(Cảm ơn cha, người đã kể cho con nghe câu chuyện về một
người thả diều khi con còn nhỏ)
Vợ lão Siền tỉnh giấc lúc nửa đêm, lấy tay lay nhẹ ông chồng
đô vật, đang kéo gỗ như sấm rền:
- Dậy!
Dậy! Nghe!
- Nghe
gì hử ?
Lão Siền nổi cáu vì mất giấc, ngồi nhổm dậy, nghiêng nghiêng đầu, vểnh tai, rồi thốt lên:
- Không
lẽ!…
- Từ nửa
đêm. Hay bác ấy…còn sống trở về …
- Còn
sống!!! Sống cái cóc khô. Xác đã mang về táng trên Cồn Cao. Bà là một
trong những người đưa bác ấy sang bên kia chứ ai!
- Đận
đó, nó như vậy, chính ông khuyên tôi nói gì đó vô thưởng vô phạt. Tôi cũng
chỉ tố cho có tố thôi!
- Hay
nhỉ!…Tố cho có tố: dây diều rơi ngoắc vào cổ làm bà bị tai nạn, suýt chết!
Lão Siền xuống giường, cứ thế chân đất bước ra sân, đêm mười
sáu cuối hè trăng rất sáng.
Lão nhìn thấy chắt Miêng cũng đang đứng lom khom trước rặng
tre ngà nhà ông ta, ngửa cổ nhìn lên trời. Chính cái tay chắt Miên gác độc này,
lời tố của chắt mới đẩy bác ấy vào tù. Lão tố diều là ám hiệu cho quân địch….
Ngay khoảng đất đầu làng, chỗ người lớn vẫn ngồi hóng gió,
trẻ con chơi nhảy dây, chơi bi, chơi đáo…,năm sáu người làng đã đứng lố nhố ở đấy
chỉ tay lên trời. Lão Siền nhìn theo: Một chiếc diều sáo rất lớn hiện rõ giữa nền
trời xanh lơ, nhấp nháy rất nhiều sao, vởn vơ mấy làn mây trắng mỏng như voan.
Diều sáo đại, sáo trường có lẽ cánh to hơn cả tấm phản lim nhà lý Ngã ngày trước.
Cả đời lão chưa bao giờ thấy.
- Các
cụ ra đây sớm nhỉ? Các cụ cũng không ngủ được à?
- Ai
có thể ngủ. Cả thôn Trung có lẽ đêm nay đều đã tỉnh dậy!Ngủ sao được: tiếng
sáo to như sấm dội, tiếng sáo rền vang trên bầu trời lúc đêm khuya khuắt
yên tĩnh thế này!
- Diều
to quá! Chưa có chiếc diều nào lớn vậy, ngày trước khắp mấy tổng
cũng không có nhỉ? Phải gấp đôi con diều giải nhất huyện ta năm trước!
- Gấp
đôi, nhìn xa như vậy sải cánh phải năm-sáu mét! Sáo hình như không phải ba
sáo mà bốn, năm ống sáo ?
- Âm
thanh vậy là năm sáo, lắng nghe kỹ sẽ thấy có đến năm giọng trầm bổng khác
nhau. Diều và sáo này cả làng, cả tổng chỉ có người đó làm được!
- Cũng
đã sáu năm nay, chúng ta không được nghe tiếng sáo của bác ấy. Nhưng rợn rợn
các ông ạ…Cứ như sáo ma. Cứ như tiếng sáo gọi hồn…ngày ấy…bác… không treo
mình trong trại giam thì hồi sửa sai đã có thể trở về.
- Hồi ấy
– giọng ông Hai nghẹn ngào- tôi đã định lên tiếng minh oan cho bác ấy: làm
gì có chuyện bác ấy phản động, việt gian, bác ấy đâu có ruộng, đất để quy
địa chủ …nhưng vợ tôi cứ kéo áo giật lại. Tại con vợ tôi hèn.
