Sinh năm 1957, Tuổi Dậu. Cái tuổi “Đinh, Nhâm,
Quý, Giáp” được
coi là tài trong số 12 con giáp, vậy mà ông nội hắn thỉnh thoảng lại cằn nhằn đến
mức hắn thuộc lòng cả câu cằn nhằn của ông: “Giá mi ra đời muộn hơn một tháng thì hay hè”. Mẹ hắn nghe mãi
cũng nhàm, chẳng ý kiến, ý cò gì, còn bố hắn mới nghe lần đầu thì phì cười,
cho rằng ông nội chưa già mà đã lẩn thẩn, tuổi nào mà chẳng được,
sinh sớm hay muộn hơn một tháng thì có sao đâu? Đã bảo “trời cho” tức
…trò chơi vợ chồng thì trời cho lúc nào được thế ấy, chứ thắc mắc làm gì? Rõ thật
là…
Khi hắn tròn 15 tuổi, bước vào tuổi dậy thì, trổ mã, chân cẳng bỗng nhiên dài hẳn ra, tóc tốt um, đến mức hắn cũng không tin vào tai, vào mắt mình. Ngày nào cũng vậy, hễ sểnh ra là hắn chạy ra sân kho hợp tác xã, đứng nép vào cột nhà, nơi ông đội trưởng khắc hẳn cái thước dây dài 2 mét lên đó để cân đo lúa cho bà con xã viên, xem hôm nay hắn cân nặng bao nhiêu, dài ra mấy phân so với hôm qua? Mà sao hắn ăn khỏe thế, gia đình càng đói hắn ăn càng khỏe, ăn đến lúc mẹ hắn phải vét nồi cành cạch mới lặng lẽ đứng lên…Nhưng bất ngờ nhất là bạn bè gọi hắn là thằng “Tân một cú”. Mới nghe, không hiểu, hắn cũng chẳng buồn thắc mắc, miễn không phải “Tân mặt cú” như chú Tam ở cuối làng là được. Chẳng biết bố mẹ là ai, chỉ biết do bà cụ Lài bán hàng nước nhặt về, đói ăn, nên ốm nha ốm nhách, cả khuôn mặt choắt cheo, chỉ nhô lên mỗi đôi mắt tô hố cùng chiếc mũi khoằm nhọn hoắt …
16 tuổi, hắn bắt đầu thắc mắc về câu nói nằm lòng của
ông:
– Ông ơi sao cháu sinh cuối năm 1957 ông lại cứ muốn cháu
sinh vào đầu năm 58 hả ông?
Ông ngẩn ra nhìn hắn như nhìn một đứa trẻ xa lạ trong
làng lâu lắm mới gặp lại, trả lời nhát gừng:
-Tuổi Dậu vất vả lắm mi à, cầm tinh con gà, suốt đời chỉ loay hoay bới đất kiếm ăn thôi,
dính chữ Đinh cũng tài nhưng “chữ tài liền với chữ tai một vần” cứ hễ nhô đầu
lên là bị đập. Nếu may mắn không bị người đập thì cũng bị trời đập cho chết
tươi mi à .
Hắn tò mò:
– Ông nói vậy có nghĩa là cháu sẽ chết sớm hả ông?
-Không, Ông liếc qua nó một cái nhìn hờ hững rồi bảo: – Mi
không thuộc diện chết non nhưng cũng không thọ lâu. Nếu mi sinh đầu năm Tuất
thì đỡ , bởi các cụ bảo “Chó kiếm ăn giữa chợ, vất vả, nhếch nhác một tí, nhưng
không bao giờ lo đói.
Chợt ông quay đi nén một tiếng thở dài, lẩm bẩm:
-Đàn ông, con trai chi mà má đỏ, môi hồng… giống mẹ …yểu mệnh,
yểu tướng mi ơi…
Trong lúc hắn ngẩn ngơ chưa hiểu “đầu cua tai nheo” gì , định
thắc mắc về câu ông bà bảo “con trai giống mẹ khó ba đời” thì ông đã vác con
dao rựa bỏ ra đầu hè vót nan.
17 tuổi, như mọi thanh niên trai tráng trong làng, hắn
phải nhập ngũ theo khẩu hiệu treo kín đường làng, ngõ xóm:
– “Hậu phương thi đua với tiền phương”
– “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”.
Hôm cậu văn thư tập tễnh đưa giấy tuyển quân đến nhà, cả ông
và bố hắn mặt tái dại vì biết rõ trai làng ra đi hầu hết không có ngày về, chỉ
bằng “Tổ quốc ghi công, gia đình vẻ vang” là treo kín một góc tường.
