Khi tôi cùng người bạn đến quán cơm của “Mẹ Huế”, thì bàn
trong, bàn ngoài của quán đã đông khách, đành phải chờ.
Quán cơm của “Mẹ Huế” được đông khách như vậy, vì quán không
phải dựng lên để bán cho khách thập phương lỡ bước ghé vào, mà quán, gần như
riêng biệt bán cho quân nhân và các viên chức chính phủ, làm việc trong toà
hành chánh tỉnh ra ăn mà thôi, nên không có bóng dáng thường dân vào quán.
Tôi không thuộc quân số của tiểu khu Quảng Tín, mà thuộc quân số của trung đoàn bộ binh, trung đoàn của tôi lại đồn trú trên lãnh thổ tỉnh Quảng Tín, cách thị xã Tam kỳ 13km, nhưng vì có mấy trạm tuyển mộ tân binh và trạm kiểm soát quân sự do tôi phụ trách, nên tôi thường có mặt ở Tam kỳ.
Quán của “Mẹ Huế” thường trú trong một khu bình dân của thị
xã Tam kỳ, cách tòa hành chánh tỉnh Quảng Tín vài cây số, tiện lợi cho quân
nhân và viên chức từ tòa tỉnh chạy xe ra ăn.
Không ai biết quán (cũng là nhà của “Mẹ Huế”) cất lên từ lúc
nào trên khoảnh đất thoáng rộng, đủ chỗ cho hàng loạt xe honda đậu khi vào quán
dùng cơm,lại có bụi tre phủ bóng mát trước nhà nữa.
Khi tôi biết được quán của “Mẹ Huế” và thường xuyên đến ăn
thì quán đã đông thân chủ. Tôi nhập cuộc vào chốn cơm hàng cháo chợ nầy, vì đời
lính xa nhà. Lần hồi, cơ duyên đưa đẩy, tôi như chỗ người nhà của quán cơm “Mẹ
Huế” luôn.
Tôi không biết tên của “Mẹ Huế”, chỉ nghe người ta kêu vậy
tôi cũng đành theo khuôn phép đó. “Mẹ Huế” ước chừng 55, 60 tuổi gì đó, thân
hình “Mẹ Huế” trông mảnh khảnh, nhanh nhẹn so với tuổi đời của mẹ. “Mẹ Huế” lớn
tuổi hơn đám khách chúng tôi khoảng 15 tuổi. Không thấy “Ba Huế” có mặt bên “Mẹ
Huế”. Có lần không nén được nỗi buồn của mình vì tình duyên đứt đoạn giữa đường, “Mẹ
Huế” hé lộ đôi lời tâm sự. Mẹ kể: Thời còn con gái, Mẹ có quán cơm bán lưu động
trên tàu lửa xuyên Việt. Cuộc đời Mẹ đong đưa ngược xuôi trên con tàu, nay đây
mai đó, sáng Huế, xế Quảng. Và đã từng nhỏ giọt buồn cho từng ga, khi phải chứng
kiến những cảnh đưa tiễn người thân đi xa. Nhất là thời chiến tranh bùng nổ mạnh
trên đất nước.
Đã có hàng chục va-gon tàu, chở quân đội ra tiền tuyến, và
cũng có hàng chục va-gon khác, chở thanh niên các miền vào quân trường huấn luyện.
Rồi buồn thay! Có những lần tàu trở về, một vài va-gon đó, lại mang theo quan
tài của người xấu số trong họ, đã ra đi ngày nào. Bài hát Biệt Ly của Dzoãn Mẫn
thật thấm thía trong hoàn cảnh nầy. (Biệt ly tiếc thương từ đây….Ôi, còi tàu
như xé tâm lòng!…).
Biết vậy, nhưng trái tim Mẹ vẫn bị thổn thức bởi một chàng
trai hào hiệp, đã cứu mẹ thoát một tai nạn, khi tàu bị mìn lật trên đoạn đường
Lăng Cô, Huế. Người đó không ai khác hơn là chàng sĩ quan tùng thiết trên tàu lửa,
người có nhiệm vụ bảo vệ tàu. Người ấy săn sóc cho Mẹ thật tận tình,không có ơn
nghĩa nào đền đáp được. Thế rồi từ đó, hai người dành cho nhau nhiều cảm tình
“đặc biệt”. Với 2 đứa con, 1 trai 17 tuổi và 1 gái 15 tuổi ra đời, là kết quả
cuộc tình đó.
