1
Phi cơ hạ cánh xuống phi trường Anchorage (Alaska) vào hồi
mười giờ. Khí lạnh lâng lâng nơi đây là một cái gì phi thời gian, siêu không
gian! Trên chuyến bay trở về Việt Nam, Chương quyết định dừng lại nơi đây hai mươi
bốn tiếng. Đã từng thưởng thức cái nóng lục địa Nevada, Chương muốn thưởng thức
thêm cái lạnh miền kế cận Bắc cực này. Đây cũng là một cá tính đặc biệt của
Chương: ưa tận tình thưởng thức những đối cực!
Còn thêm hình ảnh những dấu chân cát xóa nữa chứ!
Những dấu chân cát xóa! Chẳng hiểu vì sao tự nhiên hình ảnh
và ý nghĩ về những dấu chân cát xóa lại chợt đến ám ảnh chàng vào lúc này! Cũng
là một cách ùa nhập vào hư vô chứ sao! Ùa nhập vào hư vô, không phải để chạy trốn
mà để hóa giải mọi nóng bỏng, mọi bất quân bình của thế thái nhân tình!
Chương qua đêm êm ả trong một phòng khách sạn do hãng máy
bay đã giữ chỗ trước cho. Chẳng có gì để thưởng ngoạn ngoài màu tuyết mênh mông
trắng xóa nơi này.
Hôm sau, Chương tới phi trường một giờ sớm
hơn giờ phi cơ tới. Chàng thở ra màu mây xà cừ. Bỗng trước mắt chàng, qua màu
mây xà cừ xuất hiện một thiếu phụ thì phải. Nàng có mang – dáng nàng hơi đẫy mà
không thô, đặc biệt khuôn mặt nàng có nét đẹp của nữ thần Hy Lạp.
Phải rồi, với dáng người đó – khi nàng chưa có mang – với
khuôn mặt đó mà nàng mặc cái toga trắng rộng và đứng ở thềm điện Pantheon thì
nàng thực là hiện thân của nữ thần Athena. Bất giác như bị thu hút bởi cái nhìn
hiền hậu của “nữ thần”, Chương cúi chào nàng không hề bỡ ngỡ, đúng như chào một
người quen biết đương nhiên. Nàng cũng nở nụ cười và cúi chào Chương, và còn
“đương nhiên” hơn khi nàng cất giọng hỏi – nàng hỏi bằng tiếng Việt:
- Ông hẳn là người Việt Nam?
- Sao bà biết?
Nàng lắc đầu:
- Là tôi đoán vậy!
Vừa lúc đó một người đàn ông nhô ra khỏi cửa phòng đợi, tiến
vào hành lang, dáng đi hơi một chút khập khiễng thì phải. Mái tóc chàng gợn
sóng bồng bềnh, vừng trán cao, khuôn mặt dài, đôi mắt mờ ánh suy tư và đượm buồn.
Khoảng bên hàm trái của chàng có chiếc nốt ruồi và một sợi râu dài mà chàng để
nguyên không nhổ. Nàng giới thiệu chàng với Chương:
- Nhà tôi! Hai người đàn ông bắt tay nhau, Chương tự giới
thiệu tên mình trước, người chồng Việt giới thiệu người vợ Mỹ:
- Nhà tôi, tên Mỹ là Horthy, tên Việt là Hoa. Tôi là cựu
trung úy Biệt động quân Trần Nguyên Lĩnh.
- Ủa, tôi cũng là cựu trung úy Biệt động quân. Chúng ta là bạn
cũ cùng một binh chủng!
Vào lúc đó tiếng ở máy phóng thanh mời mọi người lên phi cơ.
May sao chuyến phi cơ này vắng khách, hàng ghế hai vợ chồng Lĩnh–Hoa còn một ghế
trống ngoài cùng. Chương tới để tiếp tục câu chuyện khi phi cơ đã cất cánh qua
Bắc cực, trực chỉ Tokyo – Hoa ngồi trong cùng sát bên cửa kính nhìn ra ngoài.
Cái nhìn của Lĩnh bao giờ cũng đượm suy tư và u buồn, nhưng mỗi khi chàng cất
tiếng nói, vẻ mặt bừng sáng, khoáng đạt, trầm tĩnh. Sợi râu duy nhất mọc dài từ
chấm nốt ruồi đen không còn vẻ dị đoan hay cẩu thả, mà thành một nét cá tính của
chiều sâu suy tư.
- Chị nói tiếng Việt giỏi quá! – Chương nói với Hoa.
- Cám ơn anh – Hoa đáp – nhưng đọc sách Việt thì còn dở lắm,
cứ phải mở quyển tự vị hoài.
- Chị ở Việt Nam bao lâu?
- Tôi sang Việt Nam hai lần, mỗi lần hai năm.
