơ Emily Dickinson: "Nếu tôi đọc một cuốn sách và nó làm tôi lạnh thấu xương, không một ngọn lửa nào sưởi ấm được cả, tôi liền biết rằng đó thực là thơ ca."

– Nhà thơ William Wordsworth gọi thơ là "dòng trôi chảy tự nhiên của những cảm xúc mạnh mẽ vô bờ."

Bạn có thể tìm thấy nhiều định nghĩa khác, hầu hết chúng đều đúng, nhưng một cách tương đối, về một khía cạnh nào đó. Thật ra, thơ có thể là nhiều thứ khác nhau, có thể là bài hát, sự xúc cảm, một triết lý. Có thể lãng mạn, có thể hài hước, châm biếm, có thể là bản tường trình về lịch sử. Tuy nhiên tất cả liệt kê vừa rồi, trong khi đúng với thơ, cũng đúng với nghệ thuật khác. Có thể phát biểu ngắn gọn rằng thơ là một ngôn ngữ nghệ thuật với ba đặc tính: cô đọng, ngắn gọn, chặt chẽ; có nhạc tính; được sắp xếp trong một hình thức sao cho tập hợp các chữ tạo ra ý nghĩa nhiều hơn tổng số những ý nghĩa ban đầu của từng chữ.

Các định nghĩa khác nhau này, tuy vậy, lại giúp bạn mở rộng hiểu biết. Cần chú ý thơ không phải chỉ là một phán đoán, tuyên bố, có thể viết dưới những hình thức khác nhau. Bài thơ là một tồn tại độc lập, gồm những chữ, tất nhiên, được sắp xếp như một cấu trúc cố định.

Đèo Cả!

Đèo Cả!

Núi cao ngút!

Mây trời Ai lao sầu đại dương!

(Hữu Loan)

Nếu bạn thêm một chữ Đèo Cả! vào, thành ba, hay rút bớt một, còn một, bạn sẽ thấy sự khác nhau. Khi rút ngắn, câu thơ trở nên cụt lủn, không gây ấn tượng về ngọn đèo hiểm trở. Khi nối dài, câu thơ trở nên dùng dằng không dứt khoát, thừa thãi. Sự vụng về của các bài thơ dở, đầy rẫy hiện nay, thường xuất phát từ đây: nghệ thuật dùng chữ kém.

Thế còn câu sau đây?

Một đèo, một đèo, lại một đèo

(Hồ Xuân Hương)

Bạn nhận xét ra sao? Ba chứ không phải hai như Hữu Loan.

Trở lại với Hữu Loan. Không ngồi trên đỉnh dốc đèo Cả, thì không viết được mấy câu nhiếp hồn này:

Dặm về heo hút

Đá Bia mù sương

Núi Đá Bia có thật, gần đèo Cả, nhưng cái tên của nó gây cảm giác huyền bí sâu thẳm, như bao bọc bởi mù sương. Lúc này bạn bắt đầu muốn biết đèo Cả ở đâu, núi Đá Bia là núi gì, có gì hay ho ở đó, tức bạn muốn biết địa lý và lịch sử, còn gọi là sử địa.

Một người không có trí tò mò về lịch sử và địa lý, thì làm sao có lòng yêu nước? Đôi khi cái mà xưa nay bạn tưởng là lòng yêu nước thực ra chỉ là sự theo đuôi hoặc mê tín. Thường là cuồng tín.