Nói đến đây, “Mẹ Huế” bỗng dừng lại, không kể tiếp phần
cuối những ly kỳ, bí hiểm hơn, tại sao “Mẹ Huế” lại có mặt tại Tam kỳ nầy và,
người hùng của “Mẹ Huế” sau đó đã bị mất tích trên chiến trường tết Mậu Thân Huế
như thế nào (vì hết thời gian biệt phái qua đường sắt, nên phải trở về đơn vị
tác chiến cũ). 2 đứa con của “Mẹ Huế”, chúng biết thân phận mồ côi cha, nên lo
toan giúp mẹ mọi bề trong quán cơm nầy.
Tuy “Mẹ Huế” là người Huế, nhưng ước chừng Mẹ không phải
gốc chính Huế, nên nhiều khi “Mẹ Huế” nói chuyện, phát âm nhiều chữ hơi nặng
không như Huế “đại nội”. Nhưng dù ở miền nào của Huế, món ăn của “Mẹ Huế”
cũng có thứ đặc sản mắm ruốc đậm chất Huế.
Ban đầu ăn, tụi nầy thấy mùi hơi khó chịu vì chưa quen,
nhưng “Mẹ Huế” cứ “cưng” hoài món hàng nầy vào các món ăn của Mẹ nên ăn riết
đâm ghiền, không còn phàn nàn nữa. Quả là “Mẹ Huế” có tài “lãnh đạo và chỉ
huy”.
Thực đơn, bữa ăn của “Mẹ Huế” dành cho thực khách, đám thanh
niên xa nhà như chúng tôi vẫn thường là: cá kho mặn, canh bầu hoặc dưa gang, hột
vịt dầm nước mắm ớt và một dĩa thịt heo ba chỉ cuộn với rau sống chấm mắm nêm
lõng. Bọn “hạm” chúng tôi tuổi ngoài đôi mươi, thấy món gì “Mẹ Huế” cống
hiến trong bữa ăn cũng hài lòng khen ngon cả, vì sức trai, nhai đá cũng giòn
kia mà!
Cứ thế “Mẹ Huế”, nay món nầy mai món khác ,“vổ béo” đàn con
của Mẹ vì nghiệp nước phải xa nhà, không nơi nương tựa bữa ăn ấm cúng của gia
đình. Đặc biệt có những bữa ăn không trùng ngày lễ lạt giỗ kỵ gì cả, thế mà bỗng
dưng thịnh soạn hơn thường lệ. Có thịt heo quay, có cua biển luộc với dĩa muối
tiêu chanh hấp dẫn, còn có tô cháo lươn da vàng ngậy trên bàn nữa. Ai nấy cũng
lấy làm lạ tò mò hỏi nhau: Cái gì đây?Sinh nhật của Mẹ? hay tình yêu của Mẹ lên
ngôi lần nữa? Sai bét hết, không có gì cả: Chỉ là, “Mẹ Huế” vừa gặp mặt ông Đề.
Ông Đề đẹp trai của “Mẹ Huế” vừa cho Mẹ gặp mặt nên Mẹ vui, Mẹ hỉ xả “cúng dường”
cho chúng sanh là chúng tôi một bữa ăn thật đặc biệt để góp phần vào hạnh phúc
riêng của Mẹ. (Hàng tuần “Mẹ Huế” đều vui chơi với ông Đề).
Chúng tôi thường bảo nhau: Cầu cho “Mẹ Huế” gặp ông Đề hoài
hoài để tụi mình sướng. Song tiếc thay, đôi khi trông mặt “Mẹ Huế” cũng eo xèo
buồn, vì lý do: ông Đề bận đi vacation xa, không cho “Mẹ Huế” gặp mặt như những
lần trước nữa. Trông “Mẹ Huế” buồn mà chúng tôi cũng buồn lây, vì thiếu “hàng xịn”
trên mâm cơm.
