Hai người lên tới đỉnh núi lúc trời vừa nhá nhem tối. Gã
thanh niên vạm vỡ đứng ôm bụng thở dốc, mồ hôi chẩy trên mặt như nước mưa. Người
đồng hành, một ông già râu tóc bạc phơ, y phục, dáng vẻ như một đạo sĩ, đứng
ung dung ngắm cảnh, nhàn hạ như vừa uống xong một tuần trà.
Gã thanh niên nhìn vách núi dựng đứng, chân núi thăm thẳm,
mất hút trong mây mù, nói hổn hển :
- Con sợ thầy thực. Leo núi suốt từ sáng mà không biết mệt. Không biết bao giờ con mới tập luyện được như vậy.
Lão trượng vuốt râu, cả cười :
-Cần nhất là đừng sốt ruột. Phải tập
luyện mỗi ngày, nhưng không tìm cách đốt giai đoạn. Một ông tướng nổi danh nói
với binh sĩ : hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đẩy.
Khi mệt thì nghỉ. Ta ngủ đây đêm
nay.
Gã thanh niên lục trong cái túi cồng kềnh y vẫn đeo sau lưng
ra một cái lều vải, lúi húi dựng lều. Ông già không cần lều; vẫn ngủ
ngoài trời, lấy cỏ làm nệm, phiến đá làm gối. Sương, gió, nóng lạnh, ngoại
vật không ảnh hưởng gì tới ông, muỗi không đốt, hay ông không cảm thấy muỗi đốt.
Đằng sau rặng núi trước mặt, mặt trời từ từ
lặn. Cả một vùng trời muôn mầu tô rực rỡ núi rừng cây cỏ. Ông già trầm
ngâm :
-Hồi trẻ, thầy mất hàng chục năm học
vẽ, mơ thành họa sĩ ; nhưng thấy mình bất lực, không diễn tả nổi cái đẹp của
thiên nhiên, cái nhiệm màu của đời sống, thầy bỏ vẽ. Mỗi lần đứng trước cảnh đẹp
như thế này, vẫn thấy đôi chút thất vọng.
Gã thanh niên cảm động trước lời tâm sự của ông già ;
bình thường là một người lạc quan, yêu đời, biết thưởng thức từng giây phút của
đời sống. Tưới một bông hoa, tỉa một cành lan, ngắm mấy con cá vàng tung tăng
trong bể cá, đọc một trang sách, đón nắng hanh vàng đầu hè hay se se người trước
cơn gió lành lạnh cuối thu, mỗi hành động nhỏ bé, tầm thường, đối với ông là một
nguồn hạnh phúc.
Ông vẫn nói với học trò đừng chạy đuổi, tìm kiếm hạnh
phúc ; nó ở trong ta, nó ở
trước mặt, trong mỗi cử chỉ, trong từng hơi thở. Càng chạy
càng mệt, càng đuổi theo càng mất.
Gã thanh niên đốt lửa, sửa soạn bữa ăn tối, đúng ra là để
pha trà, vì bữa cơm rất
đơn giản: cả hai đều ăn chay trường, đã gói sẵn trong túi vải.
Một con nai ngơ ngác từ trong bụi cây bước ra, dương đôi mắt
to, đen láy, nhìn ngọn lửa, nhìn ông già, nhìn gã thanh niên, dò dẫm, rồi đi lại,
nằm dưới chân lão trượng.
Ông già vẫn nói con vật, ngay cả những con dữ tợn nhất, nếu
nó cảm thấy mình vô hại, cảm thấy cái từ tâm của kẻ đối diện, đương nhiên nó trở
thành thân thiện. Và cái từ tâm, nếu chân thực, nó toát ra tự nhiên như một
hương thơm, như một hơi thở, ngay cả thú vật cây cỏ cũng cảm nhận được. Cây cỏ
không biết, nhưng gã thanh niên đã thấy, nhiều lần, những con cọp, báo, gấu nằm
cạnh ông già, ngoan ngoãn như những con mèo con.
Sau bữa cơm thanh đạm, gã thanh niên đưng dậy, vươn vai, đi
vài đường quyền.
