Thuở đó anh ngoài hai mươi tuổi. Buổi chiều mùa xuân chạy xe
Honda từ Xuân Lộc về Sài gòn, sau khi đi thăm một người em ở đó, gặp mưa mau sấm
chớp. Mưa trái mùa, xuất hiện khi đã vào mùa khô là do bão xa, gây mưa kéo dài
hai ba ngày.
- Đoạn đường miền Đông có nhiều khúc thật đẹp, bạn nhớ không?
- Nhưng mà khúc nào mới được chớ?
- Vừa ra khỏi Xuân Lộc, theo quốc lộ một, mình gặp rừng đất đỏ bạt ngàn cao su,
trước khi đổ vào Hố nai, dọc đường hàng quán núp trong rừng cây, mà những cái
quán ấy thú vị, bán nước dừa, cà phê, khách ngồi đu đưa trên võng mà uống.
Hồi ấy buôn cà phê bị bắt nhưng dân bán lẻ đủ sức cung cấp nhu cầu, ai đó sáng
chế cà phê vợt, uống cũng được, trộn với bắp rang, cả nước đói khổ có thứ nước
màu nâu sẫm bốc mùi thơm đã may lắm, đòi gì nữa? Anh chạy xe một hồi tóc bay mù
bụi đỏ thì trời đổ mưa, mưa đột ngột đến nỗi không chạy kịp sẽ ướt từ đầu đến
chân. Chớp loằng ngoằng. Anh tấp vội vào lề, rú ga vọt qua khoảng sân cao, tối,
bùn nhão, gần như phóng thẳng vào thềm nhà người ta.
Nhà vắng, không ra quán xá không ra nhà ở, trước hiên rêu lấm tấm nhưng bên
trong coi sạch sẽ, một ngọn đèn dầu le lói trên bàn sáng âm u như đom đóm. Tiếng
con tắc kè kêu ngoài cửa.
Anh đứng thế một lúc, nhìn quanh, hồi hộp tò mò lên tiếng hai lần không có ai
trả lời. Lạ, anh tự nhủ, cẩn thận đi ra phía sau nhác thấy ảng nước, cái chạn
thức ăn, cái bàn nhỏ, những đồ đạc lặt vặt. Một người từ sau cánh cửa nhẹ nhàng
đi đến trước mặt, một cô gái cao khuôn mặt sáng lên trong tối, rõ ràng cô ta
nhìn thấy anh từ lâu nhưng kín đáo quan sát. Anh lên tiếng trước ngỏ lời muốn
trú mưa. Nhìn bộ điệu, tóc ướt, chiếc xe, cô gái tin ngay chỉ hỏi bâng quơ vài
chuyện, cô mời anh ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, đi lại phía cái bếp đã tắt lửa
nhưng than còn đỏ trong tro tàn, cô lấy cái que sắt cời ra một lúc thì lửa lại
đỏ rực.
- Tụi em vừa ăn tối xong một lúc. Cô gái nói, có lẽ vì không khí quá im lặng.
- Tôi chưa ăn gì, đợi lát về Sài gòn, anh cũng vui miệng đáp.
Tụi em? Vậy là nhiều người. Cô gái bảo anh đây là cơ quan của tổng công ty cao
su, cô giải thích nhiều chi tiết nhưng sau này anh chỉ nhớ là bộ phận kỹ thuật
gì đó của công ty cao su, họ hay di chuyển thỉnh thoảng mới đến đây, hình như
cô là một kỹ thuật viên hay kế toán viên. Những người khác đi đâu cả? Họ ăn
xong đều đi chơi bài đâu đó để mình cô ở lại, gọi là trực cơ quan.
Mưa mỗi lúc một to, anh nhìn trước nhìn sau chẳng có gì khác, thấy ngại liền ra
nhà trước chơi với chiếc xe, chiếc xe ướt bùn đất đỏ, anh mượn cô gái một cái
giẻ lau, cô đưa một cái khăn cũ nhưng lành lặn, thấy anh ngần ngại cô bảo cứ
lau em sẽ giặt. Khi cô quay đi anh thấy đó là một thiếu nữ mặn mòi, tóc cô quấn
lên thành búi có cây bút chì xuyên qua, lông mày dài mặt lấm tấm mụn tàn nhang,
lưng đầy đặn. Anh cắm cúi lau chiếc xe của mình, nhìn ngắm nó một cách âu yếm.