“Mẹ Huế” tính tình hào phóng,có đồng nào ngoài khoảng tiền
căn bản mồ hôi nước mắt của mình làm ra là Mẹ “xả láng” với tụi tôi ngay. Vì Mẹ
nghĩ: “Tiền làm ra để trên gác, tiền cô bác để ngoài hiên”.
“Mẹ Huế” có thói quen: dù phải bận rộn với công việc, nhưng
trên môi của “Mẹ Huế” lúc nào cũng gắn chặt điếu thuốc lá cẩm lệ của Quảng Nam.
Mẹ luôn nheo nheo đôi mắt để tránh làn khói mỏng tỏa ra từ điếu thuốc và, miệng
thì vẫn bập bập điếu thuốc để tìm cảm thú riêng cho mình (chính gia đình tôi đã
góp phần thú vị nầy vào đời sống của “Mẹ Huế”. Trước khi bị gọi vào quân trường
SQBB/Thủ Đức, tôi là người quản lý của gia đình, phân phối thuốc lá Cẩm Lệ Quảng
Nam - Đà Nẵng đi khắp miền Trung). Nay không ngờ, “Mẹ Huế” lại là khách
hàng của tôi và tôi lại là khách hàng của “Mẹ Huế” qua mâm cơm nầy. Chuyện đời
có lắm điều thú vị bất ngờ khó nói được!
Tôi không biết có lần nào trong mâm cơm chúng tôi ăn, có “độn”
tàn thuốc lá của “Mẹ Huế” vào không, vì môi “Mẹ Huế” luôn gắn chặt điếu thuốc,
nhưng nếu chẳng may, có bị “độn” đi nữa thì cũng chẳng ai bị ngộ độc, vì thuốc
lá được bào chế với hương liệu không có hóa chất độc hại như ngày nay, mà toàn
là thảo mộc quý, tinh chiết ra để ướp thuốc cho thơm ngon mà thôi. Nên, dẫu cho
tàn thuốc đó có “độn” vào mâm cơm đi nữa thì, cũng xem như là “bột ngọt” của “Mẹ
Huế” nêm vào cho ngon cơm, ngon canh chứ không có vấn đề gì. Nô, “Nờ Pờ”
???!!! (No problem).
Bữa cơm ngon là vậy, còn nước uống thì sao. “Mẹ Huế” rất
tươm tất chuyện nầy. Mẹ thường cho thực khách uống nước chè lá tươi, mà phải là
chè lá của núi rừng quận Tiên Phước Quảng Nam nổi tiếng Mẹ mới vừa lòng. Mẹ
nói: Uống chè xanh dễ tiêu thực. Do đó, một khạp nước chè tươi được kê sát với
bụi tre đổ bóng mát trước cửa. Không biết Mẹ có nghiên cứu địa hình, địa vật
trước không, chứ đặt khạp nước nơi đây quả là đúng “chiến thuật, chiến lược”.
Vì ăn xong, người người đều đổ mồ hôi, ra đây vừa nhâm nhi ly chè tươi, vừa hưởng
được làn gió mát từ bụi tre tạt vào thì hỏi, còn gì thỏa lòng cho bằng.
Quán “Mẹ Huế” gần như có thực đơn 4 mùa. Tinh mắt sẽ thấy:
Mùa xuân khi nhà vườn có cải con còn non, “Mẹ Huế” cho ăn thịt heo luộc cuốn
với cải, khế lát, chuối chát, bắp chuối xắt mỏng, rồi chấm với mắm nêm nguyên
chất đang còn con mắm cơm đỏ ửng. Tất cả được cuộn tròn vào bánh tráng mỏng, rồi
được đưa vào miệng, cắn một miếng, lật thế nhai, nghe giòn tan cọng cải đang trộn
với mùi gia vị tỏa ra thấm vào lưỡi, nồng nồng cay cay, khiến mọi cảm giác của
tứ chi lâng lâng tê dại. Ôi! còn món cao lương nào cỡ triều đình sánh kịp.
Mùa hè “Mẹ Huế” lại cho ăn đổi bữa các loại cá: nào cá thu,
cá ngừ, cá chuồn, cá hố. Nào kho, nào chiên, nào hấp, món nào cũng “đắm đuối”
khẩu vị thực khách cả. Ngoại trừ cá sấu. (Có lần tôi hỏi đùa “Mẹ Huế”:
- Chừng nào Mẹ cho ăn cá sấu đây? Nghe xong Mẹ rùng mình
nói:
- Ăn cá sấu, chết không đầu thai lại kiếp người được, vì cá
sấu ăn thịt người, chẳng lẽ chúng ta ăn chúng ta sao mà đòi ăn thứ dại đó. Ghê
quá!