Giữa sự sống và cái chết, tất nhiên hắn chọn sự sống, dù sống
trong cảnh đói ăn, thiếu thuốc, sự khó khăn hiện rõ trong từng chi tiết trong
nhà: Cái mâm gỗ sứt mẻ, trạn bát mốc meo chỉ có vại cà mặn chát ăn quanh năm suốt
tháng. Hôm nào có khách khứa hay lễ tết gì mới được thêm thìa mỡ, gọi là cải
thiện. Ấy thế mà nồi cơm bay hết veo…Cả nhà 6,7 người, chỉ có hai cái giường sập
sệ, kể từ khi có mặt trên đời hắn đã quen với cái giường cũ kỹ ấy, thậm chí bốn
chân giường phải kê, phải chèn bằng đinh, bằng gạch . Nền nhà nện bằng đất,
đóng hàng vạn quả trám xuống vẫn nứt toác. Ngay góc nhà – nơi để bồ đựng thóc-
lúc nào cũng vơi tận đáy, dây treo quần áo tòng teng toàn những mảnh vá
chằng, vá đụp. Cả nhà từ ông bà đến anh em hắn, mỗi người chỉ độc “ quân tử nhất
bộ” để mặc ra đường, còn lại cái nào cái nấy cũng sứt chỉ, gấu, bạc
phếch, đứt khuy, chằng chịt năm bảy miếng vá… Đến mảnh vải cùng màu bé bằng bàn
tay cũng phải chạy vạy, xin xỏ khắp làng mới kiếm được để đắp điếm vào chỗ
rách…Dù nghèo nhưng vẫn là tồn tại, là cơ hội sống sót, còn hơn chết mất
ngáp ở độ tuổi trổ mã, đẹp trai nhất làng, nổi tiếng với biệt hiệu “Tân một cú”
như hắn.
Không thể trì hoãn trước yêu cầu của Đảng và nhà nước, cũng
là mệnh lệnh của thần chết, cuối năm 1974 hắn lên đường nhập ngũ. Mẹ hắn
khươ khoắng khắp làng đặng kiếm cho hắn một cô vợ trẻ để nếu hắn có mệnh hệ gì
còn có con nối dõi, kẻo hệ gen quý như hắn mà không đóng góp vốn gen cho quần
thể làng cũng phí. Cả ông và bố hắn đều nhìn hắn bằng cái nhìn “vuốt mắt “như
thể lời trăn trối trước một người sắp chết:
-Cố mà sống để trở về mi ơi.
Lần đầu tiên trong đời hắn thấy ông khóc. Chao ơi ,nước mắt
đàn ông, sao mà quặn lòng, da diết… đến mức hắn không dám nhìn, đành giả
vờ quay đi ôm chặt lấy cô vợ trẻ…
Cô bé vốn là bạn học cùng trường cấp 2 với hắn, nhà ở xã
bên, xinh đẹp nức tiếng, chỉ vì quan niệm: “Con gái là vịt giời, nuôi cho
béo rồi cũng vỗ cánh bay đi, học nhiều làm gì “ nên hết cấp 2 trường làng đã
phá ngang, 14 tuổi ở nhà vun vén cho mảnh vườn 5% của xã cấp. Còn hắn, nhờ ông
nội thúc giục, dồn ép mà lóc cóc đi bộ lên huyện học, cứ mũ rơm đội đầu,
tay xách túi vải tiết kiệm ghép bằng cả trăm mảnh vải bé xíu, trong có đủ
bông, băng, thuốc đỏ đựng trong túi cứu thương, hễ nghe tiếng máy bay là
nhảy đại xuống giao thông hào tránh …
Ngày đi, đêm nghỉ, qua không biết bao nhiêu làng mạc,
sông suối , nỗi nhớ vợ, nhớ mùi hương ngây ngất như mùi hoa lúa,
hoa cau của vợ, nhớ đôi nhũ hoa bồng bềnh trắng muốt với hai chiếc
núm đỏ hồng dưới đôi môi hắn…Một tòa thiên nhiên lần đầu hắn chiêm ngưỡng,
thụ hưởng khiến hắn biến thành một người khác lạ, vừa trần tục, thô
thiển, vừa lãng mạn, thần tiên. Cảm giác chi phối hắn ngay từ bước chân đầu
tiên ra trận khiến hắn chẳng còn hứng thú gì…Chao ơi, trên đời này còn gì có thể
thần thánh, thiêng liêng hơn thế? Lần đầu tiên, cơ thể hắn nóng bừng như
người lên cơn sốt, “tân một cú” bất ngờ nặng trịch như bao nhiêu máu trong người
