Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi
xem những tấm ảnh mầu đám cưới gửi từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn album, thì
nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân
là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in
hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng
bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm.
Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công việc của
tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương cho nhân viên, giữ
sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ
túi, v.v. Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao
giờ làm ca đêm.
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không
ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu
chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:
“Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của
cô đã tử trận.”
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:
“Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin
rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá Trần Quý
Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”
Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao
của cha, mẹ và gia đình.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7,
năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm,
ban Pháp Văn và đã đi dậy được 1 năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động
Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú,
vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng
6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà
Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà,
làm sao được.
Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái
về dậy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng
10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi
công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan
tài.
“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy
bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để
giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân
bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ sộc sệch lá quốc kỳ,
mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một
vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy
mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu nát, tóc bơ phờ,
mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà
cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một
bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu
chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra
một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau
thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ
không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không
còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho
tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm
với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô
con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.
“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp
trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống
hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên
trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc
thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu,
có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn
mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi
theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không
còn cảm giác nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm
lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì
đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo “Đúng là
Cung rồi.”
Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở
sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một
giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm
sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng
cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy
tôi còn may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bầy đứng cạnh
áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng
nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và
quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên
đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì
không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia
binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy
con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra
ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt
mũi có vẻ khang khác với nhưng người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến
chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng
trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một
cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường
tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân.
Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi,
và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ
thế nào cũng gặp, họ bảo nhau.
“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi
tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có 3
người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo
xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng
ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ
lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ?
Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang
máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa
con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở
Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả
tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dậy học
tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không
ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê
đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn
vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất
chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con
di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ.
Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả
ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm,
lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với
bà ,cô còn may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được
máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm
hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống
làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần
khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong
khi đó thì các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm
qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân
Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim
cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra
vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ
tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác sơ đứng cạnh không cần phải hóa trang
hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh
như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ
như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao
mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?
Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện
Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất
chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang
Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một
lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà ,thì phải
ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một
vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Ho nhìn tôi, nhìn quan tài như
xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ
quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ
anh ta.
Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng cũng bỏ
đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống,
cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở lại tìm cho anh một nơi
cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh
con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước
không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống.
Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước.
Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của
mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không
hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt
tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên
cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên
bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi
cũng đến.
*
Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà
thờ Tân Định.
Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của
Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi Họ, tên, ngày
sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt
chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những
ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao
giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những
ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối
bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng
kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô
độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm
nhìn như trước khi tôi đến.
Trần Mộng Tú
Bình Thuỷ, 30-07-1969
Tân Định, tháng 11-1998