Trong cuộc sống đa đoan và nhiều thăng trầm, trắc trở của
tôi, biết bao nhiêu kỷ niệm, biến cố đã trôi qua trong đời kể từ ngày tôi bám
vào chiếc xe ba bánh, xa ngôi làng Mã Châu, xã Xuyên Châu, Quận Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam thân thuộc.
Những vui, buồn, hy vọng, tuyệt vọng đã đến và đi trong đời
sống nhiều đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết. Thế nhưng, tôi sẽ không bao giờ
quên được những tháng ngày đầu tiên của tôi trên đất Mỹ.
Trong trí nhớ của tôi vẫn còn in đậm hình ảnh chiếc Boeing bay ngược chiều kim
đồng hồ đưa chúng tôi từ Manila đến phi trường Chicago vào một ngày cuối tháng
11 năm 1981. Giọng người nữ tiếp viên hàng không êm ái cất lên lời tạm biệt.
Tôi không hiểu hết nhưng đại khái biết rằng cô ta vừa chào mừng chúng tôi sắp đặt
chân lên đất Mỹ.
Tôi tự nhủ, “quãng đời lưu vong thật sự sắp bắt đầu”. Bên ngoài trời đẹp nhưng
xa lạ.
Như lời bà hướng dẫn viên người Phi dặn dò trước khi lên máy bay, chúng tôi,
tay cầm chặt chiếc túi đựng hồ sơ tỵ nạn có chữ ICM thật lớn, sắp một hàng dài
dọc theo hành lang phòng đợi để khỏi bị lạc.
Người đầu tiên ra đón chúng tôi ở phi trường Chicago là một cô gái Việt trẻ đẹp,
có lẽ còn là sinh viên và đang làm việc cho cơ quan thiện nguyện. Một ông Mỹ
già đẩy đến cho cô ta một thùng áo quần và lặng lẽ bỏ đi.
Theo lịch trình đã được ấn định trước, tại Chicago chúng tôi sẽ được cấp phát
áo ấm mùa đông trước khi chuyển máy bay về địa điểm định cư cuối cùng trong
hành trình tỵ nạn.
Trạm cuối của tôi là Boston.Tôi biết và kính trọng thành phố Boston văn hóa lịch
sử, qua nhiều môn học, nhưng chưa bao giờ nghĩ có một ngày sẽ là nơi tôi gửi gắm
phần đời còn lại của mình.
Người con gái đẹp mà tôi không dám hỏi tên, phát cho mỗi người trong đoàn chúng
tôi một chiếc áo ấm. Tất cả đều cùng một cỡ như nhau. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn
chiếc áo ấm dày cộm rộng thùng thình hoàn toàn tương phản với bầu trời nắng
chang chang bên ngoài.
Hiểu ý, với giọng Huế nhẹ nhàng, người đẹp dạy cho chúng tôi, những lưu dân đến
từ vùng nhiệt đới, bài học đầu tiên về thời tiết nước Mỹ:
“Ngó vậy mà không phải vậy đâu. Trời gạt mấy anh đấy. Ra ngoài không áo ấm vài
phút là chết cóng”.
Ngừng một chút, nàng cười tinh nghịch: “Ai không tin bước ra thử thì biết”.
Nghe cô ta nói vui vui, tôi cũng định đáp lại bằng vài lời tán tỉnh nhưng chợt
nhớ ra đây không phải là quán cà-phê trên đường Duy Tân cây dài bóng mát mà là
thân phận hẩm hiu của một người tỵ nạn chân vừa chạm đất quê người, nên đành im
lặng.
Đúng như lời cô gái Việt ở Chicago cảnh cáo, Boston chào đón tôi bằng những cơn
bão tuyết triền miên suốt mùa đông dài rét buốt.
Đêm giao thừa của ngày Tết Việt Nam đầu tiên trên nước Mỹ, không có bánh chưng
xanh, không có rượu nồng pháo nổ, không một lời chúc tụng ngoại trừ âm hưởng của
những bông tuyết trắng bị gió đùa vào cửa sổ.
Người anh lớn tuổi nhất trong nhà đang cặm cụi sửa soạn một bàn thờ nhỏ trong
phòng khách để cúng ông bà. Bàn thờ đơn giản, chỉ một lon hương, hai cây đèn, một
nải chuối và một bình hoa.
Tôi và những người ở cùng nhà ra khỏi phòng, nghiêm trang đứng sau lưng anh.