Đừng bỏ qua những dịp dự các buổi đọc thơ, hay nghe thơ trên đài phát thanh, truyền hình. Cần chú ý văn chương không có câu trả lời hay đáp số cụ thể như khoa học. Một bài thơ đối với hai người đọc khác nhau có thể mang ý nghĩa khác nhau. Cùng một bài có người chê dở có người khen hay. Bạn không nên quá lo âu về điều này. Không những không cần quan tâm nhiều đến ý nghĩa của bài thơ, mà cũng không cần quan tâm vì sao các ý nghĩa ấy có thể khác nhau đến thế. Đọc thơ cũng tựa như thể thao, bạn phải xuống sân cỏ, sân trượt băng, bạn phải mang giày vào, trái bóng phải lăn đi dưới chân, cây gậy phải nằm chặt trong tay bạn, trước khi bạn biết nhiều hơn về thú vui, và sự khổ đau, tất nhiên, của chúng. Khi chạy theo trái bóng, bạn sẽ nhận ra rằng lời hướng dẫn khô khan của huấn luyện viên, mà bạn đã từng ngủ gật khi nghe chúng trong phòng học, thật là có ích biết bao. Bạn sẽ thấy càng nắm vững luật chơi bạn càng chơi giỏi, và càng chơi giỏi bạn càng nắm vững luật chơi. Những cầu thủ bóng đá nổi tiếng không thích đá vào chân đối phương vì họ có thú vui khác, chân chính hơn, ví dụ đá vào bóng.

Những người không thích đá bóng sẽ thích đá vào chân bạn.

Để thưởng thức hay làm ra nghệ thuật, cũng như muốn chơi bóng hay, bạn phải té xước đầu gối, ngã bong gân, tay chân bầm tím. Không ai muốn thế, nhưng cũng như trong đời, bạn không nên tìm mọi cách để an toàn và để tránh chúng mãi.

Cứ tránh mãi sự nguy hiểm thì bạn sẽ cúi đầu xuống hoặc sẽ học cách ngụy biện. Ý nghĩa của thơ là mang lại cho người đọc lòng can đảm, tính dung thứ, lời xin lỗi, sự biết ơn, lòng hối hận trước dĩ vãng và sự phản kháng trước tương lai. Bài thơ không phải là trò tiêu khiển phút chốc, nhưng cũng không phải là bài toán đố nhức đầu bạn phải giải, và giải mã một lần là xong.

Thơ là một ngôn ngữ tự ý thức về mình. 

Nói cách khác, ngôn ngữ thơ chú ý đến chính nó, lấy nó làm mục đích, tức là phương tiện dùng để diễn tả sự vật trở nên quan trọng bằng hoặc hơn sự vật được diễn tả. Trong khi ý nghĩa góp phần tạo nên giá trị của thơ, thì ngôn ngữ quyết định giá trị ấy.

Đây là ca dao:

Tiếc thay cây quế giữa rừng

Để cho thằng mán thằng mường nó leo

Đây có lẽ là thơ:

Tiếc thay cây quế giữa rừng

Thơm tho ai biết, lẫy lừng ai hay (*)

4. Ngôn ngữ trong thơ

Cần chú ý rằng ngôn ngữ và lời nói là hai khái niệm khác nhau. Đối với người Việt, tiếng Việt là ngôn ngữ chung. Mọi người đều nói và viết tiếng Việt, tuy nhiên mỗi người có một lời nói riêng, cách nói riêng. Cách nói khác nhau còn vì giọng điệu khác.

Ví dụ:

Tôi chịu thua anh.

Tùy theo giọng nói và bối cảnh, có thể là câu tuyên bố nghiêm trang, nhưng cũng có thể là hài hước và châm biếm.

Thơ là chữ. Chúng ta có thể có quan niệm rằng thơ chính là cảm xúc hoặc tư tưởng. Kỳ thực dù cảm xúc hay tư tưởng cũng đều thông qua cấu trúc vật thể là các chữ. Như vậy chữ là phương tiện, hơn nữa, cấu trúc vật chất của thơ. Cũng như nhạc cụ đàn, sáo, kèn, là phương tiện của âm nhạc, mực, chất màu, vải, giấy là phương tiện của hội họa. Bài thơ là một cấu trúc toàn thể, tuy nhiên khi phân tích, người ta có thể chọn lựa tách một bài thơ thành nhiều bộ phận, như bạn xem xét một cỗ máy, một cái đồng hồ. Các bộ phận của đồng hồ tách biệt nhau: kim giờ khác kim phút, bánh xe khác với dây cót. Một bài thơ thì khác: bạn không thể tách rời hình ảnh và nhạc tính, thậm chí một chữ này và một chữ khác, mà không làm thay đổi nghĩa của chúng.