Không phải dân chơi xe, anh chỉ thương xe cộ từ xe đạp hồi nhỏ đến xe gắn máy rồi
xe hơi sau này, coi chúng không chỉ là phương tiện đi lại mà như người bạn đường.
Càng lau, chiếc xe Honda đen 67 càng bóng lộn lên ra vẻ mĩ miều duyên dáng, anh
thích hình dạng chiếc xe này lắm, cứng cáp mà vẫn thanh nhã, máy chạy bền, do
gài số chân nên vượt dốc mạnh không bị trượt bánh. Đang đứng ngẩn ngơ thì cô
gái tới gần ra dấu mời anh xuống nhà dưới. Thì ra cô đã dọn sẵn trên bàn nhỏ một
bữa ăn tối giản dị, không có gì, một nồi cơm nguội hâm lại trên bếp lửa, dĩa cá
kho nhỏ xíu bằng nửa bàn tay, bát canh mướp lơ thơ. Đang đói bụng anh chẳng
khách sáo gì ngồi ngay vào bàn sau khi cám ơn qua loa. Anh ăn một mạch thấy
ngon đáo để chẳng biết vì thức ăn ngon hay vì đói bụng. Ăn xong, thức ăn chỉ có
bấy nhiêu, chứ thực ra anh có thể ăn nhiều hơn nữa, anh mới bắt đầu ngạc nhiên,
càng suy nghĩ càng ngạc nhiên. Ở đâu ra một bữa ăn thế này? Mà cô ta chẳng hỏi
ý mình gì cả, biết đâu mình từ chối. Từ chối? có họa thằng điên. Phụ nữ hay do
dự, có những lúc ngập ngừng e thẹn, nhưng một khi đã quả quyết vì một nguyên
nhân gì đó thì họ quả quyết hơn nam giới. Bạn có nghĩ thế?
Mưa bắt đầu tạnh, hai người trò chuyện thêm một lúc. Anh mang chén bát ra bến rửa
nhưng cô gái giành lấy, để em rửa cho, về nhà kẻo tối, anh để ý cô tự xưng là
em nhưng tránh gọi anh. Rồi cô quay đi. Thì vừa lúc ấy anh nghe thấy chúng. Tiếng
líu lo khiến cho hồn người ta lâng lâng, chúng bay ra từ mái hiên núp mưa, bay
dáo dác, đảo mắt nghiêng ngó một hồi. Mới đầu một vài con rồi chập sau cả đàn
én bay ra đuôi chẻ đôi hình mũi tên chao tới chao lui như giục giã như mời mọc.
Ôi chao những con chim én đã về, trên những nhành cây nẩy chồi đâm lộc dưới những
mái ngói rêu cũ xập xòe liệng qua liệng lại khiến cho người nào có chút tâm sự
đều đâm ra bồi hồi. Ai người một cảnh hai quê mà không tưởng chúng bay về từ Nhạn
môn quan? Chim trống bay về trước làm tổ dưới mái hiên vắng vẻ, làm tổ xong mới
hót líu lo mời bạn tình. Con mái chọn bạn bằng cách nhìn đường bay lượn của con
trống và nhìn lông đuôi của chúng, lông đuôi càng dài càng được yêu thích. Nghe
nói én có mười hai lông đuôi tất cả, chỉ có mười hai cái lông vũ mà tạo ra biết
bao kiểu lượn huyền ảo.