dồn hết vào đó. Hắn cuống quýt lột trần cơ thể vợ và những thao tác dồn dập
không thể cưỡng lại được, như đã thành thục từ thời hồng hoang nguyên thủy chi
phối, khiến tim hắn đập loạn nhịp, các thao tác cuống cuồng như bị một thế lực
bí hiểm nào đó dẫn dắt, điều khiển…Cho đến khi hắn dật dờ như một cái xác, người
nhẹ bẫng, “tân một cú” nhẽo nhèo như một dải khoai héo, không trọng
lượng…
Bạn bè cùng đơn vị háo hức bao nhiêu thì hắn tuyệt vọng,
chán chường bấy nhiêu…Làm sao quên được phút giây nồng nàn bên vợ? Đi giữa đội
hình, óc hắn lẩm nhẩm một câu thành ngữ dân gian mà bà nội hắn nói trước
đêm động phòng: “Vợ chồng hòa thuận là tiên trên trần”… Đời hắn, sống với
vợ đúng hai tuần, chẳng kịp biết tiên trên trần với tiên ở trần khác nhau thế
nào? chỉ cảm nhận niềm đê mê sung sướng … Ban ngày ngắm vợ không chán mắt, từng
đường nét , cử chỉ, ánh nhìn mơn trớn, chỉ mong bóng tối chụp xuống, vợ hắn
biến thành “tiên ở trần” cho hắn tha hồ động chạm, chiêm ngưỡng, vuốt ve rồi
hùng hục hoá thân thành các động tác tính dục không thể nhịp nhàng, siêu
thoát hơn… Vậy mà “ngày vui ngắn chẳng tầy gang” được đúng 15 ngày, còn đầy
quyến luyến trước tòa thiên nhiên bí ẩn của vợ thì hắn phải ra đi, những khẩu
hiệu treo đầy hội trường trong buổi tuyển quân:
“Thỏa chí bình sinh hai chục tuổi
Sáng trang lịch sử bốn ngàn năm “
Rồi: “Trí làm trai chẳng tiếc đời xanh” …với hắn
sao mà nhạt nhòa, vô nghĩa vì nỗi nhớ vợ đọng đầy trong óc, choán trọn tâm trí
, khiến hắn không đủ tỉnh táo để nhập tâm những điều bình thường khác.
Càng tiến sâu vào mặt trận, hắn càng tuyệt vọng, chán ngán,
câu thơ của Phạm Tiến Duật mà lớp trẻ như hắn phải học thuộc lòng trong
những cuốn sách giáo khoa của trường (nhiều đứa còn ghi vào sổ tay):
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”
Còn hắn chỉ thấy :
Đường ra trận mùa này sợ lắm
Trường Sơn Đông, bao dãy mộ vây quanh “
Cả câu nói của anh hùng Lê Mã Lương: “Cuộc đời đẹp nhất là
trên trận tuyến đánh quân thù” trong bộ phim “bài ca ra trận “nổi tiếng cả
nước, hắn cũng không thể cảm nhận được. Những giây phút nồng ấm bên vợ
như một ảo ảnh thần tiên, lúc nào cũng ám ảnh , khiến hắn chỉ nghĩ : “Cuộc
đời đẹp nhất là những đêm còn được sống trên giường với vợ” … Chính
vì thế, việc làm có ý nghĩa duy nhất của hắn sau mỗi chặng hành quân là cầu
nguyện cho mình được sống sót để trở về làm chồng của vợ. Ngày tiếp ngày hắn
lén lút viết nhật ký và đánh dấu trong quyển lịch bé xíu bằng bàn tay để biết số
ngày ít ỏi của hắn còn được sống trên mặt đất là bao nhiêu?
Đến địa phận Vĩnh Linh, Quảng Bình, nơi nổi tiếng là túi chứa
bom của “giặc Mỹ” với câu thơ để đời của bao nhiêu thế hệ:
“Nơi đây lửa cháy đêm ngày
Đạn băm vết đạn, bom cầy hố bom”
Hắn luôn trong tâm trạng thấp thỏm, lo âu. Bom đạn vô tình,
cả một túi chứa bom khổng lồ như thế thì vài chục người bé nhỏ, sợ sệt như hắn
và lũ bạn cùng tuổi sao thoát khỏi bị “bom ăn” hoặc “ăn bom” theo thổ ngữ của
người địa phương? Chao ôi, chết giữa tuổi 17 “tân một cú” sao?