- Nhà tôi – Lĩnh nói – thuộc giáo phái Mennonite, tôn chỉ bất
bạo động tương tự như giáo phái Quaker. Hai lần sang Việt Nam, nhà tôi đều hoạt
động trong Cơ quan Xã hội Tình Thương và Hòa Bình Cơ Đốc – A Service of
Christian Love and Peace.
- Anh gặp chị ở Mỹ? - Không, tôi gặp nhà tôi ở Bình Định, quận
Hoài Ân. Cả hai lần!
- Ý anh định nói cả hai lần khi chị sang Việt Nam phục vụ trong
Cơ quan Xã hội?
- Vâng! Mặt trận Bình Định luôn luôn nặng. Binh chủng
Biệt động quân của chúng ta mấy năm gần đây tới lui nơi này hầu như thường
xuyên. Cơ quan cứu trợ xã hội của nhà tôi cũng vậy.
Nữ chiêu đãi viên đẩy xe rượu tới. Cả ba cùng chọn uống
Cognac Champagne. Chương tiếp tục câu chuyện sau ngụm rượu nồng ấm. Chàng hỏi:
- Anh thụ huấn sáu tuần sình lầy ở Dục Mỹ, Nha Trang xong là
ra chiến tuyến ngay?
- Vâng, dọc theo con đường huyết mạch thuộc Bình Định, đó là
quãng Quốc lộ số 1 tính từ Nam ra Bắc qua các địa danh thoạt là Phù Cát, Phù Mỹ,
rồi quận Hoài Ân bên trái trên vùng núi, kế tiếp trước mặt là quận Hoài Nhơn có
xã Bồng Sơn, tiếp tục đi thẳng nữa là quận Tam Quan, đèo Bình Đê, phía tay mặt
là biển và núi – núi Gà, tôi còn nhớ. Cả bản đồ Bình Định như in hằn trên tim
tôi, từng vị trí máu lửa đó.
Cả ba cùng nâng ly uống. Giọng Lĩnh trầm xuống hẳn, ôn lại một
hình dung héo hắt:
- Những rặng dừa Tam Quan bị chặt cụt ngọn hết, chỉ còn những
thân dừa cao ngẳng trơ trẽn, vụng dại, hệt đám tù binh gầy gò vừa bị chặt cụt đầu
trong một cuộc hành hình tập thể!
- Anh ở Bình Định suốt thời gian phục vụ trong quân đội?
- Quãng giữa tôi có sang Mã Lai sáu tháng học về chiến tranh
chống du kích do các sĩ quan người Anh phụ trách.
Ngụm rượu thứ ba làm Chương bừng vui, chàng hỏi:
- Anh gặp chị Hoa ngoài Bình Định?
- Vâng! Vào ngay dịp đầu! Thuở đó Hoa cùng hoạt động với ông
anh ruột, đoàn ngũ hóa các em bụi đời nạn nhân chiến tranh. Chuyến thứ hai trở
lại Việt Nam, Hoa mới chuyển sang công tác săn sóc thương bệnh binh. Thực ra
tôi thân với ông anh trước – Lĩnh quay lại nhìn Hoa cười. Lần đầu, Henry, tên
Việt là anh Hạnh, ăn cơm với tôi tại một tiệm ăn nhỏ ở ngay quận lỵ Phù Mỹ, tôi
thấy anh đã biết húp canh, mút xương cá, kể cả xương đầu. Đến khi gặp Hoa, cũng
vậy.
Lĩnh nghiêng đầu về phía Chương nói đủ cho chàng nghe giữa
tiếng động cơ phản lực êm ả đều đều:
- Thoạt tôi tưởng họ chỉ sống giả vờ giản dị để dễ gần dân
chúng Việt Nam, như ông Tây thực dân hồi nào vẫn ăn nước mắm mà vẫn chửi mình là
nhà quê. Nhưng không, họ sống thực như vậy, họ không hề cho mình là con dân cường
quốc tới sống với tiểu nhược. Về sau này càng sống nhiều với họ – ở Bình Định
tôi gặp họ hàng ngày, trừ những dịp phải đi hành quân – tôi càng khoái họ, tôi
càng hiểu không phải họ chỉ thích giản dị, xuềnh xoàng – vì giản dị, xuềnh
xoàng thì nước nào cũng có theo cái cách riêng của họ – nhưng họ thích giản dị,
xuềnh xoàng lối Việt Nam, vì họ biết người Việt Nam không lầm cái đơn giản với
cái thô kệch. Vào một dịp ăn lễ Thanksgiving, hạ tuần tháng Mười Một, hai anh
em giữ thói quen riêng gia đình họ bên Mỹ, nhịn đói trước hai mươi bốn tiếng đồng
hồ. Lần đó họ mời tôi ăn, tôi cũng xung phong nhịn mười hai tiếng. Họ nói phải
nhịn như vậy khi ngồi xuống ăn bữa cơm Thanksgiving mới cảm thấy ý nghĩa hai chữ
Thanks và Giving. Tôi nghĩ linh hồn của nước Hoa Kỳ sống động là sống động
trong những người như vậy. Họ có bảy anh em, nhà tôi là người thứ hai, cha là vị
mục sư Tin Lành. Cả bảy anh em đều sống dấn thân như thế, kẻ ở Nam Mỹ, kẻ ở Phi
Châu, kẻ ở Việt Nam.