Ông già nhìn, hài lòng, thấy đường võ của học trò đã điêu
luyện, nhất là đã uyển chuyển, không còn cái cứng rắn, cái cố gắng phô diễn sức
mạnh của tuổi trẻ. Gã thanh niên, đã biết quên cái bản năng háo thắng,
cái bản năng muốn chinh phục, muốn đè bẹp đối phương, y đã quên thân thể mình.
Y đã quên cái tôi. Ông vẫn nói đường võ phải đi nhẹ nhàng, như không muốn xô đẩy
không gian chung quanh. Phải biết kính trọng cái quân bình ở trong ta
cũng như trong vạn vật.
Gã thanh niên, sau nửa giờ tập luyện, ngồi nghỉ trên bờ vực.
Trăng đã lên tới đỉnh đầu, sáng vằng vặc. Núi đồi cây cỏ tràn ngập những trăng
là trăng. Sâu dưới chân vưc là một con sông uốn éo như con rắn, chan hoà
ánh trăng. Một hai chiếc thuyền neo bên bờ sông, nhỏ bé xinh xắn như những chiếc
thuyền giấy của trẻ con. Gã thanh niên cất tiếng ngâm :
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó
Có
chở trăng về kịp tối nay?
Lão trượng đang nửa tỉnh, nửa thức, ngạc nhiên, hỏi :
-Con biết tiếng Việt?
-Thầy quên con là một chuyên viên về
cổ ngữ ?
Ông già cả cười :
-Quả thực, nhiều lúc thầy quên con
đã trưởng thành, đã là một học giả có tên tuổi.
Thời gian đi nhanh quá, vùn vụt.Trong đầu ông già, gã học
trò vẫn còn là một chú nhỏ chạy lăng quăng trong sân nhà, hay ngủ gà ngủ gật giữa
những buổi học kéo dài trong cái nóng nực của trưa hè. Mới như hôm qua, cái buổi
sáng người ta trao cho ông một hài nhi còn đỏ hỏn ai đem bỏ trước cổng nhà từ
lúc trời còn chập choạng tối.
Một lần trong một thư viện lớn, ông thấy một nhóm sinh viên
chúi đầu nghiên cứu,
trên bàn cả một đống sách dầy cộm mang tên tác giả là người
học trò thân yêu của mình. Ông vừa kiêu hãnh, vừa xúc động, vừa bàng hoàng, ý
thức rằng đứa học trò nhỏ ngày nay đã dần dần vuột khỏi tay mình, đã
thành một học giả có uy tín.
Ông già nói :
-Câu thơ đẹp quá, nhất là trong cái
đêm trăng như đêm nay.
Bắt chước học trò, ông lên tiếng ngâm, giọng sang sảng :
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hoàng hôn nắng mới lên
Vườn ai mượt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió lên lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chờ trăng về kịp tối nay…
Và tiếp :
-Hôi nhỏ, có lần thầy ghé thăm cái
thành phố ngày xưa tên là Huế, thăm thôn Vỹ. Nhưng Huế không còn là Huế, thôn Vỹ
không còn là thôn Vỹ của Hàn Mặc Tử. Vườn ai mượt quá xanh như ngọc đã
trở thành những cao ốc kệch cỡm, những cơ sở sản xuất giầy dép, siêu thị của
người Tàu. Những cô thiếu nữ trong chiếc áo dài lả lướt ngày xưa đã trở thành
những bà vợ Tàu, vợ Đai Hàn. Huế bây giờ mang một cái tên Tàu, giống như những
thành phố khác của cái nước ngày xưa gọi là Việt nam. Nơi mình đang đứng, có lẽ
ít ai nhớ ngày xưa gọi là đèo Ải Vân.
