1.
Hôm cô tự kết liễu đời mình, cô mặc chiếc áo lụa trắng ra chợ
huyện như một thói quen. Ra chợ nhưng cô không mua thức ăn như mọi lần về nấu
cho cô và gã bác sĩ bộ đội ăn tối. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng như tờ giấy trắng
tinh, hai chân cô như bị vô thức sai khiến, mắt cô nhìn nhưng chẳng hình ảnh
nào đập vào trí óc, và các thứ âm thanh hỗn độn của một buổi họp chợ sáng nghe
như những nhiễu âm không qua máy lọc.
Cái chợ huyện thời trước chiến tranh là bãi đất trống, mùa nóng bụi đỏ mịt mù, mùa mưa bùn ngập quá mắt cá chân. Thời cải cách ruộng đất nó trở thành nơi đấu tố địa chủ. Thời chiến tranh là chỗ cán bộ tụ họp dân các làng xung quanh đến nghe thông tư, nghị quyết của nhà nước. Sau chiến tranh, dần dà mọc lên vài túp lều bạt rồi hàng quán không biết từ đâu tự động bò đến bày bát đũa, nồi niêu, thúng mủng la liệt, biến bãi đất thành một cái chợ vô tổ chức và vô cùng nhếch nhác. Bây giờ nó là cái chợ lớn nhất huyện nhưng sự vô tổ chức thì vẫn như cũ.
Hôm cô tự kết liễu đời mình, trước chợ có một vụ đâm chém
nhau. Hai gã nông dân trong làng thù oán nhau chuyện gì đấy, chạm mặt nhau
ngoài chợ và chỉ cần gã này chửi đổng gã kia một tiếng là nổ ngay vụ đấm đá kịch
liệt và gã này rút dao đâm gã kia đến lòi ruột. Gã bị đâm giãy đành đạch vài
cái đoạn tắt thở. Gã kia bỏ chạy. Có người kêu lên vài tiếng gì đó nhưng hầu hết
chẳng ai buồn quan tâm, họ ngẩng đầu lên, vểnh hai tai như thể nghe ngóng xem
có gì xảy ra nữa không, nhưng rồi ai nấy lại cắm cúi tiếp tục công việc đang bỏ
dở. Chiếc xe công nông kéo lê đằng sau một đống cây mới đẵn hồi sáng xình xịch
chạy với tốc độ sên bò. Vài chiếc xe đạp phóng vội qua, người trên xe ném cái
nhìn như thắc mắc về đám người đứng lố nhố trước chợ. Một đám hiếu kỳ chừng hơn
chục người xúm lại xem gã bị đâm nằm chết. Họ quan sát gã như quan sát một hiện
vật trong viện bảo tàng. Bình thường có lẽ chẳng ai thèm nhìn gã vì gã xấu lắm.
Xấu nhất là hàm răng vẩu. Bốn chiếc răng cửa hàm trên của gã dài quá khổ mọc
chìa ra, cọc cạch khiến bộ mặt lưỡi cày của gã càng thêm méo mó, dị dạng. Người
gã quắt queo như xác ướp và bây giờ gã nằm bất động dưới đất, mồm há rộng,
trông như một cái xác ướp thật với tất cả sự kinh khiếp, ghê rợn của một xác ướp
khô. Với cái chết gã nông dân xấu xí biến thành món vật lạ cho mọi người thưởng
thức. Đám đông say sưa nhìn cái xác ướp ấn tượng nhất lịch sử văn minh loài người
với cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm bởi, địt mẹ nó, may quá mình không phải là cái
xác đó. Họ chẳng thấy xót thương cho gã tí nào. Mạng người rẻ hơn bèo nhất là mạng
người ở vùng đất nghèo khổ này.
Bỗng một người bỏ đi, đám đông tự động giãn ra đoạn tản mát
hết. Chẳng ai muốn bị công an quấy rầy. Trước khi bỏ đi có người tìm đâu được
chiếc chiếu rách che cái xác. Nhưng chiếc chiếu bé quá lại rách bươm nên chỉ đủ
che vừa kín đống ruột vàng khè lòi ra bầy nhầy trên vũng máu đỏ lòm chứ khuôn mặt
kinh dị của gã vẫn ngửa lên trời như thách đố với ông Xanh. Cái xác nằm trơ trọi
trên mặt đất bẩn thỉu cùng với rác rưởi, giấy vụn và lá khô. Ruồi nhặng bắt đầu
đánh hơi mùi xác chết bay lại bu đen kín khuôn mặt gã. Hai ba con chó hoang gầy
trơ xương cũng chạy lại đứng hít hít như tìm xem có cái gì ăn được không. Cảnh
tượng hãi hùng như trong cuốn phim kinh dị. Lạ lùng nữa. Lạ lùng ở chỗ không ai
thèm quan tâm đến một con người vừa nhắm mắt.