- Bây giờ anh chị trở lại Việt Nam?
- Không, chúng tôi chỉ tới Tokyo, để rồi từ đó sẽ đi Helambu
(Nepal), công tác xã hội giữa những bộ lạc Sherpa, giống Mông Cổ. Giữa vùng Hy
Mã Lạp Sơn núi xanh đỉnh tuyết trùng trùng điệp điệp đó, tôi được sống gần dòng
suối màu ngọc bích, hay đi dưới hàng cây cao vút hoa trắng như hoa nhài, hay dừng
lại bên một bụi rhododendron hoa đỏ như hoa hải đường, hay nói như đồng bào Thượng,
tự nhiên tôi cảm thấy được xoa dịu phần nào vết thương chiến tranh Việt Nam. Có
lẽ sang năm tôi sẽ đi Châu Phi, hoặc Nam Mỹ, hoặc Đại Dương Châu.
- Anh đã là một đoàn viên của giáo phái Mennonite?
- Gần như vậy!
- ?
- Tôi nói “gần như vậy”, vì quả thật tôi đang công tác cho
Cơ quan Xã hội Tình Thương và Hòa Bình Cơ Đốc, nhưng bình sinh tôi không hề thuộc
về một nhóm phái nào cả. Tôi như một tên tuyệt đối thích ở trường, dù chỉ đóng
khố cũng bận bịu không chịu nổi.
Cả ba cười rộ thực tình. Ba ly Cognac Champagne đã vợi nửa
hoàn toàn hâm nóng tâm tình họ.
Lĩnh nói tiếp:
- Trước đó tôi vẫn nói đùa với anh Hạnh là khi nào giải ngũ
sẽ nhập đạo Mennonite. Tôi nói vậy vì biết tình thế nước mình lúc đó làm gì có
chuyện giải ngũ, trừ khi mình ngã đạn. Thực là kỳ, tôi chỉ đinh ninh mình có
hai trường hợp, một là tại ngũ tiếp tục nhập cuộc chiến đấu, hai là chết. Không
ngờ rơi vào vị trí thứ ba, tôi bị thương ở mắt cá chân tại mặt trận Tam Quan,
vùng núi. Gặp ngay chuyến trực thăng đưa về quận Phù Mỹ. Nơi đây Hoa vào thăm
tôi và tự ý xin gặp cấp chỉ huy cho chở gấp tôi về Quân Y Viện Quy Nhơn. Để chậm
sẽ bị hoại thư cưa đến đùi. Phương tiện giao thông không còn gì ngoài hai chiếc
GMC, một chở quan tài có phủ quốc kỳ – một Đại úy Quân Y vừa tử trận – chiếc
kia chở hai xác binh nhì còn bó poncho. Chiếc trực thăng vừa tới thì đã phải trở
lại mặt trận Tam Quan cùng Bộ Tham mưu Hành quân. Hoa đã “tháp tùng” tôi trên
chiếc GMC thứ hai. Tôi, kẻ bị thương còn sống, được đặt nằm trên băng, hai chiến
hữu xấu số nằm dưới sàn xe, Hoa ngồi ngay sát bên tôi. Trên đường về Quy Nhơn,
đôi ba lần tôi có kín đáo nghiêng đầu nhìn xuống sàn xe. Hai xác chiến hữu cùng
được cuộn trong poncho, khoảng đỉnh đầu buộc túm của mỗi xác có gài chiếc mũ
cát-két vải cùng màu với poncho, sau đó là bốn khoảng thắt bằng dây dù trắng: cổ,
eo, đầu gối và gót chân.
Người tử sĩ lùn thấp thì được poncho gói kín cả chân, người
kia cao hơn nên hai chân thò ra ngoài, màu xám ngoét – hay trắng bệch thì cũng
thế. Không hiểu rõ người chiến hữu lúc chết tư thế ra sao, chỉ biết nhìn theo vết
hằn bó dưới poncho lúc đó thì tay trái áp lấy tai.
Lĩnh ngửa cổ cạn ly Cognac Champagne rồi tiếp:
- Hoa đã đưa tôi về kịp lúc. Tôi chỉ bị cưa khoảng trên mắt
cá một chút và được giải ngũ. Tôi dùng nạng ở Việt Nam, nhưng khi sang Hoa Kỳ
chỉnh hình, tôi không cần dùng nạng nữa, đi chỉ hơi khập khiễng. Chúng tôi làm
lễ thành hôn trên đảo Puerto Rico, nơi có cô em thứ ba của Hoa đương làm công
tác xã hội. Chúng tôi hưởng tuần trăng mật ngay trên đảo đó, đảo có tre mọc hai
bên đường lộ, có những vườn cam, vườn quýt, vườn chuối, sao mà giống Việt Nam!