Đầu mùa thu, khi các loại bí, bầu, su, mướp còn xum xuê lủng
lẳng trên giàn thì “Mẹ Huế” lại cho ăn các thổ sản đó.
Đông về, “Mẹ Huế” lại thay món, cho ăn các loại mắm: mắm
dưa, mắm cải, mắm cá chuồn và đặc biệt là mắm cá sặc ở Miền Nam.
Tóm lại, “Mẹ Huế” đem tất cả sở trường của người đầu bếp có
kinh nghiệm lâu năm trong nghề ra phô diễn tài nghệ, thử hỏi làm sao quán của
“Mẹ Huế” không đông khách cho được.
Đám khách trẻ chúng tôi nhờ có quán cơm của “Mẹ Huế” mà được
an ủi phần nào thân phận kẻ xa nhà. Một năm chỉ được vài ngày phép eo hẹp, hiếm
hoi với gia đình. Thời gian còn lại chỉ trông cậy vào quán cơm của “Mẹ Huế”, ăn
để khôn lớn với đời và chiến đấu với nghịch cảnh của chiến tranh.
Ngoài chúng tôi ra, quán cơm của “Mẹ Huế” đôi khi cũng có những
ngoại lệ khác như:đón vài khách đặc biệt nữa.
Khách đây là vài gia đình tử sĩ, từ xa về tòa hành chánh tỉnh
làm hồ sơ nhận xác chồng hay hồ sơ lãnh tiền tử tuất, nhưng gặp phải giờ cơm,
nhân viên xã hội đưa họ đến quán “Mẹ Huế” để họ ăn tạm rồi trở vào làm tiếp.
Đối với loại khách đặc biệt nầy, “Mẹ Huế” không những tiếp
đãi ân cần mà còn không nhận tiền cơm nữa. Vô hình chung quán của “Mẹ Huế” đã
biến thành cơ sở xã hội thiện chí của gia đình quân nhân tòa hành chánh hồi nào
không hay. Tiếng lành đồn xa, ai nghe được cũng dành cho “Mẹ Huế” lòng quý trọng
đáng kính.
Tết năm nào không bận công tác đi xa, vì quá lạc lõng, tôi
tìm đến quán “Mẹ Huế” để hưởng ké tình xuân. Tuy quán đóng cửa, nhưng tôi vẫn
được cho vào. “Mẹ Huế” tử tế cho ăn các món đặc sản xuân của Huế do
tự tay Mẹ nấu nướng, thiết bày, cúng kiếng trong 3 ngày tết cổ truyền.
Rồi mùa xuân năm 1970, chiều 30 tết, sau công tác trở về từ
quận miền núi Tiên Phước, tôi ghé quán “Mẹ Huế” để biếu Mẹ chút quà lấy thảo:
nào hồ tiêu, cau trầu tươi, chè lá xanh, mấy trái mít mật, mấy bẹ vỏ quế rừng
thơm có tiếng (“Mẹ Huế” thường hay pha chút đỉnh quế vào tô nước chấm, vừa ngon
vừa trừ được bệnh tháo dạ) cùng vài lít mật ong, thổ sản đặc biệt của rừng núi
quận Tiên Phước.
Bước vào quán, tôi thấy trước cửa được bày biện một chiếc
bàn tròn đầy đủ lễ vật, hoa quả cùng với mâm cơm thịnh soạn trông trang nghiêm,
thành kính đang cúng. Hương, đèn cháy lung linh. “Mẹ Huế” trong chiếc áo dài
lam, hai bàn tay chụm lại thành búp sen trước ngực, trong tư thế chánh niệm lâm
râm khấn vái, tưởng nhớ tới thằng Hiền, thằng Mân, thằng Ngoạn và thằng Tưởng
cùng với mấy đứa nữa mà “Mẹ Huế” không nhớ hết tên, đã đến quán ăn của Mẹ,
nhưng nay thì “chúng” đã ra đi vĩnh viễn không về nữa, thật tội nghiệp
quá, Mẹ nhớ “chúng” quá.