- Chẳng
phải vợ bác hèn. Cả làng này đều hèn. Cả tổng này hèn. Chúng ta sống với bố
bác ấy, bác ấy từ nhỏ đến lớn. Biết quá rõ bác ấy hiền lành, ngay thật. Vậy
mà …
- Tôi
cũng đã trốn buổi tối đó. Nhưng tay Đội cho người đến thúc. Đã quyết không
nói gì …mà cuối cùng bị ép nên phải nói. Chuyện tôi tố vô hại nhưng bao
nhiêu năm qua tôi vẫn dằn vặt vì mình có lỗi.
Rồi cố Tự cứ thế ôm mặt khóc nức nở….
***
Ừ, ngày trước, khắp tổng Hạ Hoàng chỉ có diều sáo Giáo Việt
và Đỏ Đương cạnh tranh ngôi thứ nhất nhì trong các cuộc thi. Và chưa lần nào Đỏ
Đương vượt qua Giáo Việt. Sáu năm trước đó, Đỏ Đương kỳ công chuẩn bị ngay từ
mùa thu, đi khắp vùng tìm bằng được một cây tre đực ưng ý: cao vút, nhưng thân
thon nhỏ, da vàng lựng, đã chừng mấy chục tuổi…Tay Ý chủ vườn khó dễ, trả giá đắt
hơn cây tre cái chục lần vẫn lần khân cà rề, cà rịt mãi, Đỏ Đương phải chấp nhận
đổi ngang bộ quần áo sọoc kaki (ông mua lại của Đội Cai từng đi lính khố đỏ).
Ông chẻ đôi cây tre đực nhấn sâu xuống lớp bùn dưới đáy ao, ngâm qua hết mùa
đông mới vớt lên chế bộ khung diều. Bộ khung ấy ông treo lên gìan bếp hun khói
suốt cả mùa xuân, đến đầu hè mới mang xuống làm Diều. Giấy diều là giấy gió ông
lấy từ mấy cuốn sách thuốc, được hồ bằng nhựa sung, nhựa hồng non, có bão cũng
không bị xé rách.
Năm đó, Đỏ Đương chắc mẩm sẽ giành giải nhất. Ông tự tin hơn
khi so diều trước cuộc thi: diều Giáo Việt sải cánh kém diều ông cả cánh tay
người lớn. Nhưng năm đó, Đỏ Đương vẫn về nhì: Diều Giáo Việt bay cao hơn diều của
ông cả mấy mét, nó đứng im phăng phắc giữa trời, không chênh chao chút nào, nó
hơn diều Đỏ Đương về độ bắt gió, hứng gió…Còn sáo thì: không chỉ Đỏ Đương mà chẳng
tay chơi diều nào ăn đứt được Giáo Việt. Các bô lão trong Ban chấm giải còn nói
điều này làm Đỏ Đương buồn mãi: cả khi cuộc thi ấy diều Đỏ Đương bay cao hơn
Giáo Việt thì họ cũng phải chấm hạng nhất cho Giáo Việt vì Sáo. Mà diều sáo,
sáo còn quan trọng hơn cả diều, sáo là hồn cốt của con diều.
Năm nào, Đỏ Đương cũng tìm cách để đo ướm kích thước sáo,
săm soi cái miệng sáo, săm soi xem Giáo Việt làm ống sáo, miệng sáo bằng vật liệu
gì. Ông chụp bằng mắt với trí nhớ của một thầy thuốc nam, in mọi chi tiết cái
sáo diều vào đầu còn rành rẽ về nó hơn các vị thuốc: ráy gai, ba kích, kim tiền
thảo, mã đề…Nhưng âm thanh sáo Đỏ Đương so với Giáo Việt vẫn một trời một vực.Không
biết sao sáo Giáo Việt tiếng kêu rền vang đến vậy, cứ như sấm động trên trời
cao, mấy sáo nhỏ, cái thì nghe thanh thanh như chuông đồng, cái thì âm thì thầm
như kèn lá, kèn tre của mấy người Mường. Trên cao, lúc có gió nồm, mấy cái sáo
nhỏ hoà âm lẫn nhau da diết như ai đấy đang ngồi trên đám mây kéo đàn bầu, đàn
nhị vậy. Có một bí quyết nữa, làm lão đau đầu, sáo của Giáo Việt to nhưng luôn
nhẹ cân, cả khi mang hai-ba-bốn sáo nhấc bằng tay cũng không nặng hơn ống sáo
đơn bằng ống tre cái của Đỏ Đương. Mà sáo càng nhẹ thì diều mới bay cao, lúc
đâm mới vút thẳng lên nhẹ nhàng được.