Chỉ khác có một điều, các cô gái nơi đây khi ra đường đều có bà chaperon đi kèm
để giữ gìn, theo tập tục Tây Ban Nha cổ.
Lĩnh quay lại hỏi vợ:
- Hoa còn nhớ trên hòn đảo thần tiên đó, chúng ta chỉ lái xe
một ngày là hết các danh lam thắng cảnh?
Hoa gật đầu cười tươi:
- Và tới bãi biển nào cũng ùa xuống tắm một lúc. Phi cơ bay
ngang Bắc Cực hơi nghiêng cánh. Thời gian như ngưng lại trong màu tuyết trong
sáng, lạnh thăm thẳm và biến thành tấm gương trong cũng lạnh thăm thẳm để
Chương soi vào nhìn thấy rõ vết thương của người khác mà không thấy đau đớn gì
trong giây lát. Lúc đó Chương mới cạn ly Cognac Champagne.
Mùi rượu thơm lừng bốc lên, tỏa ra như một tấm voan hồng phủ
lên mối sầu của chàng.
- Anh thật là đại diện cho hạnh phúc Việt Nam – Chương chợt
nghe thấy mình nói với Lĩnh – anh trả nợ nước, xứng đáng với công ơn tiền nhân,
vừa một bàn chân tiện trên mắt cá nhưng vẫn đi được; anh có người bạn đường mặt
đẹp như Phật Bà Quan Âm, hòa hợp trong mối tình nhân bản quốc tế; về Việt Nam
lúc nào cũng được, không tự tôn, xa Việt Nam lúc nào cũng được, không tự
ti!
Các nữ chiêu đãi viên đã bắt đầu dọn ăn cho những hàng ghế
trên. Chương đưa mắt nhìn khuôn mặt Lĩnh trở lại chìm trong suy tư.
Chợt Lĩnh quay sang hỏi Chương:
- Anh có biết kinh Phật diễn tả cái vô cùng của không gian
và cái vô tận của thời gian ra sao không?
Chương đỡ khay thức ăn từ tay cô chiêu đãi viên chuyển qua
Lĩnh vào cho Hoa. Khi ba người đã ngồi nghiêm chỉnh trước ba khay, Chương gật đầu
đáp lời cô chiêu đãi viên thứ hai vừa đẩy xe rượu tới:
- Vâng, cô cho chúng tôi uống vang hồng.
Ba chúng ta uống
vang hồng chứ? Và Chương hỏi Lĩnh:
- Kinh Phật diễn
tả cái vô cùng của không gian và cái vô tận của thời gian ra sao?
Lĩnh nhìn ba ly
vang sóng sánh hạnh phúc, bất giác bật cười:
- Có cái gì khác
giữa ly vang này với cái vô cùng vô tận của Thời-Không?
Lĩnh hơi cúi xuống
kiểm điểm lại những hình ảnh nội tâm sắp được phát biểu, rồi khẽ ngửng lên,
không nhìn vào ai, nhưng nói với tất cả:
- Kinh Phật nói –
là tôi cũng chỉ nhớ mang máng – hay nghĩ có một phiến đá vuông mỗi bề ba dặm, một
người cầm một tấm áo cứ một trăm năm lại phẩy lên phiến đá một cái cho đến khi
phiến đá mòn hết. Hay vo tròn dải Ngân Hà, tán thành bụi hòa vào với nước, rồi
tiến về phương Đông với cây bút lông, gặp thế giới nào thì chấm một cái cho đến
khi hết mực Ngân Hà.
Cả ba cùng
nhấc ly vang hồng làm điệu mời nhau, nâng lên môi nhắp ngụm thứ nhất trước khi
ăn. Và họ đồng tình im lặng cho đến khi dùng xong bữa.
2
Họ đã dùng xong bữa!
Phi cơ lại nghiêng cánh. Vẫn một màu tuyết trắng xóa và lạnh thăm thẳm. Chưa ra
khỏi Bắc Cực! Chương có cảm tưởng cái lạnh bên ngoài đã làm cho tắt ngấm hết thảy,
không còn gì, kể cả tiếng động mong manh nhất, trừ tiếng động cơ êm êm rù rì,
dĩ nhiên. Khoảng rộng bên trong phi cơ trở thành mênh mông như có mang theo
sông núi. Tuy nhiên sự vắng lặng nơi mọi hàng ghế không ghê rợn, chỉ buồn buồn,
nỗi buồn bềnh bồng, nhẹ đấy mà núi Thái Sơn cũng bất lực không nhấn chìm nổi.