Cái bộ dạng ngơ ngẩn vừa xa vợ, vừa gần thần chết của hắn
không qua nổi đôi mắt tinh quái của thủ trưởng đơn vị. Một lần đang lặng lẽ
tách khỏi đội hình, mặc đồng đội đùa nghịch tắm suối một cách vui vẻ, hòa đồng,
hắn chúi mũi vào cuốn nhật ký, ghi lại chặng đường kinh hoàng vừa trải qua thì
thủ trưởng xuất hiện. Ngồi bệt xuống gốc cây hiếm hoi còn xót lại sau hàng chục,
hàng trăm trận oanh tạc của bom cối, bom bi, bên cạnh hắn, thủ trưởng cợt
nhả:
-Lính mới tò te có khác, vào thời điểm này, đơn vị mình chỉ
là bổ sung, tăng cường cho chiến dịch “đại thắng mùa xuân 1975 thôi, chứ theo
đúng hiệp định Paris 1973, Mỹ rút về nước hết rồi, làm gì thừa bom đạn mà dội
xuống bất kỳ đâu được nữa?
Hắn nghe mà bừng tỉnh, ôm chầm lấy thủ trưởng còn chặt hơn
ôm vợ:
-Ôi, thật thế ạ? Nghĩa là em còn cơ hội để trở về làng đoàn
tụ cùng cả nhà ạ.
Thủ trưởng thủng thẳng:
-Thật chứ sao không thật, đẹp trai lại “Tân một cú” như cậu
thì lấy mấy vợ mà chả được?
II
Sài Gòn hiện ra khác hẳn với những suy nghĩ ám ảnh trong đầu
óc hắn: cuộc sống “lầm than đói rách” của gần 19 triệu người dân đang bị
“Mỹ Ngụy” kìm kẹp suốt 21 năm là đây ư? Chả phải gã chính trị viên của đơn vị hắn
luôn thuyết giảng: – “Dưới sự cai trị tàn độc của Mỹ, Ngụy, 19 triệu dân miền
Nam không có cái bát để ăn, phải ăn bằng gáo dừa. Dép cũng không có
mà đi, phải đi chân đất suốt 4 mùa mưa, nắng. Con cái sinh ra đều chịu cảnh thất
học, lớn lên thành trộm, cắp, đĩ điếm. Lính “Mỹ Ngụy” đi tới đâu là mở cuộc
càn quét, đốt phá tới đó. Hễ gặp đàn ông thì mổ bụng, moi gan, ăn tươi,
nuốt sống, gặp đàn bà con gái thì hiếp dâm đến chết. Còn “tên” tổng thống
Ngô Đình Diệm từ 1955 đến 1963 đã lê máy chém khắp miền Nam, sau này “thằng”
Nguyễn văn Thiệu lên thay lại tiếp tục áp dụng chính sách cũ, nhốt hết bà con
vào các ấp chiến lược, không khác gì trại tù tập trung nên lúa gạo không có mà
ăn, phải ăn gạo nilon do Mỹ thả từ trực thăng xuống …19 triệu dân Miền Nam ai
ai cũng đói khổ, bần hàn, chỉ mong bộ đội cụ Hồ nhanh chóng vào Nam giải phóng
họ ra khỏi ách kìm kẹp của địch …Lăng nhăng và lăng nhăng…
Cuộc sống trước mặt – như một dòng chảy tự nhiên đầy ắp màu
mỡ, phù sa, phong phú hơn cả sức tưởng tượng của hắn. Sài Gòn lúc này –
dù đang hỗn độn, nhày nhụa, ngổn ngang sau cuộc chiến – không khác gì một
đám cháy lớn, dân đua nhau tìm đường chạy trốn, người vội vã bỏ ra nước ngoài với
hai bàn tay trắng, người gánh gồng vài đồ lặt vặt về quê, người theo “dây
thừng, can xăng, bả chuột, thuốc ngủ lạc xuống âm ty, địa ngục vì sự thất vọng,
bế tắc ê chề …Hoang tàn, hỗn độn thế nhưng trông vẫn vô cùng lộng lẫy sang trọng.
Sự “phồn vinh giả tạo” mà hắn tin vài chục năm sau Miền Bắc- dẫu tiến đến
Chủ nghĩa xã hội cũng không theo kịp.
Con gái Sài Gòn hầu hết được ăn học đến nơi đến chốn nên ăn
nói hiền hòa, dễ thương. Tầm hiểu biết của họ vượt ngoài sự suy nghĩ của hắn.