Ngôn ngữ trong thơ có tính dồn nén, có sức hấp dẫn hay sức đẩy, như một năng lượng. Một câu thơ dở nhận rất nhiều năng lượng của nhà thơ, nhưng để mặc chúng rò rỉ tan tác trong quá trình vận động, như một cái máy kém, tốn nhiều xăng mà chạy ì ạch, xả khói đen mù trời. 

Đó là đặc tính của thơ dở, thời nào cũng vậy, nhưng thời nay càng nhiều, vì việc công bố dễ dàng, không qua tay nhà biên tập khó tính.

Thơ ca là bộ máy sử dụng năng lượng tiết kiệm nhất của ngôn ngữ.

Nghĩa của chữ thường có hai: nghĩa đen, như trong từ điển, và nghĩa bóng, liên kết với những chữ khác, văn cảnh khác. Cần biết việc sử dụng từ ngữ ảnh hưởng rất lớn đến nếp suy nghĩ của một thế hệ, nhiều thế hệ, của một cuộc cách mạng, một quốc gia. Tối tăm hay sáng sủa.

Phép tu từ có thể là khai trí hoặc là thuốc lú bùa mê.

Em về điểm phấn, tô son lại

Ngạo với nhân gian một nụ cười

Thi sĩ Thái Can không chỉ muốn nói về son phấn cụ thể, mà còn nói đến nghĩa bóng của nó, tức là vẻ đẹp bên trong của tâm hồn, của ý chí. Tiếng Việt có nhiều chữ được dùng với nghĩa bóng như thế: nóng tính, không phải nói về nhiệt độ của cơ thể, trả giá, không phải chỉ nói về tiền bạc, lên mây, ý nói sung sướng. Không phải chữ nào cũng được dùng theo nghĩa bóng, và không phải tất cả mọi nghĩa của một chữ đều được sử dụng hết trong một câu thơ.

Trời nóng băm bốn độ

Đèn, sao khắp đế đô

Nam Trân tả cảnh Huế mùa hè. Sợ bạn nghĩ là ông muốn dùng nghĩa bóng, thi sĩ còn cẩn thận chú thích: băm bốn độ. Tuy nhiên khái niệm nghĩa đen hay nghĩa bóng, sự đối lập của chúng, nhiều khi không còn quan trọng trong những văn cảnh khác.

Hoa tặng vừa tàn bông thược dược

Tìm chàng bỗng vắng, bóng chàng xa

Trong hai câu thơ của J. Leiba, bông thược dược có thể là bông hoa thật, nhưng người đọc không quan tâm nhiều lắm, vì hình như có một nghĩa khác đằng sau quan trọng hơn. Bông hoa được sử dụng như một hình ảnh nói về ngày xuân, hạnh phúc, sự ngây thơ. Ngôn ngữ học gọi là phép ẩn dụ.

Các kiến thức về từ nguyên học và về điển tích cũng quan trọng trong việc đọc. Cần làm quen với các phương pháp dùng chữ thiên biến vạn hoá. Lối nói phóng đại hay thậm xưng:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

(Nguyễn Đình Thi)

Như một tác phẩm hội họa. Cách nói hình ảnh này cũng hay gặp trong thơ siêu thực Pháp, thứ Nguyễn Đình Thi chắc có chịu ảnh hưởng.

Việc chọn chữ của một nhà thơ thường có khuynh hướng cá nhân: không phải người nào cũng dùng tất cả các chữ và dùng chúng với mật độ như nhau. Nếu so sánh các từ ngữ trong thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, hay Xuân Diệu và Nguyễn Bính, tức là những người cùng thời, bạn sẽ thấy một số chữ được dùng với tần số xuất hiện cao hơn ở người này và thấp hơn ở người khác. Việc chọn chữ như vậy gọi là từ vựng của mỗi tác giả. Các chữ làm nên một câu văn phạm hay một câu thơ, để mang lại nghĩa cho chúng, theo những quy luật ngữ pháp nhất định. Công việc ấy có thể gọi là cú pháp (syntax). Trong khi tuân theo lề luật riêng của một ngôn ngữ, mỗi bài thơ có thể thiết lập những độ tự do khác nhau, trong việc đem lại ý nghĩa mới cho cú pháp của mình. Việc chọn chữ trong thơ không những có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi nhà thơ mà còn đối với cả một phong trào, một thế hệ, một khuynh hướng thẩm mỹ. Đối với phong trào thơ mới, việc chọn chữ như trong câu thơ sau đây:

Ta mơ trong đời hay trong mộng?