2.
Bây giờ cô đi trên con đường đất đỏ dọc theo bờ sông. Nước
sông đỏ lờ lợ chảy nhẹ, thao thiết. Sương sớm trên mặt sông chưa tan hết, vẫn
lù mù dưới ánh dương quang sáng bạc. Cô thấy người đàn ông già lập cập từng bước
chậm chạp xuống mép sông giăng vó. Ông mặc chiếc quần vải cộc, ngực áo phanh trần
lộ nửa tấm thân đen đủi dày dạn gió sương, xương quai xanh lồi lõm trên ức. Ông
giăng vó thành bốn góc thành thạo như thể công việc này quá dễ dàng đối với
ông, như thể từ lúc còn là cậu trai mười bốn mười lăm tuổi trong làng mỗi ngày
ông chỉ làm công việc duy nhất là giăng vó bắt cá. Giăng xong, ông đứng đó, mặt
nước mấp mé dưới chân đất, người im phăng phắc như pho tượng, tay cầm sào
vó.
Cô nhìn ông không chớp mắt. Hiện ra trong trí cô, ông là hiện
thân của cuộc sống nơi đây. Nó chẳng giống tí nào với cuộc sống cô hằng tưởng
tượng, và mặc dù đã một năm trời trôi qua từ ngày cô theo gã bác sĩ bộ đội về sống
trên mảnh đất này, cô vẫn thấy cô không hề dính dáng gì đến nó, cô vẫn là kẻ đứng
ngoài, cô vẫn dửng dưng với tất cả những sinh hoạt của nó, kể cả những sinh hoạt
mà người ta gán ghép lên nó những hình dung từ văn hoa. Tất cả đối với cô chỉ
là những trò thô lậu bỉ ổi, mà mục đích là che giấu những hành vi đê tiện, xấu
xa đối với nhau. Người nhà quê lúc nào ngoài mặt cũng thưa bẩm lễ độ, nhưng sau
lưng họ chửi nhau bằng những lời lẽ tục tằn, dơ dáy nhất ngôn ngữ loài người có
thể nghĩ ra. Từ gã đảng ủy bộ mặt lúc nào cũng nghiêm trang, ăn nói từ tốn,
dáng người bệ vệ, cho đến thằng bé con năm tuổi, tóc cứng như chổi xể, mặt mũi
lem lấm, tinh ranh như con cáo. Tất cả như sắm một vai trò nào đó trong tiết kịch
vớ vẩn do Thượng đế ném xuống trần gian mà không hề có một kịch bản nào cho các
diễn viên. Có thật đây là đời sống con người hay chẳng qua chỉ là những diễn biến
của những cỗ máy được sắp sẵn theo một quy trình nhất định nào đó, và những thứ
gọi là sinh vật nằm trong đó chẳng hề sở hữu một đời sống đích thực nào.
Cô đứng đó cách người đàn ông giăng vó chừng mười thước, cô
nhìn ông như nhìn một sinh vật lạ nhất trên đời. Ông bất giác quay lại, thấy
cô, ông nở nụ cuời để lộ hàm răng vàng xỉn. “Bà bác sĩ ạ, mới sớm tinh mơ mà bà
đi đâu thế?” Ông nói to, giọng thân thiện.
Cô không thể bảo ông cô đang đi tìm cái chết.
Cô nói gì đó với người đàn ông rồi quay lưng tiếp tục đi về
hướng Cống Liệp. Người đàn ông cũng không nói gì thêm, ông ta quay lại với công
việc cầm sào vó, thân hình vẫn im như pho tượng. Từ chỗ này ra đến Cống Liệp
khoảng cách nếu đi dọc theo bờ sông thì có lẽ đến hơn ba cây, bởi thế cô đi đường
tắt bằng cách trèo qua ngọn đồi dốc thoai thoải. Chân đồi toàn cỏ lác không một
bóng cây nhưng lên đến đỉnh đồi cô đã trông thấy biển. Đại dương phía xa xa
toàn màu xanh đen, ngọt ngào, êm ái. Cô như muốn được nó cuốn hút vào, vỗ về, ấp
ủ. Cô đi xuống đồi, cách bờ biển chừng trăm thước thì dừng lại, tại đây có những
gốc nho biển cao chừng bẩy tám mét, thân cây vặn vẹo, mọc trên cát thành đám.