Gã thanh niên trầm ngâm :
-Trước Hàn Mặc Tử hàng trăm
năm, hàng ngàn năm, đã có những người nông dân Việt làm những câu ca dao
tuyệt đẹp : Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Ông già mỉm cười :
-Người nông dân bất cứ nước
nào, làm ruông chỉ mong cho đươc viêc, cho chóng xong. Cái anh nông dân Việt
nam, cực khổ trăm chiều, không được ngày hai bát cơm, anh ta vẫn không quên
mình là thi sĩ. Cái thắc mắc của anh ta chắc chắn không có một anh nông dân nào
trên thế giới bận tâm : sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
-Con nghiên cứu đã nhiều,
không thấy người nông dân nước nào có cái tâm hồn ấy. Ngoài ca dao, người dân
Việt còn một hình thức diễn tả rất tài tình là tục ngữ.
-Nước nào chẳng có tục ngữ. Đó
là cái túi khôn của người dân, những quan sát, những nhận xét về đời sống ghi lại
từ đời này qua đời kia.
-Tuc ngữ Việt có hai điểm đặc
biệt không đâu có: nó đầy hình ảnh và bao giờ cũng đầy khôi hài tính. Bao giờ
cũng là những nhận xét về xã hội hết sức tinh tế, diễn tả bằng những hình ảnh
ngộ nghĩnh: như đỉa phải vôi, theo voi ăn bã mía, nằm chờ sung rụng, ăn cơm
nhà vác ngà voi, cá nằm trên thớt, gái ngồi phải cọc, lệnh ông không bằng cồng
bà, nắm thằng có tóc ai nắm thằng trọc đầu…Những tác phẩm lớn thường có hai
đặc điểm : đầy hình ảnh và khôi hài tính. Ngoài tư tưởng, cố nhiên. Hình ảnh của
những nhân vật truyện Kiều: Thoát trông nhờn nhợt mầu da. Người sao cao lớn
đẫy đà làm sao. Không có văn chương Anh nếu không có cái khôi hài đen.
Trong văn chương Pháp, ngay cả ở Proust, nhà văn khó nhai vì rất tỉ mỉ dài
dòng, vẫn có cái khôi hài kín đáo khiến Proust là Proust. Những bài hát của
Jacques Brel, bên cạnh cái xúc động, bao giờ cũng có cái gì tếu tếu. Thơ không
có hình ảnh là vè, văn không có hình ảnh là những bản báo cáo hành chánh, những
biên bản của thừa phát lại.
Ông già gật gù :
-Người Pháp nói: lời nói bay đi,
hình ảnh lưu lại. Les paroles
passent, les images restent.
-Những
người làm nghề quảng cáo thương mại, làm marketing đều biết: một cái spot
thành công phải có hai điều kiện: hình ảnh đập vào mắt, bám vào óc và một
nét khôi hài khiến người ta mỉm cười. Và tất cả, trong một spot dài 30
giây. Những người nông dân Việt nam đã hiểu điều đó trước mọi người. Không có
gì gơi hình và tếu hơn cái cảnh một anh đi vác ngà cho con voi để nói đến một
người làm chuyện vô bổ, lo chuyện cho thiên hạ, hay cái cảnh một anh nằm dưới gốc
sung chờ sung rụng để nói về một người lười biếng. Tất cả tục ngữ Việt nam đều
như thế. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng kiếm được một câu nói lên
cái cảnh ngộ của mình, những nhận xét, phê phán về người, về vật: cá mè một
lứa, cá lớn nuốt cá bé, nó lú chú nó khôn, trứng đòi khôn hơn vit, theo đóm ăn
tàn, ăn cỗ đi trước lội nước đi sau, đánh võ miệng, ếch ngồi đáy giếng,
cha ăn mặn con khát nước, con nhà lính tính nhà quan Chỉ trong vài chữ,
cả một nhân sinh quan trong một cuốn phim hoạt họa linh động, têu tếu.
-
Ít lời nhiều ý là một đặc tính của Á Đông. Thơ haiku của Nhật…
Gã thanh niên
cãi:
-Thơ
haiku xúc tich, it lời nhiều ý, nhưng nghèo về hình ảnh và không có chất
khôi hài, không có nét châm biếm. Người Nhật ít cười cợt. Cái khôi hài, cái đầu
óc đầy hình ảnh của người bình dân Việt nam thật hóm hỉnh, thât bất ngờ, thật
lý thú. Và thật hữu hiệu. Không có gì hữu hiệu hơn khả năng khôi hài. Những người
có tiếng là đào hoa đều đồng ý: một người đàn bà mỉm cười là một người đàn bà
đã bị chinh phục một nửa.