Cách ăn mặc cũng cực kỳ sang trọng, bắt mắt. Người nào cũng áo cánh đủ màu, quần
lụa đen bóng loáng có “gân” nổi rõ hai bên mông…Chẳng bù cho con gái miền Bắc –
lúc nào cũng một bộ váy đụp, nâu sồng dày cộp, cứng ngắc như mo nang…Người
thành phố dẫu không chân lấm tay bùn cũng gầy guộc, lả lướt như những tàu lá
héo vì thiếu thực phẩm, dinh dưỡng trong khẩu phần ăn khốn khó hàng ngày. Ôi thế
này thì cánh quân đội Viêt Nam Cộng Hòa- gọi nôm na mách qué là bọn Mỹ,
Ngụy phải kéo ra giải phóng Miền Bắc chứ, sao lịch sử Việt Nam lại có bước ngoặt
ngược đời, trớ trêu đến vậy?
Giấu mọi suy nghĩ thầm kín, lớn lao trong đầu, hắn quay trở
về làng, chiếc ba lô con cóc căng phồng đựng đầy chiến lợi phẩm: Từ bột
ngọt, sữa, đường, mì tôm, vải vóc, đài, đồng hồ kèm một con búp bê bằng nhựa mắt
nhắm mắt mở đen sì và chiếc khung xe đạp tòng teng trên nắp …
Gặp lại bố mẹ, vợ con, làng xóm, nỗi nhớ vợ sau gần 1 năm tưởng
được “sổ lồng , tung cánh” theo lời ông bà dạy :
“Dao đâm vào thịt thì đau
Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời “
Nào ngờ, cô vợ trẻ thần tiên – người ám ảnh hắn suốt
chặng đường hành quân, chỉ mười tám xuân xanh mà gầy nhom, ốm nhách như người hậu
sản, ốm đói, khiến hắn chưng hửng …
Như hiểu mọi suy nghĩ của hắn, bà nội hắn than:
-Mi đi, chưa đầy hai tháng thì vợ mi ốm nghén. Khổ bụng chửa
lùm lùm mà nỏ có cơm ăn, còn khổ hơn tau ngày xưa mi à… Thời của tau bị
thực dân Pháp đô hộ nhưng còn có ổng bên cạnh. Chính phủ cũng là chính phủ bảo
hộ, còn nhường quyền sinh, quyền sống cho dân, nỏ như thời bộ đội cụ Hồ mô. Thời
ni, thanh niên trai tráng bị gọi vãn làng, nỏ đi bộ đội cũng mần thanh
niên xung phong, để lại cha già, mẹ héo như rứa. Từ cái ăn cái mặc,
cái mô cũng bị bòn mót để đóng góp nghĩa vụ cho nhà nác…Khổ chi mà khổ rứa…
-Thế thế…hắn ngập ngừng nhìn xuống cơ thể tong teo của vợ…Con
đâu? Trai hay gái?
Nhìn lom lom vào mắt hắn, vợ hắn òa khóc. Hắn kịp hiểu ra một
điều hệ trọng. Sắn khoai khô cũng nuôi nổi con người, nhưng đói ăn, thiếu chất
triền miên lại là lao động chính trong nhà , ăn không no, so với việc gánh vác
quá nặng, lại cảnh “mái non, con yếu”, nên cái thai đã bị sảy, mà như lời mẹ hắn
bảo: Một lần sa bằng ba lần sảy, bằng bảy lần nghén”, nên vợ hắn mới xuống
sắc, hao mòn đến thế, cứ như thể bị đảng và chính phủ đánh tráo vậy .
Bây giờ thì hắn hiểu vì sao ngày hắn ra đi ông nội lại nhìn
hắn bằng cái nhìn trân trối, vuốt mắt như thế. Hẳn ông nhớ những câu đã được học
từ thời trẻ trong sách thánh hiền (khi Đảng Cộng Sản chưa cướp chính quyền): “Xưa
nay chinh chiến mấy ai về”
Hoặc một câu thơ trong truyện Kiều, khiến ông nhớ về cuộc
“thủ ti cở cải “, tam phản”, “tứ phản”, “đại nhảy vọt” ở Trung quốc làm 60 triệu
người chết đói:
“Ngẫm từ dấy việc binh đao.
Đống xương vô định đã cao bằng đầu “
Chiến tranh là chết chóc, là mất mát khổ đau, mọi cuộc chiến
tranh, dù ở phía nào đi chăng nữa: kẻ đi xâm lược hay kẻ bị xâm lược
đều là phi nghĩa cả, làm gì có cuộc chiến tranh nào là chính nghĩa như Đảng
cộng sản tuyên bố ? Hắn nghĩ, thầm cảm ơn số phận vì mình đã sống sót,
nhưng cũng thầm xót xa vì gia cảnh của hắn thay đổi , sa sút quá, đã nghèo lại
còn eo.. Khác hẳn với nhịp sống sôi động , phồn thịnh mà hắn đã chứng kiến từ mấy
hôm trước tại Hòn ngọc Viễn Đông.