Tôi nép mình bên “Mẹ Huế” yên lặng xúc động, vì cứ ngỡ rằng:
mâm cơm chiều 30 tết của Mẹ, cốt yếu để cúng tổ tiên theo thông lệ rước ông bà
của Mẹ mà thôi, nào ngờ mâm cơm nầy, Mẹ chỉ cúng để tưởng nhớ mấy “đứa con”
lính tứ xứ của Mẹ ngày nào.
Tôi cầm tay Mẹ, cử chỉ như đại diện cho những anh linh bạn
bè đã khuất, chuyển tải lòng biết ơn đến Mẹ. Vì trong thời gian và không gian lắng
đọng của ngày cuối năm nầy, khắp mọi nhà, mọi miền, ai ai cũng bận tâm nghĩ đến
tổ tiên ông bà mình, còn mấy ai nghĩ đến người khác. Duy chỉ có “Mẹ Huế” ngoài
việc cúng bái cho gia đình mình, lại còn nhớ đến anh em đồng đội của tôi nữa. Họ
đang vùi thân trong lòng đất lạnh, nơi bìa rừng, bên hốc đá nào đó, vĩnh viễn
xa lìa mùa xuân, dù mùa xuân của họ còn rất dài…
Thử hỏi, nếu không có mâm cơm của “Mẹ Huế” trong chiều 30 tết
như thế nầy, thì những vong linh nằm đâu đó sẽ lạnh buốt tê tái đến thế nào!
Mâm cơm của “Mẹ Huế” cúng, còn có ý nghĩa như ánh lửa hồng từ trái tim Mẹ tỏa
ra làm ấm áp phần nào bao vong hồn đang lạc lõng ở cõi mù xa.
Qua đó, tôi cảm nghiệm được rằng: “Mẹ Huế” tuy có đời sống
bình dị, không địa vị gì cao sang trong xã hội cả. Mẹ chỉ làm công việc bình
thường mà không một ai khi đã học qua vở lòng “quốc văn giáo khoa thư” thuở thiếu
thời đều rõ: “Thấy người hoạn nạn thì thương, thấy người đói rét lại càng
thương hơn”. Do đó “Mẹ Huế” đã trải trái tim Bồ Tát của mình ra để bù đắp những
mất mát to lớn mà các bà mẹ, bà vợ của lính phải miệt mài gồng mình gánh chịu
trong suốt chiều dài của cuộc chiến.
Thế rồi biến cố 30 tháng 4 xảy ra, mỗi người tan tác mỗi
ngã.
Năm 2006, sau khi từ Mỹ về thọ tang mẹ ruột xong, tôi đón
tàu lửa vào thị xã Tam Kỳ lân la tìm lại quán cũ của “Mẹ Huế”, để nhớ lại dĩ
vãng ngày xưa, ngày mà “Mẹ Huế” luôn luôn tất bật lo từng bữa ăn cho chúng tôi.
Buồn thay, tất cả nơi đây nay đều xa lạ và ngỡ ngàng. Chỉ
còn một nhân chứng sót lại cho biết: Sau 1975, “Mẹ Huế” đã bị việt cộng bắt đi
tù 6 tháng về tội “giúp đỡ và có liên hệ chặt chẽ với chế độ ngụy”.
Ra tù, “Mẹ bị cưỡng bức đi vùng kinh tế mới ở Kontum.
Do đã già yếu và buồn phiền, không chịu nổi với cảnh sơn lam chướng khí nên Mẹ
đã chết trên vùng đất đau thương đó. Qua đi một đời người rộng lượng, cao cả
đáng kính.
Thế mà, Mẹ đã bị những kẻ vô minh, nuôi lòng thù hận nhỏ
nhen giết chết đời Mẹ.
Nay, sống trên đất Mỹ, hàng năm, tết nào tôi cũng có mâm cơm
chiều 30 tết để rước ông bà và, rước luôn “Mẹ Huế” về vui xuân với gia đình,
tôi coi “Mẹ Huế” cũng là ông bà của mình, để có dịp trả ơn “Mẹ Huế”. Xin “Mẹ Huế”
chứng giám lòng thành của con.