Đỏ Đương nhớ như in, lần ông tình cờ gặp lại Giáo Việt sau cải
cách, ấy là lần gặp cuối cùng. Hôm đó, Giáo Việt cùng mấy tù nhân bị giải qua
thôn Hạ xuống nhà tù Thạch Kim ở huyện bên. Đỏ Đương không nhận ra Giáo Việt
khi thấy mấy người đàn ông gầy gò như nhau, tóc bạc trắng như nhau, cùng bị
dong bởi một sợi dây thừng to bằng cổ tay, lê lết trên đường làng giữa trưa
tháng sáu nắng như đổ lửa. Đỏ Đương chỉ nhận ra khi người tù đi cuối quay qua
nhìn ông và nở nụ cười. Cái nụ cười sáng bừng với hàm răng trắng bóng làm lão
nhận ngay ra Giáo Việt, người đàn ông duy nhất không ăn trầu, không hút thuốc
hiếm hoi của tổng Hạ Hoàng.
-Gỗ bấc- người đàn ông nói nhỏ như gió thoảng qua nhưng đủ để
Đỏ Đương nghe được- Ống sáo mảnh gỗ bấc dán keo…Miệng sáo khoét vòng, có lưỡi
gió…
Nếu không sợ bị người ta quy tội, Đỏ Đương đã quỳ xuống vái
theo Giáo Việt trăm vái. Nhưng ông chỉ đứng im bên lối đi, lén chùi nước mắt
đang trào ra, nhìn theo đoàn tù cho đến khi họ khuất bóng cuối cánh đồng.
Đỏ Đương đã đi tìm gỗ bấc khô và làm một bộ sáo đúng như vậy:
sáo nhẹ tênh chỉ nặng bằng một phần tư những ống sáo làm bằng ống tre, mắt gỗ
mít. Đặc biệt, khi ống sáo được ghép lại bằng các thanh gỗ mảnh bằng keo, có thể
làm ống sáo với đường kính to theo ý muốn…Bí quyết đơn gỉan vậy, nhưng cả chục
năm Đỏ Đương không thể tìm ra.
Đỏ Dương đã chờ những cơn gió mạnh mang sáo ra thử, tiếng
kêu không thể sánh với sáo diều của Giáo Việt, nhưng với Đỏ Đương thì chưa khi
nào có sáo tiếng hay như vậy!Ông ngây ngất với tiếng sáo ấy bao ngày…
Nhưng Đỏ Đương đã chất tất cả diều, sáo trong vườn lặng lẽ đốt
sạch, và quyết định không bao giờ chơi sáo diều nữa vào cái ngày ông nghe tin
Giáo Việt treo cổ tự tử trong tù: “ Không còn Giáo Việt thì Đỏ Đương còn chơi
sáo diều với ai!”-Ông nghĩ vậy.
Mấy năm gần đây, xã, huyện tổ chức thi sáo diều, nhiều lần
cho người đến mời ông tham gia, ông đều từ chối: ông bận khám bệnh, bận làm thuốc…
***
Đỏ Đương ngồi bệt xuống bên bờ ruộng. Cánh đồng vừa qua mùa
gặt, đang lúc cày ải nồng hăng mùi vôi, mùi cỏ cháy. Ánh trăng loáng loáng phủ
vàng những tán cây duối, những vòm tre, ánh lên trên mặt nước dưới lạch Trâu Đằm.