Ôm lấy hắn, ông nội xuýt xoa, đôi hàng lông mày bạc trắng
cứ rung liên hồi sau mỗi tràng cười, giọng nói, trong khi răng lợi cái
còn, cái mất, da đầu bóng loáng chẳng còn một sợi tóc:
-Tổ cha mi, tau không ngờ mi trở về mạnh khỏe, rắn rỏi như
ri. ..Nhà tau may mắn nhất làng vì không phải chịu cảnh “Tổ quốc cắt
cơm, gia đình vắng vẻ” …Mi nỏ biết những suy nghĩ giày vò tau trong ngần ấy
ngày mi đi bộ đội mô? Mỗi khi ra nghĩa trang liệt sĩ của làng, tau
lại bần thần , sợ có ngày phải vào viếng mộ mi trong nớ … Cực chi mà cực…Nếu
căn theo khẩu hiệu thời chiến: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người” thì thời hậu chiến ni, nghĩa trang liệt sĩ của làng xã, huyện, tỉnh
phải phình ra gấp 4,5 hoặc chục lần , mi biết chớ ?
Cuộc sống cứ trôi đi đơn điệu và tẻ nhạt. Thấy hắn về, trẻ
khỏe và sung sức, lại có trình độ cấp III trường huyện, hội cựu chiến binh của
xã hồ hởi đưa hắn vào danh sách…Lớp cán bộ huyện , xã cũng hăm hở mời hắn
tham gia vào các chức vụ then chốt của làng, từ bí thư chi bộ, thư ký đội sản
xuất, phó chủ nhiệm Hợp tác xã, đội trưởng dân phòng v.v…giá đui mù câm điếc,
chưa từng chứng kiến cảnh “phồn hoa giả tạo” của chế độ Mỹ- Thiệu, cũng
chưa từng giao tiếp với đám con cái “ ngụy quân ngụy quyền”, đặc biệt là
các nữ sinh trung học, đại học, hắn cũng ngoan ngoãn làm theo mệnh lệnh,
nhưng giờ thì hắn…dí vào…Dẫu không còn là “Tân một cú”…hắn thà nhảy vợ, nhảy
gái sướng hơn, chứ dại dột nhảy lên ghế này, ghế nọ mà “hữu danh vô thực” làm
đéo gì ? Chỉ tổ vạ miệng, cãi nhau… Ấy đấy, từ bé, theo đạo Thánh Hiền của cha
ông, hắn đâu có biết nói bậy, vậy mà trở về làng lần naỳ, chứng kiến sự giao cắt
bẽ bàng của lịch sử , sự thảm bại của nền văn minh nhân loại trước sự lạc
hậu, ngu dốt của miền bắc Xã hội chủ nghĩa, hắn trở nên bất mãn, miệng roi rói
những tiếng chửi, câu thề…Bất cứ chuyện gì cũng đệm “đặc sản” ba miền
vào, cho mặn chuyện, nhằm nâng cao quan điểm, lập trường.
Ngày qua tháng lại, hắn quyết định thi đại học, dù sao
cũng không thể bỏ phí tấm bằng cấp III được. Hơn nữa, tiêu chuẩn bộ đội xuất
ngũ từ chiến trường trở về như hắn cũng được nhà nước hỗ trợ, ngoài tem
phiếu thực phẩm, tháng tháng còn thêm 15, 5 đồng, đủ để ăn sáng, không đến nỗi
đói mốc miệng như bọn “bạch diện thư sinh” khác. Đã thế còn được đôn lên làm lớp
trưởng, lớp phó phụ trách lao động hoăc học tập, vừa có xiền lại có chức…
Cuộc đời quả là lắm lối rẽ bất ngờ…Hắn bắt đầu phất lên từ một
chuyện tưởng như đùa mà đùa lại như thật …
Sáng hôm ấy, hắn loẹt quẹt đội mũ cối , đi đôi dép cao su ra
chợ, chợt chiếc quai phía sau tuột khỏi dép, hắn hì hục dùng một chiếc
nhíp rèn bằng loại thép to bản( luôn để sẵn trong túi quần bộ đội) để
nhét chiếc quai dép vào đúng lỗ trên thân dép… vừa kịp đi vài chục bước lại tuột…
Đường ra chợ chẳng bao xa, nên hắn quyết định đi bộ, vừa lượn chợ, vừa đỡ tốn
tiền gửi xe, dù mức giá khi ấy chỉ đáng hai hào, nhưng cũng mất gần một
bát phở mậu dịch giá ba hào… Mang tiếng là bộ đội cụ Hồ, đi BỘ vào Nam ĐỘI
của ra Bắc, mà từ hồi về làng, hắn chưa dám ăn một bát phở gọi là, chỉ mấy
lần bà ốm, ông đau, vợ nghén, hắn mới dằn lòng mua một bát phở không người
lái, (không nhân, không thịt) chỉ có nước dùng nóng hổi thơm lừng
và bánh phở kèm chút hành mùi để lùa cơm vào miệng qua cuống họng, đẩy
lùi cơn đau ốm của ông bà .