Cô tìm một gốc cây rồi ngồi bệt xuống cát, hình như đúng ngay nơi gã bác sĩ bộ
đội hay đưa cô ra ngắm cảnh hoàng hôn dạo cô mới về đây.
3.
Gã bác sĩ bộ đội yêu cô lắm. Không, gã si mê cô thì đúng
hơn. Cô chỉ bắt đầu để ý gã sau khi nhận ra gã đến quán uống cà phê thường
xuyên, ít nhất hai ba lần mỗi tuần, đôi khi mỗi ngày. Đó là cái quán cà phê vườn
nằm trước ngôi biệt thự thuộc khu sang trọng của thành phố mà gia đình người chủ
cũ đã bỏ chạy di tản sang Mỹ hôm 30 tháng Tư, người chủ hiện tại là một tay cán
bộ nằm vùng có thế lực trong guồng máy cai trị của chế độ mới. Thành phố mới được
tiếp quản, tình hình kinh tế còn lộn xộn lắm, nhưng bà vợ tay cán bộ có máu
kinh doanh, bà lợi dụng thế lực của chồng biến khoảng vườn cây cối um tùm kín
đáo trước biệt thự thành một quán cà phê. Lối đi trải sỏi trắng bà để nguyên,
trên bãi cỏ xanh bà cho đặt những bộ bàn ghế thâm thấp bằng gỗ xinh xinh, mỗi bộ
vừa đủ cho từ hai đến bốn người ngồi. Quầy cà phê đặt trên hiên nhà, ngoài cà
phê nhà bếp còn nấu vài món ăn nhẹ cho khách.
Thoạt đầu bà thuê hai ba cô gái be bé xinh xinh phục vụ,
nhưng bà để ý các cô không giỏi chiều khách. Khách của bà phần nhiều là cán bộ
trung cấp hoặc bộ đội mới trong rừng ra. Hai hạng người này không cảm thấy thân
mật với các cô còn trong lứa tuổi học trò chỉ đáng con cháu họ. Họ thích các cô
không còn trẻ trung nhưng chưa già để họ ăn nói sàm sỡ, nhả nhớt mà không thấy
ngượng mồm ngượng miệng. Bà chủ quán vợ tay cựu nằm vùng giỏi tâm lý đàn ông.
Sau một thời gian quán ế ẩm vì khách tới một đôi lần rồi không bao giờ trở lại,
bà sa thải hết các cô be bé xinh xinh để thay vào là một ê-kíp toàn các cô các
bà lỡ vận, phần nhiều là vợ sĩ quan chế độ cũ đi cải tạo không biết ngày về.
Các cô các bà này cách đây mười năm là hoa khôi các trường trung học, đại học
thành phố, giờ thất thế họ phải lăn xả ra xã hội kiếm sống, kiếm bằng đủ cách, may
mắn lắm mới có việc làm bưng cà phê, và dĩ nhiên kể cả “đi khách.”
Quán trở thành tụ điểm cho các cuộc tìm hoa của các thành phần
có máu mặt trong chế độ mới. Bà chủ quán chẳng cần quảng cáo cho dịch vụ này của
bà. Một đồn năm, năm đồn mười, mười đồn trăm, và một hôm tiền chui vào két của
bà nhiều đến nỗi bà đếm không kịp.
Cô chẳng còn gì để giữ, chồng cô học tập cải tạo chết mất
xác trên rừng, cô cần tiền nuôi con, và đó là cách dễ dàng nhất cho cô kiếm tiền.
Gã bác sĩ bộ đội ngồi ở quán cà phê cả ba tháng trời, một hôm gã thu hết can đảm
ấp úng hỏi cô lúc cô ra chào: “Cô… cô… cho tôi gặp riêng cô… được không?” Cô
không trả lời gã. Lúc bưng tách cà phê ra, cô để trên khay một mảnh giấy nhỏ.