Bầu trời đêm sâu thẳm, mông lung đến vô cùng. Cánh Diều màu trắng nhìn từ xa,
nhìn từ thôn Hạ qua như một vầng trăng thứ hai trong đêm treo lơ lửng trên nền
trời đẹp như tranh thuỷ mặc. Đỏ Đương đắm mình trong tiếng sáo ngỡ như dội về từ
cõi thiên thai…
Với Đỏ Đương sáo diều là tuổi thơ, là tuổi trẻ, là tình
yêu…Hồi nhỏ, suốt ngày ông để đầu trần cháy khét lang thang với con diều ngoài
cánh đồng. Bằng những con diều ông đổi được khoai, sắn, chong chóng gió, giỏ ếch
hay thậm chí cả một con chim sáo, chim vẹt…Ông đã gặp được người vợ, một cô gái
xinh đẹp, hát hay ở thôn bên cạnh chính nhờ một lần diều sáo đứt dây bị gió cuốn
đi cả 4 - 5 km, rồi rơi vào ngay vườn của nho Cảo. Con diều bị mắc cứng giữa bụi
tre, chính vợ ông đã thuyết phục nho Cảo cho phép đốn cái bụi tre gai để lấy diều.
Phải Đỏ Đương đã tìm thấy tình yêu và hạnh phúc nhờ sáo diều.
Còn lúc này, giữa đêm khuya khoắt này, Đỏ Đương đang nghển cổ
nhìn lên trời xanh.Không lẽ Giáo Việt còn sống trở về? Tiếng sáo ấy chỉ có thể
là sáo diều của Giáo Việt! Không có ai trong tổng Hạ Hoàng, cũng như mấy vùng
lân cận này có sáo diều như vậy! Thứ âm thanh ấy, cứ làm lòng người chênh chao,
bay bổng, phiêu diêu…nhưlượn cùng mây, cùng gió.
- Đêm
qua, tôi không ngủ được !
- Vậy.
Ông tuởng chúng tôi ngủ ngon à- đội trưởng Thuận giọng xách mé- Nói cho
ông biết cả thôn sáng nay hơn chục người không ra đồng. Theo tôi biết hơn
chục người ấy đêm qua kéo nhau ra đầu thôn xem diều. Nếu cứ thế này, mai sẽ
có thêm nhiều người không ăn không ngủ được !
Chắt Miêng thò tay nhón thuốc trên bàn nước,vo viên, cho vào
nõ điếu:
- Các
ông gọi tôi lên có việc gì ?
- Cái
nỏ của ông vẫn còn chứ ?
- Còn
!
- Ông
biết phải dùng làm gì rồi!
Chắt Miêng rít một hơi, buông điếu:
- Tôi
đã đi điều tra. Dây diều hình như…được buộc ngay nóc nhà của Giáo Việt.
Cái nhà đó từ khi bà giáo mang con về bên ngoại để hoang không ai ở.
- Tôi
và chú Sơn đây cũng biết rõ vậy. Sau khi sửa sai, bà giáo về nhận lại nhà
vườn. Vườn cho ông chú Xuân trồng trọt, nhà thì cửa đóng then cài gửi chú
Xuân trông nom rồi đưa con về bên ngoại. Nhưng không thể đến nhà đó bảo họ
hạ con diều xuống. Không ai cấm thả diều. Tháng trước chúng ta vừa tổ chức
thi thả diều còn gì! Này, vậy ông đã điều tra được ai thả diều chưa?
- Chịu.
Ông Xuân bảo ông ấy không thả. Mà xưa nay, tay ấy chỉ chăm chăm làm ruộng
có văn hoá văn gừng gì đâu. Buộc cái dây lèo diều cũng không xong nói gì
chuyện thả diều. Hỏi con cái nhà Việt có ai về không thì quanh đấy đều bảo
không. Họ chưa bao giờ quay lại sau đận sửa sai…
- Cứ
như ma làm!- Tay kế toán nãy giờ im lặng,lên tiếng- Đúng, anh Thuận nói
đúng, thả diều là quyền tự do của mọi người, không ai cấm nên không thể đến
đấy yêu cầu họ hạ diều xuống.
- Các
anh có mấy khẩu súng trường. Chỉ cần ngắm. Pằng một phát!