Ông già lợi dụng
cơ hội đề cập một đề tài vẫn lẩn quẩn trong đầu :
-Nói
tới đàn bà, thầy vẫn tự hỏi: bao giờ con nghĩ đến chuyện gia thất. Phải nhớ là
thời gian qua nhanh.
Gã thanh niên hơi
lúng túng :
-Con
chưa kiếm ra người hợp ý. Có lẽ con không có cái khiếu làm cho phái đẹp mỉm cười.
Chợt nhận ra vẻ
ưu tư của ông già, y trấn an :
-Thầy
đừng lo, chuyện phải đến thế nào cũng đến. Thầy vừa khuyên hãy đi từ từ.
Ông già không ngờ
cái thuyết đi từ từ quay về ngực mình như một cái boomerang, bèn
trở lại đề tài bỏ dở, thoải mái hơn là chuyện đàn bà:
-Tai
sao một dân tộc như vậy lại biến mất trên bản đồ thế giới ?
-Theo
con nghĩ, vận mệnh của một dân tộc, cũng như vân mệnh của một cá nhân, không
bao giờ là chuyện ngẫu nhiên. Cái may rủi đối với một cá nhân, cái tình cờ của
lich sử đối với một dân tộc là một dữ kiện quan trọng, nhưng không bao giờ là một
dữ kiện quyết định. Cái hưng vong của một quốc gia là do dân tộc ấy tạo ra.
Không có chuyện tình cờ. Nói theo đức Phật, có cái nhân và cái quả.
Ông già không phải
là một học giả, lại ít tìm hiểu về đề tài đang bàn, nhưng ông vẫn nghe nói
người Việt nam có nhiều đức tính: hiếu học, cần mẫn, chịu khó ,tháo vát, và,
như gã hoc trò ông vừa nói, dân tộc ấy nhìn đời với nụ cười thường trực trên
môi, nụ cười khiến họ chịu đựng nổi trăm ngàn khó khăn, thử thách. Nụ cười ấy
chứng tỏ một nhân sinh quan rất quân bình, ít dân tộc nào đạt
đươc.
Ông cũng nghe nói
đến cái hy sinh vô bờ bến của người mẹ, người vợ Việt nam, cái chịu đựng gian
khổ không giới hạn của người dân Việt. Tại sao dân tộc ấy không có một đời sống
mà họ đáng được hưởng? Tại sao dân tộc ấy đi đến chỗ giải thể?
Sương bắt đầu xuống,
lạnh hai bờ vai. Gã thanh niên chất thêm củi, nướng một trái bắp non; mùi bắp
thơm thoang thoảng trong cái thanh tịnh của đêm trăng. Con nai đã ngủ vùi, đầu
gối trên đùi ông già.
Ông già nói, độ
lượng :
-Dân
tộc nào cũng có cái tốt, cái xấu. Cái tốt cái xấu trộn lẫn nhau, tạo ra cá tính
của một cá nhân, một cộng đồng. Phải là thánh nhân mới không có thói xấu.
Và không có gì buồn tẻ hơn là những ông thánh.
-Có
những tính xấu vô hại, có tính xấu đưa đến nạn diệt vong. Cái tính xấu ghê rợn
của người Việt là cái thói chia rẽ, đố kị nhau. Mỗi người Viêt như tìm thấy cái
vui trong cái thất bại của người đồng hương, cảm thấy cái thú trong viêc
phá phách công cuộc chung. Trong y học, người ta nói đến trường hợp những người
có khuynh hướng tự huỷ, autodestruction, chỉ tìm thấy lẽ sống trong việc
tự huỷ hoại mình. Không lẽ có một dân tộc có khuynh hướng tự huỷ? Một nhu cầu tự
sát tập thể? Như một đàn cá voi rủ nhau tự sát trên bãi biển? Cái quốc tính lạ
kỳ ấy ăn sâu vào mỗi người VN, ngay cả ở tầng lớp trí thức, nhất là ở tầng lớp
trí thức. Học vấn giáo dục không ảnh hưởng gì đến tư cách của họ, như nước đổ đầu
vịt (gã thanh niên mỉm cười: nước đổ đầu vịt là một câu tục ngữ Việt). Một
quốc gia làm sao tồn tại được với một giới trí thức bệnh hoạn như vậy.