Đúng giờ hẹn gã tìm đến địa chỉ căn nhà. Đó là một khu xóm tồi
tàn nằm ở miệt Khánh Hội quận Tư thành phố. Căn nhà nằm cuối xóm, ngồi ngay ngạch
cửa là một thằng bé trạc mười tuổi. Vừa thấy gã, nó vội vàng đứng lên, gật đầu
chào, nhường chỗ cho gã lách vào nhà. Gã chưa khuất vào trong thì nó đã ngồi lại
xuống ngạch cửa, mắt nhìn ra đầu xóm, như thể công việc này quá quen thuộc đối
với nó. Gã bước vào, bên trong nhà ánh sáng lù mù vàng chạch từ một ngọn đèn dầu
lạc leo lét cho thấy một gian phòng đủ thứ đồ đạc cũ kỹ ngổn ngang, và một chiếc
giường nhỏ kê nơi góc. Vén mùng ra là một người đàn bà già nua gầy guộc. Gã khựng
lại, định mở miệng xin lỗi thối lui thì bà già đã nói: “Mời thầy Hai vô lối
đó.” Bà chỉ về hướng có cửa vào phòng trong. Sau ba giây đồng hồ lưỡng lự, gã
tiến về phía cửa, vén bức màn trúc hình con công con phượng, bước vào. Gã thấy
cô ngồi trên một chiếc giường con. Thấy gã, cô nằm xuống nhường chỗ ngoài mép
giường cho gã. Gã lại ngồi lên giường bên cạnh cô. Gã phải ngồi gượng nhẹ lắm
vì tiếng cót két của chiếc giường cũ ọp ẹp cứ kêu lên liên hồi. Gã rút trong
túi ra một xấp giấy bạc còn thơm mùi tiền mới nhét dưới gối cô nằm. Cô bảo
gã:
“Anh đi tắt đèn.”
“Không, tôi thích để đèn.” Giọng gã từ tốn, êm nhu.
Cô đưa tay lên lần cởi khuy áo nhưng gã giơ tay cản lại. Cô
nhìn gã ra vẻ thắc mắc, gã bảo cô:
“Cô cứ để nguyên quần áo. Tôi chỉ ngồi đây ngắm cô
thôi.”
Cô không nói gì nữa, thấy hơi lạ về trò chơi này của gã bác
sĩ bộ đội, nhưng cô từng gặp những gã làng chơi có sở thích tình dục kỳ quặc,
thậm chí quái đản, nên cô chẳng lấy gì làm kinh ngạc, cô nằm yên cho gã ngắm
mình. Gã ngồi ngang đùi cô, từ vị trí đó, gã có thể ngắm mặt cô rồi đến bộ ngực
vun tròn, và xuống dần hạ thể nơi cặp đùi đàn bà săn chắc hiện rõ dưới lớp vải
mỏng của chiếc quần tây màu đen. Gã ngồi nhìn cô như thế cả nửa giờ đồng hồ, hai
người không nói gì với nhau. Cô nhắm mắt lại, lim dim, như tránh cặp mắt u buồn
của gã. Cái nhìn của gã không phải để tìm kiếm hưng phấn nhục cảm. Nó chẳng biểu
hiện tí gì lòng say đắm ngây dại của người đàn ông bình thường trước thân thể một
người nữ đang nằm chờ đợi mình đi vào. Nhưng nói nó vô cảm phẳng lì cũng không
đúng. Nó xa vắng buồn bã đến lạ lùng như có điều gì u uẩn chất chứa nhiều năm
tháng trong tâm tư. Cô phải công nhận gã có đôi mắt đẹp, hiếm thấy ở một người
đàn ông. Đen sâu, long lanh như hai hạt nhãn. Da mặt gã trắng xanh như tất cả
những anh bộ đội mới ở trong rừng ra, nhưng đó là khuôn mặt của một người hiểu
biết và nhạy cảm. Khó đoán gã bao nhiêu tuổi, có thể ngoài ba mươi, nhưng có lẽ
gần bốn mươi, thân hình gã dong dỏng cao, dáng đi nhanh nhẹn, quả quyết.
Sau nửa tiếng đồng hồ nhìn ngắm cô, mà cô hoàn toàn không hiểu
gã đang nghĩ gì, hai hạt nhãn bỗng khép lại như cố nén một tiếng thở dài. Gã đột
ngột đứng dậy, thốt một tiếng chào nhỏ rồi hấp tấp bỏ đi như chạy trốn.