Trời sắp tối, mưa tạnh, nhưng mây đen dày đặc có lẽ sẽ mưa trở lại, dạo này xe
cam nhông đường trường chạy nhiều, xe chở gỗ lậu từ Định Quán về, chở trà từ Bảo
Lộc, chở vải vóc từ miền trung qua Lao Bảo, chúng chạy ẩu có xe hất trúng người
vẫn chạy thẳng nên anh phải ra đường sớm. Cuộc trò chuyện không ngắn ngủi lắm
nhưng cũng không lâu, trên đường về anh ngẫm nghĩ thấy cái nhà không ra cơ quan
không ra nhà dân, là lạ. Đội công tác kỹ thuật của công ty cao su chỉ để lại một
người, bữa ăn tối đạm bạc nhưng gọn gàng. Cô bé cao dong dỏng, có cái mũi thanh
tú nụ cười hồn nhiên nhưng mắt nhìn ý tứ, cởi mở mà nghiêm. Chắc chắn trong câu
chuyện anh đã kịp hỏi tên cô, và trên đường về hôm ấy chạy giữa hai hàng cây
cao su anh đã nghĩ đến cái tên ấy vài lần.
Thế sao anh lại quên?
Tệ thật. Không phải khi nào người ta cũng nghĩ tới một người khác. Anh quá bận
việc và thuở ấy mới vào đời có bao nhiêu là dịp làm quen, mà mình thì cứ tưởng
trên đời có bao nhiêu là người mới đang chờ mình ở sau khúc đường kia rồi bạn
thấy nó kéo ra mãi mà thực ra chẳng có khúc đường nào cả, hay có khi sau một
khúc quanh thật anh chỉ gặp mỗi một cái cột đèn xi măng khô khốc. Rồi anh không
nhớ gì về nó nữa, cái khúc đường kia. Nhiều tháng sau có dịp đi qua Xuân Lộc để
ý coi lượt đi không nhận ra đâu cả, khi về thì thấy được nó từ xa. Té ra đó là
một cái nhà gạch khá lớn có lẽ người chủ đã đi đâu vắng, ra nước ngoài chẳng hạn,
con cháu không còn ai thấy hoang phế tiêu điều, lần ấy anh đi luôn vì trời sắp
tối mặc dù không mưa. Một lần nọ có dịp thong thả hơn, lái xe vào hẳn trong đó,
nhưng gặp những người khác cả nam lẫn nữ, làm một thứ công việc gì khác mặc dù
cùng công ty cao su, mặt mày lạnh nhạt vẻ nghi ngờ, hỏi cũng có người biết cô
gái nhưng họ không biết rõ lắm. Có một người nhớ, nói rằng cô ấy đã chuyển đơn
vị, làm việc đâu đó gần Sài Gòn. Vào lúc ấy có lẽ anh vẫn nhớ tên cô, mới hỏi cặn
kẽ vậy.
Anh thấy tiêng tiếc. Bỏ lỡ cơ hội. Rồi thôi.
Có lần anh thoáng thấy trong chợ An đông một cô đứng sau lưng người đàn bà bán
vải mập mạp, có lẽ mẹ cô ta. Cô gái gầy và cao tóc vấn lên sau gáy từ xa anh chắc
chắn đó là người mình đã gặp, hấp tấp chạy lại. Hóa ra không phải, cô này bụng
bầu đã năm sáu tháng, người cũng cao nhưng chiếc mũi hơi to da trắng, nhưng gò
má không lấm tấm tàn nhang. Đặc biệt là giọng nói, giọng nói như thế thì chỉ một
người như thế mới nói, không thể bắt chước, anh quên rằng chẳng có giọng nói của
ai mà người khác bắt chước được. Tóc cô này cũng vấn cao nhưng không có cây bút
chì gài ngang ngẫu hứng như thế. Lại cây bút chì, nó làm phiền anh khá lâu. Một
năm sau lần đầu tiên anh nhận ra rằng mình nghĩ về cô gái, không phải như người
nhân viên cao su ấy, mà nghĩ về cô ta như là nàng. Nàng như Thu trong Bướm Trắng
của Nhất Linh. Anh mỉm cười.