-
Không phải chỉ có người Việt có cái thói phá nhau. Chẳng có người Pháp nào đồng
ý với người Pháp nào về một vấn đề gì. Ngay cả người Do thái, chính họ tự nhận:
cứ có hai người Do thái ngồi với nhau lÀ có ba ý kiến …
-Bất
đồng ý kiến không phải là điều xấu. Tranh luận đưa tới tiến bộ. Người VN ngồi với
nhau không phải để tranh luận, nhưng để phá nhau. Không một hội đoàn Việt nam
nào tồn tại vài tháng. Không có một nhóm người Việt nào làm ăn với nhau được
vài năm. Ngay cả những người có cùng một lý tưởng, thiện chí cùng mình, những
người cơm nhà ngà voi, ngồi với nhau ba bẩy 21 ngày là cái bản năng tự hủy
ấy đùng đùng kéo đến. Abdel Nasser nói: tôi rất buồn khi thấy một người Ả rạp
nói xấu một người Ả Rạp khác. Nếu ông ta là người Việt nam, Nasser sẽ phiền muộn
dài dài. Đập phá nhau là một môn thể thao quốc gia của người Việt, toàn dân
tích cực tham dự và hăng say tập luyện; như basket ball với người Mỹ, football
với ngưới Ba tây, sumo với người Nhật, taekwondo với người Cao
ly.
Ông già chống chế :
-Nhiều
sách báo nói đến tính bao dung của người Việt nam, ngay cả với kẻ
thù.
Gã thanh niên gậm
trái bắp nướng, ăn ngon lành. Y không mời ông già, biết ông già chỉ ăn một ngày
hai lần: giữa trưa và tám giờ tối. Và cứ ba ngày là một ngày không ăn một hạt
cơm, « để cho thân thể nghỉ ngơi »
-Thầy
nói đúng. Đó là một dân tộc rất đại lượng, rất bao dung đối với người ngoại chủng,
ngay cả đối với kẻ thù. Nươc Việt một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm
nô lệ giặc Tây, nhưng khi một ông tướng Tầu chết, họ quên thù oán,l ập
đền thờ (nghĩa tử là nghĩa tận). Khi chiến tranh Việt Pháp chấm dứt, họ
hết lòng thân thiện với người Pháp, tiếp đón kẻ thù hôm trước như anh em. Không
thấy ai đi lùng giết những lính lê dương muốn ở lại. Không thấy có người Việt
nào hươi đao chém cổ một người lính Mỹ trước máy truyền hình. Không thấy có người
Việt nào ngồi hạch tội người Nhật về những tội ác chiến tranh như bên
Tàu. Ông tổng thống nước Mỹ, đi tới nước nào cũng bị la ó, phản đối rầm rộ,
không dám thò đầu ra ngoài đường, đến Việt nam dân chúng hồ hởi đổ ra đường
chào đón như đi trảy hội. Cả dân miền Bắc, những người đã lãnh hàng triệu trái
bom Mỹ trên đầu, lẫn dân miền Nam, những người đã bị Hoa kỳ bỏ rơi không
thương tiếc.
Ông già mỉm cười,
lạc quan :
-Đó
là dấu hiệu một triết lý sống rất cao. Vứt bỏ oán thù, Chúa hay Phật cũng không
dạy gì khác
-Phiền
một nỗi là là những người đại lương như vậy với người ngoại quốc lại đối
xử với nhau một
cách cực kỳ tàn tệ, cưc kỳ dã man. Cạn tầu ráo máng. (Lại một câu tục ngữ
Việt, gã thanh niên lẩm bẩm). Kẻ thắng hành hạ kẻ bại như những con vật. Tôi nhốt
anh để anh khỏi lộn xộn, nhưng tôi hành hạ, nhục mạ anh, không phải vì anh là kẻ
cựu thù, mà vì anh là chỗ đồng bào, anh em ruột thịt.