- Ông
điên à. Pằng một phát cho cả thôn này biết! Cả huyện này biết. Mà bên ngoại
bà Việt toàn người làm trên tỉnh, ngoài trung ương đấy! Chỉ có cây nỏ của
ông. Không tiếng động. Cánh diều rách là xong. Chơi diều gió xé rách giấy
dán diều là chuyện bình thường- đội trưởng quay qua kế toán nháy mắt- tính
cho ông luôn mười công đấy. Tạch một phát mười công.
***
- Mười
công. Các ông tưởng mười công là béo lắm à. Mỗi công chỉ hai lượng thóc.Mười
công hai ký thóc …chẳng bõ. Mà tội tình gì là trút lên đầu thằng mõ này!-
Chắt Miêng lẩm bẩm khi rời đền Trù– Mà… cao hơn trăm mét dễ gì bắn trúng!
Uống hai cốc rượu trắng đầy tràn nên lão có chút hơi men.
Lão bước đi chệnh choạng dưới ánh trăng mười bảy đang sáng dần. Ở trên cao kia,
hình như gió lộng hơn, nên sáo diều càng rền rứ hơn, thứ âm thanh đó như khoan
vào tim lão.
Về đến nhà, chắt Miêng đi vào buồng lấy cây nỏ treo trên tường
và cái túi đựng tên ra. Lão kiểm tra vẫn còn 5 mũi tên đầu bọc sắt. Đấy là những
mũi tên quý của lão, nó thẳng, tròn vìn, không lệch một ly nên khi thoát ra từ
rãnh nỏ sẽ bay vun vút thẳng băng theo hướng ngắm. Đi săn lão chỉ dùng tên mũi
bọc sắt khi chắc chắn nó sẽ hạ gục con mồi, có nghĩa là chắc chắn thu hồi mũi
tên lại được. Nếu không, lão sẽ bắn bằng mũi tên tre có đầu chuốt nhọn. Lão lau
sạch bụi trên cây nỏ. Báng nỏ bằng gỗ lim ánh lên màu đen nhánh như được sơn
bóng. Sức lão đã yếu hơn mấy năm trước nhưng vẫn đủ để kéo dây nỏ một hơi.Cây nỏ
này có tuổi dài hơn đời lão, đời cha lão, khi cây nỏ đến tay lão cái dây đã lên
màu đen và bóng mịn như chính màu gỗ lim của báng nỏ, trơn bóng như luôn được
thoa mỡ.Cha lão nói rằng nó được làm bằng da của của một con cáo rừng, một con
cáo già, được thợ da thuộc, ngâm hoá chất theo đúng một quy trình hết sức đặc
biệt nên sẽ dai và bền cả trăm năm.
Lão găm một chiếc lá khô lên tường nhằm bắn từ xa. Vẫn mười
phát trúng hồng tâm, không trượt ra ngoài dù đã mấy năm nay chắt Miêng không đụng
đến nỏ.
- Ông
định đi bắn chim?
Tiếng vợ lão cất lên the thé sau lưng. Hoá ra mụ ta đã rình
mò ngay khi lão về nhà.
- Bắn
chim thì sao?
- Người
ta phóng sinh chim để lấy phúc. Cha con ông đi bắn chim! Nghề này không
khá đâu ông ạ. Ba đời nhà ông không ngóc đầu lên được là do bắn chim đấy.
Vứt cái nỏ đi để phúc cho con cháu!
Lão ngán cái giọng cấm cản của con mụ Đồng Môn. Chắt Miêng vẫn
luôn gọi vợ bằng cái tên làng của vợ- cái làng mà theo lão đàn bà toàn thứ điêu
toa, lắm mồn. Khi khác thì lão đã quát ầm lên. Thậm chí xông tới vả cho mụ vợ mấy
vả rụng cả quai hàm. Nhưng hôm nay, lão không nói gì lặng lặng cất cây nỏ rồi
vào bếp ngồi xuống mâm cơm. Nhà lão luôn ăn tối bên bếp lửa đun rơm khét lẹt,
khói tuôn như hun muỗi để tiết kiệm tiền dầu.
- Hôm
nay, cả thôn đồn ầm lên bác Việt về…
Vợ lão cuối cùng vẫn lên tiếng. Cái chuyện mà lão biết mụ ta
đã cố nhịn mãi từ chiều.