Dạo một vòng quanh chợ, chiếc quai khác lại bật khỏi lỗ, hắn
cáu tiết vì biết đôi dép râu đã hết giá trị sử dụng, quai dép thì nhỏ mà lỗ xỏ
thì quá to nên hơi một tí là tuột, là đứt…Ngó trước ngó sau thấy trước mặt có sạp
hàng bày đôi dép nhựa Tiền Phong trong suốt – hắn ngơ ngơ ngẩn ngẩn,
vừa muốn chặc lưỡi bỏ qua bát phở bò thơm phức để dồn tiền mua dép, vừa lẩm
bẩm tính toán xem cả gia tài hắn lúc này có mua nổi mặt hàng sịn sò, cao cấp
này không?
Chợt một gã thanh niên vẻ mặt băm trợn cúi xuống nhìn hắn,
chào mời:
-Ôi anh giai, dép anh đứt quai rồi, có muốn em đổi cho đôi dép hàng
hiệu mốt nhất bây giờ không?
Hắn đỏ mặt đứng lên, quay người gắt sẵng:
-Vớ vẩn, tao làm gì có tiền.
Gã thanh niên đặt tay lên vai hắn, có ý giữ lại:
-Yên trí đi anh giai, cứ vào cửa hàng em là xong béng.
Hắn thập thững bước đi như một con rô bốt…
Xỏ đôi dép nhựa màu trắng, trong suốt vào đôi bàn chân thô kệch
của hắn, gã bán hàng tiếp tục gợi ý:
-Anh trai mua được đôi dép này thì cũng nên thay đổi trang
phục đi chứ. Ai lại quần áo dưới đất mà dép trên trời như vậy, cọc cạch chết.
Hắn chưa kịp phản ứng, gã đã cởi chiếc mũ cối trên đầu
hắn và bọc đôi dép lốp vào trong tờ báo đảng cũ kỹ , phán:
-Mời anh giai đi theo em.
Hắn ngơ ngác:
– Ơ hay, đi đâu ?
Giọng gã te tởn, ngọt nhạt:
-Anh giai cứ để em lo, chỉ xin anh để đôi dép lốp
và chiếc mũ cối – kỷ vật của chiến trường lại đây cho em xin. Giờ em đưa anh
giai sang hàng quần áo bên cạnh, sắm một bộ đồ mới toe nhớ. Áo sơ
mi trắng, quần kaki xám, mốt bây giờ đấy anh ạ.
Hắn ngẩn tò te: “Chỉ đôi dép rách và chiếc mũ cối cũ mèm
mà hắn có được bộ đồ bắt mắt như vậy sao? có mà nằm mơ…”
Đặt tay lên vai hắn – đang đứng sững như trời trồng, gã bán
hàng hỏi, giọng thân mật:
-À mà anh
giai tên gì nhỉ ?
Hắn đáp thon lỏn:
-Tôi tên Tân.
Nhìn chằm chằm
vào mặt hắn, gã bán hàng bất ngờ thốt lên:
– Trời ơi, có
phải anh là “Tân một cú” không ? Người thì chưa gặp nhưng cái tên thì nổi tiếng
khắp vùng đấy ạ, chẳng khác gì thơ bút tre đâu:
Hoan hô lực sĩ
Lưu Trùng
Dương vật nổi
tiếng khắp vùng gần xa… haha
…Gì chứ lực sĩ
Lưu Trùng Dương làm sao nổi tiếng bằng anh được. “Tân một cú “ nghĩa là cu một
tấn kia mà …hà hà. Theo em khắp thế gian này anh đứng thứ hai đấy,
chỉ sau ông Đùng bà Đoàng* thôi.
-Vớ vẩn, hắn đỏ mặt
, vì từ trước khi đi bộ đội đã quen với cái tên mà lũ bạn nghịch ngợm đặt cho
này. Nhiều đứa còn đùa: – “ Mày mà có ngỏm củ tỏi, con vợ mày cũng chả tiếc
đâu, chỉ tiếc mỗi cái “tân một cú” của mày thôi.
Khoác lên người bộ
cánh xịn, soi mình trong gương, dù hết sức bất ngờ trước bộ dạng trẻ trung,
sang trọng của mình, hắn vẫn không hết tò mò: “Không biết gã bán hàng này
làm gì với đôi dép cũ và chiếc mũ cối của hắn mà lại rộng lòng săn đón đến vậy?