Chương nhíu lông
mày nghĩ thầm: cảm giác đầu tiên khi con người vừa từ kiếp thú chuyển sang kiếp
người hẳn là nỗi buồn bềnh bồng bỡ ngỡ đó.
Không rõ Lĩnh
quay sang nói những gì với người vợ Mỹ, Chương chỉ thấp thoáng nghe tiếng
Horthy–Hoa đáp thành những câu ngắn đầy dẫy những tiếng “Ồ”, “Phải rồi” đượm vẻ
ngộ nghĩnh đặc biệt của người ngoại quốc nói – dù đã sõi lắm – tiếng Việt. Giọng
nàng rõ ràng có khả năng làm tiêu tan mọi mâu thuẫn như dòng sông hóa giải những
dòng suối, và biển cả hóa giải những dòng sông. Chương không lầm về nỗi buồn bồng
bềnh khôn nguôi, vì chính khuôn mặt Lĩnh lúc đó cũng buồn, thật buồn, tựa như
thực thể của cuộc đời là buồn, và Lĩnh nói với Chương bằng giọng êm hơn đông cơ
phản lực vang vọng từ cái lạnh Bắc Cực ùa vào:
- Thực là lạ
lùng, từ ngày trưởng thành hầu như mọi bất hạnh và hạnh phúc của đời tôi đều
rình để được thể hiện vào hôm ba mươi Tết – thời gian thiêng liêng nhất của người
Việt, thiêng liêng còn hơn sự sống và sự chết nữa. Thời còn là sinh viên tôi chống
chính thể độc tài, gia đình trị, kỳ thị tôn giáo ngu xuẩn của Đệ Nhất Cộng hòa,
bị nhốt vào xà lim đúng tối hôm ba mươi Tết. Vừa đủ một năm sau, chiều ba mươi
Tết, tôi ở tù ra, về tới nhà bước vào bếp, mẹ tôi đang nấu bánh tét. Thấy con về,
mẹ tôi khóc bù lu bù loa, vui buồn lẫn lộn đến tức cười. Anh biết không, tôi bị
cắt cụt chân cũng đúng vào chiều ba mươi Tết đấy anh ạ, và khi tỉnh thuốc mê,
lúc đó vào khoảng mười giờ tối ba mươi Tết thì phải, khi mở mắt thấy Hoa ngồi
ngay bên đầu giường bệnh. Cho đến bây giờ nhiều khi cố nhớ lại, tôi cũng không
rõ tôi và Hoa đã nói với nhau những gì để rồi hai đứa đi tới hứa hôn, chỉ tiếc
thầy mẹ tôi đã mất.
Lĩnh và Chương
cùng cười. Đôi mắt Hoa long lanh mở lớn trên khuôn mặt Phật Bà Quan Âm của
nàng, miệng nàng khuất bên má Lĩnh nhưng Chương biết nàng cũng đang mỉm cười.
Chương nói:
- Dầu sao cũng
còn là đêm ba mươi Tết!
Lĩnh gật đầu:
- Đúng thế! Mùa hạ
năm ngoái chúng tôi đã bắt đầu làm công tác xã hội ở Helambu rồi. Tôi và Hoa tới
dự lễ Losar đón mừng năm mới. Tôi mến những người dân bộ lạc Sherpa biết là dường
nào! Họ yêu thiên nhiên như người dân Việt, họ là những thiên tài về vũ, y như
người dân Việt có thiên phú về thi ca. Chúng tôi tham dự cuộc nhảy múa với họ
suốt đêm tại một tiền đình tu viện. Đêm đó là đêm gì anh biết không?
Chương đáp
ngay:
- Đêm ba
mươi!
- Đúng! Bên ngoài
tuyết rơi tới tấp như để cho đúng nhịp với lời ca bước nhảy bên trong. Bước ra
ngoài, tuyết ngập lút tới bụng chân. Bình minh ló dạng, chúng tôi hoàn toàn bị
tuyết băng nhốt kín. Suốt một đêm ca hát nhảy múa, chúng tôi càng thêm sung sức,
đào phăng phăng từ trong tu viện đào ra. Khi mọi người đã chui ra, nhìn lại,
như thể chúng tôi vừa tái sinh, chui ra khỏi cái linh cữu tuyết băng tập thể.
Tuyết đã ngừng rơi, tia nắng đầu năm vừa bừng sáng. Ngẩng nhìn đỉnh núi Yurin
bên Tây cao mười ngàn bộ, đỉnh núi Yangri bên Đông cao mười một ngàn bộ, kẽ nứt
ở giữa phảng phất một làn sương mù bao phủ. Nhìn xuống bên dưới: thung lũng con
sông Melamchi mở ra êm ả thần tiên! Đứng ở khoảng cao bảy ngàn bộ đó, vào vị
trí thời gian đó, cái đẹp hùng vĩ của tạo vật chụp lấy tôi như một giấc mơ thần
tiên chụp lấy một con người vừa hóa thành bướm, và thực tình tôi có cảm tưởng
mình đứng ngoài cái sống chết.