- Về.
Ai về?
- Bác
Việt ….À , không phải bác Việt mà cái diều sáo bác ấy về…
- Nói
chuyện tào lao. Cái diều sáo có chân chắc. Người ta thả diều chứ về nỗi
gì!
Lão đặt kịch chén cơm ăn dở xuống cái mâm gỗ. Không còn tâm
trạng để nuốt. Lão bỏ lên giường nằm. Lão tính sẽ trở dậy lúc 4h00 sáng, theo
quy luật vào tháng sáu, cuối hè, khoảng thời gian ấy gió trước cánh đồng Vường
sẽ nhẹ nhất, con diều sáo sà xuống bay thấp nhất. Đấy là cơ hội của lão.
- Ông
Miêng! Ông Miêng! Hoá ra ông vẫn đang ngủ!
- Có
chuyện gì?
- Chuyện
gì! Chuyện gì à? Sáng nay hơn ba chục người không ra đồng- Tay kế toán chỉ
chỉ ngón tay lên trời.
- Cả
đêm qua tôi phải căng lại dây nỏ. Đến sáng mới xong.Mệt quá nên…Qua đêm
nay, gần sáng, tôi sẽ tạch…
- Ông
phải tạch trước kẻng đi làm nhé! Phải tạch! Đội trưởng nhắn tăng lên cho
ông ba mươi công. Tạch một cái bằng người khác cắm mặt trên đồng cả tháng!
Lão Miêng bịt lại tai bằng cục bông keo rồi vào bếp tìm đồ
ăn sáng. Vợ con lão đã ra đồng từ sớm, để lại cho lão mấy củ khoai. Lão ăn
xong, lại lên giường ngủ tiếp. Trong đời lão vẫn thích nhất những ngày mưa, những
ngày đông giá, nếu không có việc gì làm lão có thể ngủ một mạch triền miên từ sáng
đến tối.
***
Cỡ đụn dịn, cả làng Hạ bừng tỉnh, xôn xao. Tiếng sáo diều bỗng
biến mất. Nhiều người ngửa cổ lên trời tìm kiếm nhưng tịnh không thấy bóng diều
sáo đâu.
Đội trưởng Thuận với kế toán Sơn khấp khởi mừng: Có lẽ chắt
Miêng đã ra tay sớm chăng. Nhưng khi cả hai chạy tới gần nhà Giáo Việt thì nhận
ra hoàn toàn không có chuyện đó vì nếu chắt Miêng ra tay sẽ nhìn thấy sợi dây
diều trên mặt đất giăng từ nhà Giáo Việt đến nơi con diều cánh bị rách rơi xuống.
Nhưng đi đủ một vòng quanh ngôi nhà bỏ hoang của Giáo Việt không thấy tăm tích
sợi dây diều!?
Hầu như cả làng, ngoại trừ lão chắt Miêng vẫn đang say giấc,
đều kéo nhau ra đồng. Họ gọi nhau đi kiếm con Diều bị đứt dây rơi đâu đó trên
cánh đồng hoặc trong vườn nhà nào đấy.
- Không
thể có chuyện con diều đứt dây! - Lão Siền khẳng định- Không thể đứt,
rơi…Nếu bị đứt dây, bị rơi …thì sau khi không còn nghe tiếng sáo, nhìn lên
trời vẫn sẽ thấy con diều đứt dây bị gió cuốn bay chứ!
- Tôi
cũng nghĩ vậy! Biến mất! Đúng là biến mất- Cố Tự tiếp lời – Sáu anh em chúng
tôi ngồi đầu làng ngắm diều, chơi cờ, vậy mà vừa cúi xuống xem cu Ngao chụp
con mã, nghe tiếng sáo vụt tắt, ngước lên nhìn không còn thấy diều đâu! Vậy,
mà trước đó, nó luôn treo mé trên đầu …
- Lạ
thật! Biến mất lạ lùng như khi xuất hiện!
- Như
ma ám!
- Chưa
có chuyện nào kỳ dị như vậy!