Vùng cúc bên ngoài đọng dưới sương

(Lưu Trọng Lư)

Là không thể có trong thơ Việt trước đó.

Nếu có cái nhìn về lịch sử, chẳng hạn khi so sánh thơ Việt trung đại, thơ mới, thơ hiện nay, chúng ta sẽ thấy ngôn ngữ mới đầu dành cho tầng lớp quan lại quý tộc, về sau dành cho trí thức xuất thân Tây học, và cuối cùng đó là ngôn ngữ dành cho mọi người. Thơ ca ngày trước nói về các điều to lớn, vĩ đại, linh thiêng, thơ ca ngày nay nói về cuộc sống hàng ngày, đôi khi tầm thường.

Ngôn ngữ càng tầm thường, càng nhiều tiếng lóng, thô tục, càng giàu tính hài hước: đó là khởi điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại. Như vậy chữ trong thơ không chỉ dùng để mô tả các ý nghĩa mà còn thể hiện vị trí của nhà thơ và đối tượng độc giả.

5. Hình ảnh trong thơ

Hình ảnh trong thơ là một chữ, một nhóm chữ, ghi lại một tác động giác quan, trong trường hợp này là thị giác, tuy vậy hình ảnh không phải chỉ nói về thị giác, mà có thể gây cảm giác như thể bạn đang chạm tay, ngửi mùi hương, nghe tiếng động, âm nhạc. Hình ảnh biển quê hương đẹp, đứng mãi, tươi vui, nhờ chữ của Huy Cận:

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long

Cái mà người đọc nhận được bằng hình ảnh nhiều hơn chính hình ảnh ấy.

Việc sử dụng chữ trong thơ được điều khiển một cách có ý thức bởi nhà thơ. Một trong những hình ảnh được dùng là sự tương hợp, so sánh, trong đó có hai phương pháp được dùng nhiều: phép so sánh và phép ẩn dụ.

Cả hai đều nhấn mạnh rằng cái này giống cái kia. Phép so sánh chỉ rõ sự so sánh:

Hai ta như sen mùa hạ như cúc mùa thu

Như tháng mười hồng tháng năm nhãn

Em theo chim em đi về tháng tám

Anh theo chim đi về với tháng ba qua.

(Tế Hanh)

Đó là sự so sánh trực tiếp một sự vật (hai ta) với một sự vật (sen mùa hạ, cúc mùa thu), làm không gian trở nên mênh mông. Các câu so sánh thường có chữ như để giúp phân biệt.

 

Trong khi đó:

It pleure dans mon ceour

Comme il pleut sur la ville

(Paul Verlaine)

Là một so sánh ngầm.

Tác giả có cách chơi chữ khó dịch giữa pleure (pleurer) là khóc và pleut (pleuvoir) là mưa.

Mưa khóc trong lòng tôi

Mưa rơi ngoài phố vắng

Ph ối h ợp c ả hai ph ư ơng ph áp, trong một ngôn ngữ khác Tế Hanh v à Verlaine, gấp gáp hơn:

Tôi xa người như xa núi sông

Em bên kia núi- bên kia rừng?

Em bên kia nắng?- bên kia gió?

Tôi một giòng sương lên mênh mông

(Du T ử L ê)

Khi bạn so sánh một vật này với một vật khác là bạn tạo ra mối quan hệ giữa chúng, dịch chuyển từ vật này đến vật khác một số thuộc tính của chúng. Sự dịch chuyển như thế hàm ý so sánh.

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già

Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi

Những câu thơ của Thế Lữ trong bài Nhớ Rừng tả con hổ trong vườn bách thú, làm bạn nghĩ tới một điều gì khác, ngoài con vật ấy: con người, xã hội tù ngục, chế độ độc tài, hoàn cảnh khốn khổ của trí thức, sự bị làm nhục, giấc mơ tự do của tác giả.