Ngọn lửa lách
tách nổ, thơm mùi gỗ thông cháy. Gã thanh niên pha một tách trà, đưa mời ông
già. Ông già nhấp một ngụm, hơi nhau mày, nói :
-Nhớ
bọc gói trà cho kỹ. Cái giống trà ngon nó khó tính lắm. Hơi ẩm một giọt mưa,
hơi một ngọn gió là nó giở chứng ngay
Gã thanh niên
không quên câu truyện đang bàn, như đã lâu lắm y mới có dịp đề cập một đề
tài vẫn luẩn quẩn trong đầu y:
-Con
suy nghĩ hoài, không tìm đươc nguyên nhân cái mâu thuẫn lạ kỳ ấy. Tại sao một
dân tôc đại lượng như vậy lại thù ghét nhau đến như thế? Tại sao những con cá
voi rủ nhau tự sát trên bãi biển?
Về những con cá
voi, ông già đành ngọng, nhưng về cái dân tộc kỳ quặc nọ, ông liều một
cách giải thích:
-Có
lẽ đó là hậu quả của những cuộc chiến tranh triền miên. Chiến tranh hủy hoại tất
cả, hủy hoại cả tình người. Lại thêm chính sách chia để trị của kẻ thống trị.
Biết bao nhiêu dân tộc, dưới những thử thách một trăm lần ít cay nghiêt hơn, đã
biến mất trên bản đồ thế giới. Người Tầu, trong một ngàn năm đô hộ, đã tìm mọi
cách chia để trị. Người Pháp khuyến khích dân Việt hút thuốc phiện, chia nước
Việt ra thành ba nước, bày ra một trăm thứ ngạch trật, phẩm hàm vốn đã cực kỳ
nhiêu khê, biến mỗi người Việt thành một ông quan, sẵn sàng căm hờn nhau, sẵn
sàng giết nhau vì một cái danh hão, một miếng thịt chia không đều. Bỏ được
một tệ trạng đâu phải dễ. Hãy nhìn những nước Hồi giáo với những hủ tục
truyền lại từ 14 thế kỷ.
Gã thanh niên ngần
ngừ: y ít có thói quen cãi lý với ông thầy mà y kính trọng.
Ông già cảm tháy
cái ngần ngừ của gã học trò :
-Nhưng?
-Nhưng
người Việt nam là những người có khả năng thích ứng rất nhanh, những tục lệ cũ,
nhuộm răng đen, tục đa thê vv.. chỉ vài mươi năm đã biến mất. Nhóm Tư Lực Văn
Đoàn đả kích các tệ trạng xã hội An nam, cũng chỉ ít năm sau vấn đề họ nêu ra
không còn là thời sự nữa. Thầy có nhớ cái bài thơ của Nguyễn Bính : Hôm
qua em đi tỉnh về. Đợi em ở mãi con đê đầu làng ..
Cái gì chứ thơ
thì không ai địch nổi ông già. Ông có trí nhớ của một thiếu niên 18 tuổi. Ông đọc
vanh vách:
Khăn
nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo
dài khuy bấm em làm khổ tôi
Nào
đâu cái yếm lụa sồi
Cái
dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân
Nào
đâu cái áo tứ thân
Cái
khăn mỏ quạ cái quần nái đen ?
Gã thanh niên ngắt
lời, trong khi ông già còn cao hứng :
-Con
cháu ông Nguyễn Bính, chắc đã rất bỡ ngỡ trước cái thời trang lạ kỳ của những
người chỉ cách họ môt thế hệ. Và nếu con cháu nhà thơ có bồ khăn nhung quần
lĩnh rộn ràng, chắc họ cũng khổ tâm lắm, nhưng không phải khổ tâm vì cô bạn
quá tân thời mà vì quá quê mùa, cổ hủ. Những người Việt di tản ra nước ngoài chỉ
vài năm đã hội nhập với đời sống mới. Họ biết cải tiến rất nhanh, nhưng nhất
quyết giữ lại cái quốc tính kia. Cái thói thù ghét nhau, cái thói vọng ngoại đã
có từ rất lâu. Đoc sử Việt nam, không biết bao nhiêu những cuôc huynh đệ tương
tàn, mỗi lần chiến trận ngã ngũ, thế nào ở trang sau cũng có cái màn cả bên
thua lẫn bên thắng chạy ra nước ngoài cầu cống. Cái anh phó thường dân Việt
nam, không ai hỏi ý kiến anh ta.