Giọng Lĩnh tự
nhiên miết mải và càng thăng trầm xuống say mê một cách kỳ lạ khiến Chương có cảm
tưởng như giọng đó từ xa, xa lắm, từ phía ngoài Bắc Cực thấp thoáng màu tuyết
trắng xóa vẳng vào. Chương quên khuấy nỗi buồn bềnh bồng bất diệt trong khi
nghe Lĩnh kể một hơi dài rồi ngừng lại trong cái tiếc nuối bàng bạc của cả
hai:
- Vâng, đúng lúc
nhìn cái linh cữu tuyết băng tập thể mà chúng tôi vừa chui ra, đúng lúc mình có
cảm tưởng hóa thành cánh bướm thần thoại, bay vào một giấc mơ thần tiên đứng
ngoài cái sống chết, thì tôi tê điếng cả người, sực nhớ đã bỏ Dấu Chân Cát Xoá
75 quên cả lũ cải tần ô chết vùi dập dưới làn băng tuyết. Nguyên khi rời Việt
Nam cùng Hoa tới vùng Hy Mã Lạp Sơn công tác xã hội, tôi có mang theo ít hạt cải
tần ô, thứ cải mà thuở sinh thời mẹ tôi vẫn hay nấu canh cho ăn. Tới Helambu,
hai vợ chồng đem gieo ngoài vườn, ngay phía bên hông nhà. Cải mọc mới bằng ngón
tay, tôi nếm thử… gần muốn ngồi bệt xuống đất vì quá cảm xúc – nhớ lại những
bát canh nóng mẹ nấu với tôm tươi, ngồi ăn dưới giàn bí đao quê nhà khi trời vừa
chạng vạng, thuở còn đi học. Hè qua thu lại, thế nào tôi quên khuấy việc bóc lấy
hạt cải từ những bông đã khô đi năm ấy – cho tới lúc bình minh ló dạng, vừa lúc
dự lễ Losar đón mừng năm mới, mới sực nhớ ra. Tiếc ngẩn tiếc ngơ, nghĩ mình chắc
còn lâu lắm mới về Việt Nam để lấy được hạt giống. Nào ngờ qua mùa đông đó sang
xuân, khi những bông huệ rừng crocuses trồi lên, hoa mimosa cũng sắp trổ, nhìn
lại vườn rau đã thấy những búp cải xanh rờn. Bán tín bán nghi, tôi ngắt một lá
nếm lại lần nữa, đúng là cải “cố nhân”, cải năm ngoái. Sướng quá anh ơi! Muốn
chảy nước mắt! Nghiệm ra cũng lạ, vì thứ cải này tuy là cùng tộc với loại cúc dại
và loại cúc nhà…
- Daisies and
chrysanthemums!
Hoa giải thích bằng
tiếng Anh, chứng tỏ nàng vẫn chăm chú theo dõi lời Lĩnh kể… Cả khuôn mặt lẫn nụ
cười vời vợi của nàng nghiêng nghiêng hướng về Chương, khuôn mặt của nữ thần
Athena Hy Lạp, của Phật Bà Quan Âm Việt Nam.
- Phải, – Lĩnh tiếp
– những thứ cải tần ô đó mang sang Việt Nam là miền nhiệt đới, đáng lý phải chết
đi rồi trong mùa đông qua. Mấy hạt cải đó thì sống chi nổi dưới tầng đất đông cứng
của miền Helambu lưng chừng Hy Mã Lạp Sơn! Thế mà chúng vẫn đâm mầm khi tuyết
đã qua. Hè năm đó nhờ cả một vốc hạt cải đã được vãi xuống đất nên “vườn cải
quê hương Việt Nam” của chúng tôi xum xuê không thể tả được, hoa vàng rực! Tôi
có cảm tưởng như mẹ tôi sống lại, hay đúng hơn mẹ tôi đã trở thành vĩnh cửu.
Tôi đã không uổng công bao nhiêu năm vào sinh ra tử! Tôi nghĩ giá như mình có mất
nốt bên chân kia, nghĩa là mất cả hai bàn chân cũng chẳng uổng. Tôi sung sướng
muốn chảy nước mắt là vì thế! Thu tới – tức là thu năm ngoái – tôi cẩn thận để
dành cả thẩu hạt cải vào một dịp cùng Hoa tới công tác tại mấy làng vùng thung
lũng hai bên bờ sông Melamchi, tôi đã đem ba phần tư thẩu hạt cải tần ô rải khắp
lượt, cả tả ngạn lẫn hữu ngạn con sông hoang sơ và trong suốt Melamchi, sau khi
đã rắc cùng khắp mảnh vườn nhà, rắc ra cả ngõ. Kể từ đó tôi tin rằng cải tần ô
Việt Nam sẽ như diều gặp gió mọc bất kể ở đâu. Cứ tính rồi đây mỗi mùa thu, cải
chết đi, số hạt tăng theo cấp số nhân, chim chóc tha đi, gió thổi đem đi, rồi
năm này qua năm khác, ắt là cả vùng Hy Mã Lạp Sơn tràn ngập màu hoa cải vàng của
mẹ tôi. Màu vàng rực anh ơi! Đất nước mình dung dị như vậy làm sao tiêu diệt nổi?!