Phương pháp so sánh trực tiếp còn được nhiều người, như ở nhiều nhà thơ Pháp, sử dụng như nghệ thuật chính yếu cho một bài thơ.

La Même Voix, Toujours

Je suis comme le pain que tu rompras,

Comme le feu que tu feras, comme l’eau pure

Qui t’accompagnera sur la terre des morts.

Comme l’ecume

Qui a muri pour toi la lumière et le port.

Comme l’oiseau du soir, qui efface les rives,

Comme le vent du soir soudain plus brusque et froid.

(Yves Bonnefoy)

Anh như mẩu bánh mì em bẻ ăn

Như lửa em nhen, như dòng nước mát

Sẽ chảy cùng em trên đất người đã khuất

Anh sẽ vì em như bọt sóng

Tung chín đỏ ráng chiều vùng vịnh

Như chim hoàng hôn xóa mất bãi bờ

Như ngọn gió bất ngờ, thổi gào, lạnh buốt.

Chịu ảnh hưởng các nhà thơ phương Đông, đặc biệt là haiku Nhật Bản và thơ Đường Trung Hoa, nhiều nhà thơ phương Tây sử dụng hình ảnh tiết kiệm, ấn tượng:

The apparition of these faces in the crowd;

Petals on a wet, black bough

Những khuôn mặt bỗng hiện ra trong đám đông

Những nụ bông trên cành cây đen, ướt

(E. Pound, In a Station of the Metro)

Biểu tượng có thể xem là một hình ảnh đặc biệt, một điều gì chúng ta có thể nhìn thấy được nhưng lại mang ý nghĩa đằng sau nó, tượng trưng cho một điều khác, lớn hơn. Ví dụ, ở nước ta, thức ăn chính là cơm gạo, sản phẩm của cây lúa nước. Vì vậy, bát cơm tượng trưng cho sự no đủ. Bữa ăn gọi là bữa cơm, mời tiệc gọi là mời cơm. Cơm trở thành biểu tượng cho nền văn hóa. Tương tự, người da đỏ Bắc Canada có nhiều chữ khác nhau để chỉ tuyết, trong khi tiếng Việt chỉ có một.

Đường Tự Do chạy thẳng

Các anh đi về tuổi đúng hai mươi

(Quách Thoại)

Tên riêng của một con đường ở Sài Gòn trở thành một biểu tượng. Như vậy một chữ để chỉ một hình ảnh, trở thành biểu tượng, khi có chức năng nối kết giữa cái nhìn thấy và cái không nhìn thấy.

Tư tưởng và cảm xúc là hai cột trụ của thơ ca, nhưng đó không phải là những diễn tả trừu tượng mà được thể hiện bằng hình ảnh, ẩn dụ, so sánh, đến lượt các hình ảnh này phải xuất hiện trong một phương cách hợp lý, tự nhiên. Mấy câu thơ của Mary Oliver dày đặc hình ảnh dùng để mô tả một câu hỏi siêu hình:

Is the soul solid, like iron?

Or is it tender and breakable, like

the wings of a moth in the beak of the owl?

Who has it, and who doesn’t?

 

Có phải hồn ta bằng thể rắn, như sắt

Hay mềm, dễ vỡ, tựa hồ

Cánh mối kia trong mỏ chim cú nhọn hoắt

Ai có tâm hồn nhất, và ai không?

Trong khi ngôn ngữ là viên gạch bắt buộc để xây nên bài thơ như một ngôi nhà, thì có những viên gạch khác, tuy không thể chỉ ra cụ thể, lồng trong các chữ. Chữ mang lại thông tin, trong khi hình ảnh chính là hoa của cây, điểm thăng hoa của bài thơ, sự kết tụ cao nhất của thi tứ. Một lần nữa sự thưởng thức đối với hình ảnh trong thơ phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh xã hội, thời kỳ. Có những hình ảnh đứng mãi với thời gian, nhưng có những hình ảnh về sau không còn được yêu chuộng.