Ông già:
-Dù
sao dân tộc ấy đã đương đầu với ngoại xâm hàng ngàn năm, tại sao bị giải thể
đầu thế kỷ 21?
-Nước
Tầu ngày xưa là một cường quốc thưc dân, nhưng trong nước cũng chia năm xẻ bẩy,
thập loạn sứ quân, khó giữ vĩnh viễn một thuộc địa. Sang thế kỷ 21, Trung Hoa
trở thành một trong hai nước mạnh nhất thế giới, cả về kinh tế lẫn ảnh hưởng
chính trị. Một đại cường thống nhất, vươn lên như vũ bão. Hàng hoá Tàu tràn ngập
thị trường, họ làm chủ về mặt kinh tế. Về văn hoá, sách vở Tàu tràn ngâp, trên
truyền hình quốc gia chỉ có phim ảnh Tầu. Đàn bà, con gái VN bị gả bán cho người
Tàu để tìm đường sống. Nhân công Việt Nam, nổi tiếng là chịu khó và không đòi hỏi
gì, đi tha phương cầu thực, làm nô lệ ở những nước phát triển hơn. Trung quốc cần
dầu lửa, cần thị trường, cần nhiên liệu, ngang nhiên chiếm một vài hòn đảo.
Không ai phản ứng gì, hay phản ứng đại khái, họ lấn thêm vài cây số biên giới.
Dần dần, họ chiếm
trọn Việt Nam nhẹ nhàng như trở bàn tay.
-Thế giới không
phản ứng gì?
-Khi Trung Quốc
còn là một nước nghèo đói, không ai ho he gì khi họ chiếm Tây tạng; ai
dám lên tiếng khi họ đã trở thành một đại cường ?
-Còn
người Việt?
-Họ
còn mải chơi môn thể thao quốc gia.
Ông già vươn vai,
ngả đầu trên phiến đá, nói với gã học trò, ôn tồn như một lời an ủi:
-Khuya
rồi. Ráng ngủ một giấc. Mai phải đi sớm. Thiên hạ chờ mình đúng ngọ.
Ông già nói xong,
nhắm mắt, ngủ, dễ dàng, ngon lành như một hài nhi. Gã thanh
niên biết là sáng
hôm sau ông sẽ thức dậy đúng sáu giờ. Muốn dậy giờ nào, ông già
không cần báo thức.
Ông chí lẩm nhẩm vài lần trong đầu là sáng hôm sau nhỏm dậy
đúng giờ, như một
cái máy.
Gã thanh niên nằm
thao thức, không ngủ được. Trăng sáng, chan hoà, phí phạm, lai láng ngập đất trời.
Y không khỏi nghĩ đến cái anh nông dân thi sĩ. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ
đi. Câu thơ đẹp quá. Tâm hồn anh nông dân đẹp quá. Một tâm hồn đẹp như vậy
không thể tàn rụi. Cái anh nông dân ấy, từ bốn ngàn năm nay anh ta vẫn sống chết
bám lấy đất nước. Y muốn tin rằng cái anh nông dân ấy không biến mất, anh ta vẫn
lẩn quẩn đâu đó dưới kia. Một ngày nào, anh ta sẽ trở về, xây dựng lại quê
hương rách nát, đi tìm đón về những cô thiếu nữ bị bán ra ngoại quốc, đổ mồ hôi
để tưới cho xanh lại ruộng đồng.
Y chợp mắt, mơ
màng, tưởng như nghe thấy –lẫn với tiếng dế kêu, tiếng gió xào xạc trên ngọn
cây –tiếng bước chân ai từ dưới thung lũng vọng lên. Tiếng chân của ai rậm
rịch lên đường.