Anh khấn vái xong, chúng tôi, những kẻ không họ hàng, thân thuộc gì với nhau,
cũng lần lượt mỗi người thắp một cây hương, cúi đầu vái ba vái. Không biết vái
về đâu và cũng không biết từ phương Đông xa xôi, tổ tiên ông bà có nghe được lời
cầu nguyện của những đứa con đang lạc loài trên đất khách.
Tôi thường gọi đất Mỹ nầy là đất tạm dung, trạm dừng chân của tôi và hàng triệu
đồng bào tôi, trên quãng đường dài lưu lạc. Tôi trả thuế cho nước Mỹ căn cứ vào
những lợi tức mà tôi thu nhập được. Đó không phải là một nghĩa vụ thiêng liêng
theo kiểu “Đừng hỏi đất nước đã làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn đã đóng góp được gì
cho đất nước” (Ask not what your country can do for you; ask what you can do
for your country) của cố TT Kennedy.
Nước Mỹ không phải là “country” của tôi. Tôi trả thuế nhưng đó không thể gọi là
đóng góp. Đóng góp hàm ý nghĩa thiêng liêng, tự nguyện trong lúc trả thuế là một
điều luật pháp bắt buộc tôi phải làm nhằm trang trải cho các khoản chi dùng
công cộng.
Ngày tôi đưa tay tuyên thệ làm một người Mỹ vừa được công dân hóa sau năm năm
thường trú, tôi cảm thấy buồn nhiều hơn vui, tủi thẹn nhiều hơn tự hào. Một tên
Mỹ da vàng không quê hương, không tổ quốc, ngơ ngơ ngác ngác giữa quê người, có
gì đáng để mừng vui.
Viên thư ký sở nhập tịch hỏi tôi theo thủ tục có muốn thay cái tên cúng cơm của
tôi bằng tên Mỹ. Tôi lắc đầu. Nhiều người đã chọn đổi tên. Một số người làm như
thế chỉ để dễ kiếm công ăn việc làm nhưng cũng một số khác để chứng tỏ mình biết
hội nhập vào đời sống Mỹ.
Việt Nam, với nhóm người sau, đã đồng nghĩa với một thời quá vãng.
Tự do, vâng, tôi may mắn tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản
thân mình. Ngồi trên thềm tòa nhà lịch sử Fanueil Hall ở Boston sau giờ tuyên
thệ tôi làm bốn câu thơ lục bát để kỷ niệm ngày thành công dân Mỹ:
Mặt mày hớn hở vui tươi
Sao lòng nghe thẹn làm người tự do
Của nầy là của trời cho
Của ta đánh mất không lo đi tìm.
(ttđ)
Năm 1999, vợ chồng tôi quyết định dời sang một tiểu bang khác nếu công ăn việc
làm thuận tiện hơn. Tôi được một công ty chuyên về Internet ở miền Tây Nam phỏng
vấn bằng điện thoại. Kết quả rất khả quan. Họ hứa hẹn rất nhiều, từ việc giúp
chúng tôi di chuyển cho đến việc tạm cư trong thời gian đầu.
Quyết định rời khỏi tiểu bang Massachusetts, về mọi phương diện, vật chất cũng
như tinh thần, là một quyết định lớn của gia đình tôi. Sau này tôi không rời tiểu
bang mà chỉ dời sang thành phố khác cũng thuộc Massachusetts. Dù sao chúng tôi
cũng quyết định bán căn nhà ở Dorchester cho một người quen.
Đêm cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên tôi khám phá ra rằng nước Mỹ với tôi
không phải là đất tạm dung. Cảm giác đêm cuối cùng, cách đây gần 20 năm khi tôi
xa Sài Gòn, đã trở lại với tôi lần nữa. Tôi sắp sửa rời xa một căn nhà, một nơi
chốn thân thương. Căn nhà trên đường Thornley Street là nhà của tôi, Dorchester
là thôn xóm của tôi và Boston là thành phố của tôi. Nước Mỹ đã cho tôi nhiều
hơn tôi trả lại cho nước Mỹ.
Ân huệ mà đất nước nầy đã cho tôi không phải chỉ là tự do nhưng còn là cơ hội
và hy vọng, những điều tôi đã không tìm thấy trên quê hương ruột thịt của mình.
Hy vọng không phải là giấc mơ huyền ảo mà là một điều có thực và là chất sống cần
thiết để nuôi dưỡng một con người phải không ngừng tranh đấu để sống còn như
tôi.