Rồi vài năm sau nữa lúc anh làm thông dịch viên trong trại tị nạn, công việc
còn là giúp việc chuẩn bị hồ sơ của Cao uỷ Liên hiệp quốc cho các phái đoàn xem
xét. Một số phái đoàn phỏng vấn thuyền nhân trực tiếp, một số chịu làm việc
chung với cao ủy. Công việc của nhóm anh lúc bấy giờ là thuyết phục các nước nhận
người. Người vượt biển đang tới tấp vào trại. Thế mà trong một lần phỏng vấn
anh gặp đúng người đàn bà ấy. Lạ thật. Anh nhận ra cô ngay, trước khi cúi xuống
đọc kỹ cái tên trên giấy. Lần này thì anh biết cả họ và tên cô và chữ lót. Cô
không phải là thiếu nữ. Vì trên tay cô đã bồng một đứa con trai nhỏ lên hai hay
ba tuổi, một đứa bé kháu khỉnh miệng mỉm cười với bất cứ ai nhìn nó. Thì ra cô
đã lập gia đình, có con, gặp ông chồng nhậu nhẹt cờ bạc, hôn nhân tan vỡ, và bồng
con lên đường vượt biển, để trôi xuôi cuộc đời trong dòng người ào ạt tìm đường
ra đi hồi đó. Anh đột nhiên nhớ lại cảm giác nửa hưng phấn nửa cay đắng mà hồi
trước không nhận ra, tình cảm ấm áp đối với một thiếu nữ tử tế đã cho mình ăn một
bữa tối trong góc nhà kín đáo, khi mưa đổ như thác sau hè, cái chu đáo và tinh
tế của nàng, cảm giác nghi ngại hồi đó của anh đối với những cơ quan có vẻ bí ẩn,
có lẽ vì thế mà anh không có nhiều hứng quay trở lại chốn cũ nữa. Không đi đến
cùng cuộc tìm kiếm, anh nghĩ.
Ngồi trong phòng chờ phỏng vấn, người phụ nữ tỏ ra bồn chồn sợ sệt, cũng như tất
cả những người mới đến khác, anh đọc qua tiểu sử tự khai của nàng, người phụ nữ
rõ ràng không để ý đến anh, không nhớ gì cả, có lẽ vì cô quá lo lắng. Trước mặt
phái đoàn, anh lặng lẽ làm công việc của người thông dịch, chuẩn bị giấy tờ
trong phòng ánh điện hơi tù mù chạy bằng máy phát điện nhỏ, ngoài trời lại mưa
làm anh nhớ ngọn đèn trong căn nhà gạch lọt thỏm trong rừng cao su Xuân lộc. Ngọn
đèn ấy, đôi mắt ấy. Anh kín đáo để ý xem có thể giúp đỡ được gì cho người phụ nữ
với đứa con mọn. Cô tỏ ra không biết anh. Anh biết Hoa kỳ và một số phái đoàn
phương Tây hỏi rất khó đối với người làm công chức. Hôm ấy nhóm của anh may mắn
vì gặp Tân Tây Lan, dễ hơn. Họ cố thuyết phục các đệ tam quốc gia nhận người,
không chú ý nhiều đến yếu tố chính trị mà chỉ cứu vớt nhân đạo. Cuộc phỏng vấn
hỗn hợp trôi qua khá êm ả, trừ một lúc được hỏi về thời gian làm việc nhà nước,
cô không biết tả công việc của mình ra sao, lúng túng đưa mắt nhìn anh, tia mắt
ấy đối với anh không có gì đặc biệt, chỉ là sự xin giúp đỡ. Nhân viên phái
đoàn, một người đàn ông da trắng râu quai nón rậm nói tiếng Anh giọng rất khó
nghe, bắt anh dịch đi dịch lại mấy chữ cán bộ kỹ thuật của cô nhiều lần. Mãi đến
khi xong, Tân Tây Lan đã đóng dấu tiếp nhận vào hồ sơ, khi mọi người đã ra khỏi
phòng, đến giữa sân, còn anh thì đứng dừng lại ở cửa, kín đáo thở phào, thì cô
mới quay người lại.
Một tay bồng con bước hẳn qua cái khoảng sân nhỏ, trở lại trước mặt anh, cám
ơn. Anh khẽ gật đầu, mỉm cười. Trước khi đi, ngừng một lát nữa, cô nói thêm, giọng
nhỏ như hơi thở nhưng điềm tĩnh.