Gần như lớn, bé, trừ mấy đứa trẻ ẵm ngửa lùng sục trong các
khu vườn, rồi kéo nhau ra đồng, tràn qua cả làng bên, để tìm con diều. Tiếng
chó sủa, tiếng la lối, tiếng gọi nhau rộn lên như những khi làng có hội, có đám
cháy. Họ săm soi từng đám cỏ, từng lùm cây, từng ngôi nhà…nhưng không thấy dấu
vết một đoạn dây diều nào, không thấy con diều. Quá nửa đêm, mọi người đều đã mệt,
chân cẳng rã rời, không còn chút hy vọng mới kéo nhau về. Nhiều nhóm vẫn không
ngủ được, vẫn túm tụm tiếp tục ngồi bàn tán với nhau về con diều, về Giáo Việt…
Bên thôn Hạ, Đỏ Đương đang thái thuốc thì
nghe sáo diều bặt tiếng. Ông chạy ra cánh đồng nhìn về thôn Trung: cái vì trăng
màu trắng đã biến mất trên nền trời xanh lơ. Biến mất bí hiểm. Đỏ Đương thấy
đám đông thôn Trung và nhiều người thôn Hạ kêu nhau tìm kiếm con diều bị đứt
dây. Nhưng ông cứ đứng vậy, lặng lẽ, ngước nhìn lên bầu trời đêm mà không tham
gia cùng mọi người. Là người chơi diều ông biết: không, không có chuyện diều đứt
dây, hay ai đó hạ con diều sáo xuống. Một con diều sáo khi bị đứt dây, hay hạ
diều, tiếng sáo không tắt ngay đột ngột, sáo sẽ đổi tiếng và vẫn còn ngân, vẫn
còn ngân lên như bị lạc giọng, như một giọng ca bị nghẹt mũi, cho đến khi cánh
diều rơi chạm đất.
***
Lão chắt Miêng tỉnh
dậy lúc khoảng 3h30’ sáng, đầu canh năm. Nhờ hai tai bịt chặt nên lão đã có thể
ngủ say nhưng cũng vì vậy lão hoàn toàn không hay biết gì mọi chuyện xảy ra đêm
qua trong làng, không hay biết chuyện con diều sáo đã biến mất từ đầu hôm… Lão
xuống bếp ăn phần cơm vợ con để dành cho bữa tối, uống một cốc rượu trắng rót đầy
theo cữ mọi ngày.
Lão rót thêm một
cốc đầy nữa, với tay cầm lấy cái nỏ và túi đựng tên rồi ra ngồi bệt trước hiên
nhà. Lão thường hay ngồi một lúc như vây trước hiên khi có việc đi xa, khi quyết
định một việc gì hệ trọng. Đi xa với lão chỉ là qua làng bên mua mấy con gà,
mua con lợn giống, đi qua Đỏ Đương thôn Hạ cắt mấy thang thuốc dạ dày, xương khớp,
hay qua cúng giỗ bên ngoại…Lão ít khi dậy sớm trước canh năm. Lão nhớ chỉ có thời
bình dân học vụ, các ông bà trong xóm phải tập hợp sớm ở sân chùa đốt đuốc học
chữ i..tờ…để tan buổi học kịp vác cày ra đồng trước khi trời sáng. Dịp đó Giáo
Việt phải đi thúc từng nhà, thường đến nhà chắt Miêng là nhà cuối cùng để kèm
lão đi học. Vừa đi vừa ôn lại mấy chữ cái học hôm trước. Cũng nhờ cái lớp học
bình dân của Giáo Việt,chắt Miêng mới biết đọc biết viết…Có một việc, cả cái
thôn Trung này chẳng ai biết, sau khi Giáo Việt cải táng, một buổi sáng cũng sớm
như thế này, lão đã biện một mâm cơm mang lên Cồn Cao quỳ trước mộ Giáo Việt.