Nước Mỹ gắn bó với cuộc đời tôi nhiều hơn tôi gắn bó với nước Mỹ.
Đêm cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên, tôi nghĩ về đất nước đã cưu mang tôi
trong suốt gần 20 năm nhiều thay đổi của đời tôi với một tấm lòng biết ơn và
trân trọng chân thành.
Đêm cuối trong căn nhà cũ, tôi nằm nhớ lại bàn tay người lính hải quân Mỹ của
chiến hạm USS White Plains vói xuống để nhấc thân hình ốm o, đói khát của tôi
lên khỏi chiếc cầu dây đong đưa bên thành tàu.
Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm trở thành chiếc cầu
biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai,
mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương.
Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi mới sực nhớ ra rằng, tôi chưa bao giờ nói một
tiếng cảm ơn những thủy thủ đã cứu vớt tôi trong đêm hãi hùng trên biển Đông năm
ấy.
Lẽ ra, ít nhất mỗi năm một lần, tôi nên gởi một tấm thiệp Giáng Sinh kèm theo lời
cảm ơn về địa chỉ của chiến hạm USS White Plains ở bộ Hải Quân Mỹ. Tôi tệ đến nỗi
một việc làm đơn giản như thế mà bao nhiêu năm qua tôi vẫn chưa làm được.
Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ tôi nằm ôn lại một khoảng đời 20 năm, từ hai bàn
tay trắng đến khi có được một gia đình êm ấm. Nỗ lực của chính tôi không thể
nào thành đạt nếu không có những cơ hội đã được mở ra từ xã hội Mỹ.
Nước Mỹ là vùng đất của cơ hội và mọi người đều có quyền có một American Dream.
Đêm cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi nghĩ về con đường Dorchester mà tôi mỗi
ngày mấy bận đi qua. Giống như đường Santa Clara ở San Jose, Bolsa ở Nam
California, Colonial ở Orlando, đường Dorchester là xương sống của xóm
Dorchester chúng tôi.
Bao nhiêu người đã ăn nên làm ra cũng nhờ vào con đường nầy, mặc dù không phải
ai cũng biết ơn nó, không phải ai cũng nhớ tới nguồn gốc của chính mình, không
phải ai cũng nhớ đến những ngày đầu tiên đi sắp hàng mua từng vỉ cánh gà, từng
gói mì ăn liền bằng Food Stamps trong cái rét căm căm của miền Đông Bắc.
Trên con đường đó mỗi buổi sáng tôi đã gặp hàng trăm em bé
Việt Nam sắp hàng ở góc đường chờ xe bus đưa đến trường. Những chiếc xe bus màu
vàng nối đuôi nhau đưa các em đến tương lai huy hoàng của nước Mỹ. Nói như cựu
tổng thống Bill Clinton, các em là chiếc cầu của tương lai hiệp chủng quốc Hoa
Kỳ. Các em may mắn quá.
May mắn lớn nhất không phải chỉ vì các em được làm công dân của một cường quốc
nhưng quan trọng hơn, các em không phải sống trong những ngày cháo rau khoai sắn
như hàng triệu đứa trẻ cùng thế hệ các em bên kia bờ trái đất. Các em sẽ không
bao giờ hiểu thế nào là “kế hoạch nhỏ”, “trồng cây, trồng người”. Các em sẽ lớn
lên, vươn lên trong cuộc đời một cách hiên ngang, không sợ hãi.
Nhà văn Trần Hoài Thư đến Boston nhiều lần và cũng đã yêu mến một cách say mê
con đường Dorchester như chính tôi đã và đang yêu mến. Anh Trần Hoài Thư có lần
viết về thành phố Boston: “Con đường Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt
Nam. Và một khu Việt. Và những gương mặt da vàng. Và những lời trao đổi bằng tiếng
mẹ đẻ vang trên bãi đậu xe.
Đời sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt. Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy
thằng trôi thất tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang…Cái mẫu số chung ấy là mẫu
số của bất cứ người tị nạn nào trong chúng ta…Cám ơn Boston với những con tim kỳ
diệu. Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ không có Trần
Trung Đạo”.
Đêm cuối trong căn nhà cũ, tôi biết rằng mình không chỉ có một quê hương. Ngoài
quê hương Quảng Nam Đà Nẵng ở Việt Nam, tôi còn có một quê hương khác, quê
hương Boston trên nước Mỹ này.
Trần Trung Đạo
(viết ngắn lại từ bút ký Hai Gánh Quê Hương)