Ha ha, tôi truyền bá đạo Cải Tần Ô cũng là một hình thức của đạo Việt Nam hồn
nhiên dung dị! Biết đâu, tới ngày nào đó, có một nhà thực vật học Tây phương đi
dạo bờ sông Melamchi hay bất kỳ một dải đất hoang vắng nào miền lưng chừng Hy
Mã Lạp Sơn đó, tình cờ ngó xuống bắt gặp một hoa vàng, lấy làm lạ và ngắt đem về,
loay hoay tìm hiểu sau lớp kính phóng đại – loupe – tìm mãi mà không biết hoa
đó là hoa khỉ khô gì của miền núi này. Daisy không phải, mà chrysenthemum cũng
không, không phải Âu, chẳng phải Nhật. Chung quy chỉ vì bát canh rau nóng nấu với
tôm tươi ngày nào thuở tên thương phế binh Việt Nam còn là cậu học sinh trung học,
được mẹ cho ăn, ngồi dưới giàn bí đao, khi trời chiều vừa chạng vạng.
Chương đã không dằn
được lòng, thốt lên hào hứng:
- Tôi khoái màu
vàng rực của loại hoa cải này. Ở Huế anh gọi là cải tần ô, ngoài Bắc chúng tôi
gọi là cải cúc.
Màu vàng của cải
tần ô không chỉ sáng rực trong lòng Chương lúc đó mà mãi mãi về sau. Đồng thời
Chương cũng hiểu vì sao khi nãy lúc ba người cùng nâng ly vang hồng, họ đã đặc
biệt cùng bị ám ảnh bởi cái vô cùng vô tận của Thời-Không. Kể từ đây cái vô
cùng vô tận ấy được nhuộm vàng màu cải tần ô. Tất cả trở thành vĩnh cửu – như
niềm đau Việt Nam! Chương càng mở lớn đôi mắt nhìn Lĩnh, sững sờ. Chàng đâu ngờ,
thật đâu ngờ, hai người cựu quân nhân của binh chủng Biệt động quân lại đã gặp
nhau ở chỗ ùa nhập, mỗi người một cách, vào hư vô – ùa nhập vào hư vô không phải
để chạy trốn thực tại, mà là để hóa giải mọi nóng bỏng, bất quân bình của thế sự
nhân tình. Bây giờ thì Chương hiểu vì sao khi gặp Lĩnh, tự nhiên chàng có
khuynh hướng nép mình và tự xóa nhòa một cách tin cẩn. Ở chàng chỉ có bề rộng
mà ở Lĩnh là chiều sâu chàng khao khát, chiều sâu mang đủ những vấn đề tương ứng
với những gì chàng đặt lang bang trên bề mặt: thời gian, không gian, hư vô,
tình yêu thiên nhiên – và khuôn mặt Phật nữa chứ! Chương hiểu rồi, tại sao nụ
cười trên mọi khuôn mặt Phật đều phảng phất nửa vui nửa buồn. Rồi đây khi tới
Tokyo, chia thành hai ngả, biết rằng Chương có bao giờ gặp lại cặp vợ chồng Việt
Mỹ này – chàng sinh trưởng từ một đất nước đau khổ đến tuyệt đỉnh của khổ đau,
nàng sinh trưởng ở một đất nước mà óc tổ chức đạt tới chỗ tuyệt hảo của máy
móc, nhưng do đó nhiều khi bộ não chính sách cũng máy móc đến chỗ điên khùng! Họ
chắp cánh bay xa quê hương – mà không phải là rời bỏ – để thành một cặp hoàn hảo
ngoài ý muốn và ngay cả ý thức họ!
Chương có ghi địa
chỉ của họ tại Helambu và cũng đã cho họ địa chỉ của chàng – tại một hẻm Sài
Gòn. Biết rằng rồi đây Chương có còn gặp lại họ? Tuy nhiên trong cái vô cùng vô
tận của thời gian, không gian, họ và Chương há chẳng vẫn thường xuyên gặp nhau
đó sao!
3
Thấm thoắt đã lại
thêm một năm nữa qua đi. Khoảng thời gian ngót hai năm đó, với bất kỳ nơi nào
trên thế giới, cũng chưa thể có gì thay đổi đáng kể dù vui hay buồn, tốt hay xấu.
Nhưng ở Việt Nam thì sự điêu tàn khủng khiếp nhìn thấy rõ từng ngày!