Gã yêu cô. Từ đó cho đến hết đời, gã không yêu ai
khác.
4.
Một năm sau khi chồng cô đi học tập cải tạo và chết mất xác
trên rừng trong lúc lao động, cô phải trả lại căn nhà thuê của hai người. Đồ đạc
trong nhà, thậm chí chiếc nhẫn cưới, theo nhau ra chợ trời. Cô đành ôm đứa con
gái mới một tuổi chưa biết đi, cùng một ít quần áo về nhà người anh chồng tạm
trú qua ngày. Hai mẹ con ôm nhau ngủ trên căn gác xép ban ngày nóng như lò
thiêu, ban đêm gió thổi lùng bùng, vật vã. Nhưng cô biết cô ở đây không lâu vì
bà vợ ông anh chồng xem cô như một thứ cùi hủi, nhất là từ khi biết cô có quan
hệ với gã bác sĩ bộ đội. Và bà quyết định đuổi cô ra khỏi nhà sau khi nghe ai
đó mách lại với bà rằng trước khi cặp anh bác sĩ bộ đội, cô từng “đi khách” hằng
đêm sau giờ làm việc ở quán cà phê. Bà không muốn cô làm gương xấu cho hai đứa
con gái vị thành niên của bà. Quan trọng hơn, bà không muốn người quen chòm xóm
xấu miệng nói trong nhà bà có chứa một con đĩ.
Người anh chồng chờ lúc nhà vắng người, nói chuyện riêng với
cô, Đúng ra, bà dắt hai đứa con ra khỏi nhà sau khi dặn dò chồng những điều cần
nói. Ông mời cô ra phòng khách nói chuyện.
“Chẳng giấu gì thím, tôi bây giờ không có quyền hạn gì cả
trong căn nhà này. Thím thấy đó, tôi là kẻ ăn bám trong gia đình, mọi việc
trong nhà ngoài ngõ bây giờ là do bà ấy xoay xở và quyết định. Chú nó chẳng may
mất sớm, tôi thì thế cô, ngay cái nghề gõ đầu trẻ bao năm, tôi cũng không giữ
được. Nhà mình vô phúc. Thôi thì thím cứ ra đi, tôi chẳng giúp đỡ thím được,
nhưng con bé con thím, cứ để nó lại đây chúng tôi nuôi, năm nay nó cũng lên ba
rồi, thím ra ngoài đi làm có đồng nào gửi về, chúng tôi lo cho nó ăn học, khi
nào thím khá giả hơn về đón nó đi chứ bây giờ thím thân một mình không nhà
không cửa như thế này đem nó theo, sao tiện.”
Ông còn nói nhiều nữa và cô hiểu. “… Thím thân một mình
không nhà không cửa như thế này” chỉ có nghĩa là cô nay trong tay người đàn ông
này, mai người đàn ông khác, đem con còn bé đi theo thì làm sao “tiện” được. Cô
nói với người anh chồng qua hai hàng nước mắt giàn giụa trên má:
“Thân em thì coi như bỏ đi rồi, nhưng con em thì làm sao em
yên tâm bỏ nó lại đây được.” Sự tủi nhục cay đắng khiến cô không nói gì được nữa.
Cô chỉ biết khóc. Cô có cảm giác như mình lâm vào bước đường cùng.
“Tôi đã nói chuyện trước với nhà tôi, bà ấy cũng đồng ý như
thế. Chúng tôi thấy đó là giải pháp tốt nhất cho thím.” Người anh chồng nói tiếp.
Lúc đó trong thoáng chốc cô cũng nghĩ như ông anh chồng. Thật
ra ông là người tốt. Nhưng bỏ con lại không người săn sóc khi nó còn quá bé
thơ, lòng cô đau xót lắm. Làm sao cô chịu đựng nổi? Làm sao cô sống được với nỗi
nhớ thương con?
Sau một lúc suy nghĩ, cô bảo người anh chồng:
“Thôi được, em sẽ để con em lại cho anh chị nuôi hộ trong thời
gian nhiều lắm là sáu tháng. Chỉ sáu tháng, thu xếp được chỗ ở là em về ngay
đón nó đi... Em đội ơn anh chị đã cứu vớt mẹ con em thời gian hai năm
qua.”
“Thím đừng nói chuyện ân nghĩa. Tôi áy náy lắm vì không giúp
thím được gì hơn.”