- Em nhớ anh.
Cô nói thế. Chỉ ba chữ đó thôi.
Anh giật mình. Mà nhớ là nhớ thế nào? Trong tiếng Việt nhớ nghĩa là nhớ lại,
như bạn nhớ lại một sự kiện. Tôi nhớ ngày xưa cô là người bán xôi cho tôi trước
thương xá Tax. Em nhớ tuổi của ông, song tử hay song nam, tuổi con khỉ hay con
mèo. Đó là ký ức. Nhưng có một thứ nhớ khác, không phải sự kiện, không khô khan
như vậy, nó dằng dặc, nằm vắt vẻo từ bên này qua bên kia cuộc đời bạn.
Bây giờ anh ngồi đây, trong cái quán cà phê bún mộc nhỏ xíu này, trong một ngôi
nhà gạch cũ ở ngã ba một đường về Sài Gòn một về Biên Hòa một về Xuân Lộc, ngọn
đèn lơ lửng trên trần nhà. Cơn mưa lớn ấy, mùi đất xông lên, ánh sáng cuối cùng
của một ngày, cái bàn ăn xếp gọn gàng một góc, cái khung cảnh ấy bỗng làm anh
nhớ lại, nhớ một ngày anh đã để trôi tuột đi, cánh rừng tuổi trẻ đã mịt mờ lăng
lắc. Bỗng nhiên trong một khe hở thời gian rất nhỏ ở đó anh không có một trách
nhiệm gì với ai trong cái chớp sáng đó, anh nhớ lại họ của cô. Họ, nhưng quên
tên, quên chữ lót. Một người đã nhớ mình mà mình không nhớ, hay khi mình nhớ lại
thì người ta đã quên. Có lẽ những lần gặp ấy nội dung của chúng lớn quá, át mất
tên gọi chăng, cũng như một đời sống phong phú quá bạn mê làm việc bận vui chơi
mãi dan díu khiến cho bạn quên, cái chết sắp đến rồi mà bạn không biết. Khi nó
tới, bạn ngẩn người: ủa, ông bạn tới rồi hồi nào kìa?
Được gặp ngoài đời như thế hình như người nào trong chúng ta cũng có một đôi lần,
có người giữa rừng cao su mưa lớn, nhưng nhiều khi không có rừng có mưa có cao
su gì ráo trọi, ngay giữa chợ cá Cầu muối nóng bức, chợ trời Tây lộc bụi bặm,
trên hè đường Tự do ở Sài Gòn, bên bờ Hồ Tây, trên bến đò cũ hay có khi chẳng
lãng mạn thế, một cái cầm tay qua hàng rào dâm bụt đỏ, cái va chạm vô tình lúc
bạn mười lăm tuổi ở bên giếng phông tên đầu phố đầy người nhộn nhạo, một kẻ nhoẻn
miệng cười rồi thì trăng lên chiếu sáng, làm mấy con én giật mình kêu ríu rít,
rồi một bầy chim vù ra chao qua liệng lại như trêu cợt, lát sau bay biệt dạng.
Anh nhớ cái họ của cô, chỉ thế thôi, sau bao nhiêu năm, tên và chữ lót thì chịu.
Họ Vương. Anh nhớ rõ. Nhưng chắc không phải cái cô đánh rơi trâm cài tóc bên
hàng rào mùa xuân thuở nọ. Như loài chim kia, hay đùa cợt lượn qua lượn lại trước
mặt mà không cách gì anh bắt được chúng một lần để đếm xem ở cái đuôi cong vút
kia có phải là có mười hai chiếc lông vũ không, hay mười một. Mà biết đâu loài
chim én mùa xuân trống và mái bay tưng bừng đuổi nhau ngoài mái hiên ngày nọ mới
thực là ký ức của anh, một chốn quê hương đã xa mới là nỗi u hoài thực sự, chứ
đâu phải các nhân vật đi lại nói cười trong đó.
Nguyễn Đức Tùng