Hôm ấy, lần đầu tiên trong đời, con người khô như đá là lão khóc sụt sùi như một
đứa trẻ…
Cốc rượu đã cạn đáy, lão đưa
lên dốc ngược và vẩy vẩy xem còn giọt nào không trước khi bỏ cái cốc xuống. Lão
ngồi trầm ngâm, hai tay cứ vặn xoắn các ngón vào nhau. Rồi lão bật dậy, cầm cây
nỏ lên dùng hết sức cố bẻ gãy cái cánh nỏ…Nhưng cái cánh nỏ làm bằng sừng trâu
quá bền dai, đàn hồi, lão có gập lại cũng không gãy. Mà lấy hết sức lão cũng
không thể gập được. Lão quay qua, tìm cách giật đứt dây nỏ. Lão vận công, căng
cứng bắp cơ tay, thở hồng hộc như thổi bễ nhưng không thể dứt đứt được. Loay
hoay mãi, cuối cùng, lão phải đi tìm cái búa chẻ củi. Cũng phải băm ba bốn nhát
dây nỏ mới đứt lìa…
Lão treo cây nỏ với cái dây bị
đứt lòng thòng ngay dưới giàn mướp trước nhà, ở cái chỗ mà người ta đứng từ ngõ
nhìn vào nhà lão là đã thấy, con vợ Đồng Môn sáng ra sẽ bị dâynỏđập ngay vào đầu
khi vác cuốc ra đồng…
Lão ra khỏi ngõ, cứ nhằm hướng
Đồng Vường lầm lũi đi. Vấp phải đống phân nhão nhoẹt, ai đó đổ bên đường để bón
ải, lão ngã sấp mặt. Đứng dậy, lão đưa tay phủi đám đất lẫn phân bò lép nhẹp
dính trên mặt, tóc và lão đụng tay vào hai cục bông- keo bịt chặt hai tai từ mấy
ngày qua. Lão móc hai cục bông- keo ra khỏi tai, vứt ra xa…Âm thanh bỗng à ùa
vào tai lão: tiếng gà gáy sáng, mấy con gáy to nhất là từ nhà cố Tự, mấy con giọng
le te là gà đá của lão cu Siền. Lão nghe tiếng gió vi vu trên mấy cây phi lao
và tiếng của lũ chim đủ giọng, nhộn nhạo chào đón ngày mới của chúng…Lão quá
rành rẽ tiếng chim. Về cung bậc tiếng chim tai lão có lẽ còn tin hơn tai mấy nhạc
công với nốt nhạc. Trong đời mình, nhiều khi, lão tưởng đã hiểu, đã nói được
ngôn ngữ lũ hai cánh này: tiếng gù gù của mấy con cu gáy, tiếng lích chích của
lũ chim sâu, tiếng gọi bầy nhói lòng vọng từ vườn này qua vườn khác của con tu
hú, tiếng loét choét đáng ghét của đám chào mào...Buổi sáng nay, vọng lại tai
chắt Miêng đủ thứ âm thanh hỗn độn ấy, nhưng…rõ nhất, dội từ đâu đó trên trời
cao xuống, rền vang tiếng sáo diều. Chưa bao giờ, lão nghe tiếng sáo diều rõ
như vậy.
Lão ngửa mặt lên trời không thấy diều đâu. Trời đang quang
mây, xanh lơ, mãi phía đằng đông lởn vởn mấy làn mây trắng. Nhưng thật lạ lùng,
lão quét mắt hết cả vòm trời vẫn không thấy diều. Chỉ có tiếng sáo rõ mồn một
ngay trên đầu lão, nghe đâu đó ở phía trướclão…
Lão cứ ngửa mặt lên trời và cứ thế đi về phía đồng Vường…
Chú thích : 1- Chắt, cu : (khẩu ngữ)
dùng kèm danh từ gọi người đàn ông nông thôn sinh con gái, con trai đầu ở Bắc
Trung Bộ.
2- Đỏ: (khẩu ngữ) dùng kèm danh từ gọi người đàn ông sinh con gái đầu ở một số
vùng, trong truyện Đỏ Đương, Giáo Việt được gọi như một tên riêng nên viết hoa.
3- Đụn dịn: Cách tính thời gian ở nông thôn xưa, lúc đống trấu hun mỗi cháy gần hết.