“Vâng, em sẽ đi ngay tối nay.” Nước mắt cô có lẽ đã khô cạn,
cô nói với giọng quả quyết.
Tối đó cô đón xe đi ra khỏi nhà trước khi bà vợ ông anh chồng
về.
Tôi nghĩ lúc đó cô đã có quyết định sai lầm, một quyết định
thiếu suy xét bởi một xung lực khó hiểu nào đó thúc đẩy. Cô có nhiều quyết định
sai lầm trong cuộc đời cô, và quyết định bỏ đứa con lại nhà ông anh chồng là
sai lầm lớn nhất. Vào thời điểm những năm hậu chiến, ngay sau khi chiến tranh
chấm dứt, cuộc sống ở mảnh đất tang thương đó đầy dẫy bất trắc, không có gì bảo
đảm ngày mai dòng đời diễn ra đúng y như dự liệu của mình, mọi chuyện có thể xảy
ra đột ngột, không hề dự báo trước, và cái nặng khôn kham của định mệnh sẵn
sàng đè bẹp bất cứ kẻ nào.
Gia đình ông anh chồng có ý định vượt biên từ lâu. Họ có tên
trong danh sách của chủ tầu, họ cũng đã đặt cọc vàng. Cô vừa đi được hơn tháng
thì một hôm người nhà chủ tầu đến bí mật báo tin tối hôm đó có tầu. Mọi chuyện
xong xuôi, êm thắm. Mua bãi, thực phẩm đầy đủ, chỉ chờ người ra đi. Cả nhà như
lên cơn sốt. Làm gì với con bé cháu ba tuổi bây giờ! Mẹ nó đi đâu, không ai biết.
A, lá thư cuối cùng cô viết cách đây ba tuần, trong đó cô có nói đến chuyện cô
sắp có mối làm ăn kiểu buôn chuyến Bắc-Nam. Ông anh chồng lục tìm lá thư đoạn
ông ôm con bé thuê tắc xi tìm đến địa chỉ căn nhà ghi trên phong bì. Mất cả giờ
đồng hồ chạy xe mới tìm đến nơi, nhưng khi gõ cửa, một người đàn bà lạ xuất hiện,
và sau khi hiểu ra mục đích đi tìm người của ông, bà ta bảo ông cô ở đây chỉ có
hai đêm, sau đó không biết đi đâu, hình như cô vẫn chưa có chỗ ở nhất định. Ông
anh chồng hỏi thăm thêm nhưng bà ta chỉ biết có bấy nhiêu. Thất vọng ngao ngán,
ông đành ôm con bé thất thểu về nhà. Ngồi trên xe, nó khóc. Có lúc nó gào lên
thảm thiết nhưng khi hết hơi thì tiếng khóc nó trở nên khản đặc và nấc lên từng
hồi. Tiếng khóc của đứa con mất mẹ. Nó vẫn khóc như thế từ hôm cô bỏ đi.
Cô mất tất cả, và cuối cùng cô mất luôn đứa con.
Giả sử lúc bỏ đi cô nhất quyết ôm con theo, nếu thế, có thể
nào cô sẽ không đi tìm cái chết khi cô rơi xuống tận cùng tuyệt vọng? Có thể đứa
con bắt cô không được chết, cô còn trách nhiệm với nó chứ! Cô không được quyền
chết. Tình mẫu tử thiêng liêng sẽ giúp cô tăng thêm sức mạnh để chống chõi với
nghịch cảnh. Đứa con giúp cô bớt trầm cảm vì có nó ít ra cô còn tìm thấy đôi ba
niềm vui. Nghĩ thế thôi chứ tôi không biết nếu cô đem theo đứa bé con mình lúc
đó thì cuộc sống cô có hạnh phúc hơn không, và cô có đi tìm cái chết vào buổi
sáng sớm hôm cô ra chợ huyện tình cờ chứng kiến cảnh hai gã nông dân giết nhau
không.
Tôi hoàn toàn không có câu trả lời, bởi chuyện gì xảy ra, xảy
ra chỉ một lần. Ta sống chỉ một lần. Cuộc sống không phải ván cờ cho ta xóa đi
làm lại nếu đang thua. Cuộc sống là ván cờ duy nhất, không bao giờ có lần thứ
hai cho ta đi lại nước cờ sai.
Trịnh Y Thư