6. Giọng điệu trong thơ

Trong lời nói hàng ngày, cùng một câu, chỉ cần thay đổi chất giọng, như khi bạn lên giọng, gắt gỏng, hay khi bạn nói thầm, nghĩa sẽ khác. Giọng điệu của thơ không thể dễ dàng xếp loại. Như bạn đóng một cánh cửa, khi lịch thiệp, lúc giận dữ. Có khi giữa hai thứ đó, bạn gây tiếng ồn đủ để mọi người ngạc nhiên quay lại, nhưng không đến nỗi đóng sầm một cái: đó là hờ hững. 

Tính ích kỷ hay vô tâm cũng hiện ra lúc bạn đóng cửa. 

Tâm hồn cũng có tiếng vang.

Giọng hài hước:

Hỏi ô, ô mất bao giờ

Hỏi em em cứ ỡm ờ không thưa

(Trần Tế Xương)

Nhưng lối nói hài hước hay châm biếm phổ biến nhiều hơn trong thơ tiếng Anh, tiếng Pháp, so với thơ tiếng Việt, có lẽ vì tinh thần u mặc của người phương Tây.

Giọng khinh bạc:

Hớt tóc cạo râu là chuyện nhỏ

Ba ngàn thế giới cũng không to

(Nguyễn Bắc Sơn)

Trầm uất:

Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ

Uống say mà gọi thế nhân ơi

(Nguyễn Bính)

Dịu dàng, yêu thương, nhưng thư thả:

Con mắt ấy vì sao em khép lại
Làn mi kia em thử ngước lên nhìn
Vòng tay đẹp như cành xuân thơ dại
Ngón la đà sao chẳng chịu đưa tin

(Bùi Giáng)

Đọc thơ cũng thế, những bài thơ hay có giọng rõ ràng, hoặc tâm tình, hoặc kêu gọi, hoặc triết lý. Những bài thơ dở có giọng không rõ ràng, như một người nói lắp, hay một kẻ suy nghĩ lẫn lộn, hồ đồ.

Cùng một Tản Đà:

Từ vào thu đến nay,

Gió thu hiu hắt,

Sương thu lạnh,

Trăng thu bạch,

Khói thu xây thành

Lá thu rơi rụng đầy ghềnh,

Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.

Giọng tình tứ, say đắm. Trong khi đó:

Cũng phường dối nước quân ăn cắp,

Cũng lũ tàn dân giống hại dân.

Đúng là lời nguyền rủa, sự khinh miệt đối với giới chức cầm quyền bất tài, tham nhũng, độc ác.

Khi nói đến giọng điệu và thái độ của người nói, chúng ta sẽ đề cập đến một khái niệm khác là ý định. Ý định của một bài thơ có thể tìm thấy dựa trên sự phân tích các đặc điểm của giọng điệu trong bài thơ ấy. Cần chú ý rằng mặc dù có một số nhà thơ có ý định khi sáng tác, ví dụ trong các bài thơ có tính tuyên truyền hay kêu gọi, như trường hợp Phan Bội Châu:

Dậy! Dậy! Dậy!

Bên án một tiếng gà vừa gáy,

Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.

Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng?

Nhà thơ nói với ai? Với thanh niên, đồng bào, với mùa xuân.

Hầu hết các trường hợp khác, khi phân tích một bài thơ bạn thường dẫn đến kết luận ý định của nhà thơ ấy, nhưng thật ra khái niệm ý định có thể gây hiểu lầm tai hại. Ngay cả hiện nay, tôi vẫn ngạc nhiên thỉnh thoảng thấy một nhà thơ hay một nhà phê bình, dẫn giải về các hoàn cảnh sáng tác với ngụ ý rằng đó là ý định căn bản của tác phẩm. Ý định của một tác giả không nhất thiết phải là, và cũng không nên là, thứ chìa khóa vàng để giải thích các giá trị căn bản của một tác phẩm. Ngay cả khi một nhà thơ viết một bài thơ với ý định ban đầu, thì trong khi viết, ý định ấy cũng có thể thay đổi, cũng như một người chuẩn bị xây căn nhà, cuối cùng anh ta có thể xây một căn nhà nhỏ hơn nhưng đẹp hơn hoặc lớn hơn nhưng xấu hơn rất nhiều so với bản vẽ ban đầu.

(Còn tiếp)

Nguyễn Đức Tùng