Đêm Giao thừa năm
nay, Chương đứng tì tay bên cửa sổ nhà mình chứng kiến một khung cửa sổ khép
kín câm nín và tối om đối diện ngang bên hông nhà.
Xóm Chương ở là một
xóm lao động, rất đông trẻ con lúc nhúc, lũ trẻ đen đủi con nhà lao động thuần
túy: có; thấp thoáng dăm đứa da trắng, tóc hơi vàng, mắt hơi xanh là lũ trẻ lai
Mỹ: có. Sâu trong xóm và phía sau xóm là khu những cô gái điếm. Đối diện với
khung cửa sổ bên hông căn gác gỗ nhà Chương, cách một mái nhà thấp, là khung cửa
sổ của một căn gác gỗ khác hẹp hơn, xơ xác hơn, vũng tối đọng bên trong nông
choèn như vũng bùn trâu đầm. Đó là gian gác của một cô gái điếm! Mới trưa nay
Chương còn thấy lủng lẳng phơi phía ngoài cửa sổ chừng một chục cặp lạp xưởng.
Giờ đây đêm ba mươi, vào lúc Giao thừa, tiếng chiêng trống bắt đầu vang rền của
đền, chùa quanh đấy, hỏa châu xanh, đỏ, vàng chiếu sáng cả vùng trời Sài Gòn;
những mâm hoa quả cúng lộ thiên, và nến, và hương lấp lánh như sao sa. Riêng
hai cánh cửa sổ bên căn gác gỗ cô gái điếm vẫn đóng chặt câm nín, ôm lấy bóng tối
cũng câm nín và mất hút. Nếu ban ngày không đã từng nhìn thấy, chắc Chương
không thể ngờ khoảng đó có hai cánh cửa sổ – trong khi những khung cửa sổ khác
trên những từng gác cao thảy đều như những nụ cười chan hòa ánh sáng. Chương nhớ
có lần chứng kiến cảnh hai cô gái điếm dời chỗ ở. Chiếc taxi hai cô gọi vào sâu
trong xóm – cũng xóm này – đậu ngay trước cửa. Hai cô vừa rúc rích cười vừa hấp
tấp khuân “đồ nghề” ra. “Đồ nghề” đây là chăn, là gối, là mấy cái gối ôm.
Chương không bao giờ quên cảnh các cô cười ngặt nghẽo khi ném vội những bạn đồng
hành vô tri mà vô cùng gợi cảm đó vào trong taxi. Trong khi các cô cố ấn chúng
thật nhanh, thật gọn vào phía ghế sau taxi, thì hai chiếc gối ôm tai ác đã như
thể hềnh hệch cười ưỡn mình tuột khỏi cánh tay một cô mà lăn kềnh xuống mặt đường,
báo hại các cô phải cúi xuống lượm vội lên, nhét vội vào taxi, lườn bụng và hai
vai rung lên. Các cô vẫn cười!
Đôi mắt Chương
trân trân nhìn vào khoảng có hai cánh cửa sổ khép chặt câm nín đêm ba mươi Tết.
Cô gái điếm hẳn đã về quê! Đêm ba mươi Tết, những đứa em lang bạt, những đứa
con hoang tàng đều cố lần về quê tìm hơi ấm của mẹ, của gia đình chút ít. “Má,
con đã về!” – Chương nghĩ vậy. Cô chào má và giơ lên một chục cặp lạp xưởng đã
phơi khô. “Con mua về ăn Tết nè, má!” Bà mẹ già, Chương tiếp tục nghĩ, mái tóc
trắng, nét mặt nhăn nheo – bà mẹ nào mà chẳng biết con làm gì, nhưng thế bất khả,
không có chọn lựa!
Ba mươi Tết
Chương bỗng thành một thời điểm lạ lùng quy tụ tinh hoa của khổ đau, của hạnh
phúc của cả kiếp người. Chương lại nghĩ tới cặp vợ chồng Việt Mỹ – Lĩnh, Hoa –
và liên tưởng đến vùng cải hoa vàng mênh mông của họ. Sau hai năm, hẳn là vô
vàn các hạt giống đã tung bay theo gió! Chẳng hiểu, sau khi rời đám thổ dân
Sherpa vùng Helambu, dấu chân họ – những dấu chân cát xóa – đã lưu lạc sang những
miền nào của châu Phi, hay Nam Mỹ, hay một hòn đảo nhỏ nào của Đại Dương Châu mịt
mù khói sóng?
Ôi những dấu chân
cát xóa trên những ngả đường đời!
Chương chợp ngủ!
Chàng mơ thấy hai
cô gái điếm tay ôm chăn gối, tóc xõa, chạy ùa vào vùng hoa vàng rực của một dải
tần ô ngút ngàn như dải Ngân Hà, phủ gần kín cả đôi bờ một dòng sông rộng tại một
thung lũng – ngang sườn núi thì phải!
Doãn Quốc Sỹ
Sài Gòn 1974