Lại còn xin địa chỉ để đến nhà hắn chơi và nhờ hắn lùng tìm cho vài chục thứ
linh tinh nữa , từ dép lốp , mũ cối, mũ tai bèo, ba lô, bình tông đựng nước, bát
men, đũa sắt v.v ?
Về làng, đem câu
hỏi ra thắc mắc với mấy thằng bạn cùng đơn vị may mắn sống sót, hắn nhận được
câu trả lời:
-Thằng Bình, còn
gọi là Bình xuôi tức …b. xinh, có cậu em ruột tên Hưng, còn gọi là Hưng
Sáng – tức sưng háng, mới tốt nghiệp đại học Ngoại giao Hà Nội, ra
trường làm ở Đại sứ quán Mỹ, lại có cô người yêu tên Mai, người làng gọi
là Mai dấm , vừa là cô gái tên Mai đã được trai làng dấm sẵn, vừa
là mâm …gí, nếu nói lái… Cô này làm phiên dịch cho công ty du lịch
nên nhiều lần đón cựu chiến binh từ Mỹ sang, Đám này thích
sưu tập “ Kỷ vật Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh” lắm nên đồng ý mua với
cái giá bất kỳ nào. Cụ thể, một lần con “Mai dấm” dẫn một ông Mỹ
vào làng gặp một cựu chiến binh để mua dép đúc cao su , ông ấy lôi ra một đôi định
cho không, vì có giữ lại cũng chỉ để ném gà, ném chó trong sân không được vào bới
bếp hoặc lên nhà trên ỉa bậy. Không ngờ “Mai
giấm” ghé tai nói nhỏ:
-Họ thích sưu tập
kỷ vật chiến trường lắm, bác cứ cho gía đi.
Ông lão ngẩn tò
te, chưa kịp xòe bàn tay lên làm hiệu hay bập bẹ câu gì, “Mai giấm” đã quay
sang tay cựu chiến binh Mỹ bảo : – Fifty dollars, go for it**.
Thời điểm đầu
1980 ấy, 10 đồng tiền Hồ là mệnh giá cao nhất rồi, “Mai giấm” đòi 50 đồng là bằng
cả tấn lúa hoặc tương đương với nửa con trâu mộng, thế mà thằng Mỹ lại O kế, Ô
kề trả đủ 50 đô la, lập tức “Mai giấm” mở ví quẳng cho ông cụ
50 đồng tiền Hồ , rồi nhẹ nhàng cất 50 đô vào túi, coi như nó
hớt tay trên của ông cụ 500 đồng, vì 50 đô Mỹ, tính theo thời điểm ấy
là tròn 550 nghìn tiền Hồ. Thế mà ông cựu chiến binh nhà mình, nhận tiền
cứ sướng run, không khảo mà xưng:
-Trời! Số tiền
này bằng cả mấy tháng trời bà lão nhà tôi nhặt nhạnh hí húi ở ngoài vườn, cắp từ
quả trứng, con gà, mớ bí, quả mướp đem ra chợ ngồi bán từ tờ mờ
sáng tới tối mịt đấy. Đúng là lũ đế quốc Mỹ ngu thật, không phân biệt tiền ta với
tiền địch, chả trách thua là phải. Cám ơn cô nhé.
Nghe thủng câu
chuyện, hắn quyết định dừng thi đại học, kiếm tiền bằng cách đi săn kỷ vật. Với
bộ quần áo mới và đôi dép Tiền Phong cùng chiếc xe đạp cũ, hắn đi bon bon khắp
làng trên xóm dưới, mới đầu là bạn đồng ngũ rồi lan ra địa bàn xã, huyện rồi
sang các tỉnh lân cận, ngày nào cũng vớ bộn với giá chỉ bằng một bữa
cơm mậu dịch hoặc quẳng ra dăm đồng bạc lẻ, là cầm về bán cho vợ chồng gã
bán hàng ở chợ với cái giá “trên trời “. Một vốn 40 lời… mặc anh, em, dâu, rể
nhà hắn quát 50, 80 hay 100 USD, hắn đếch “care”.
Trong tay sẵn có
đồng tiền, hắn quyết định vào Nam thử vận may một chuyến. Dù sao ấn tượng
về miền Nam “phồn vinh giả tạo” khác hẳn với miền bắc xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ- vẫn ám ảnh hắn.
III
Giờ thì hắn đang ở
trên đất Mỹ, sống những ngày cuối cùng nơi xứ sỏ cờ hoa xa lạ này. Nhiều người
ngạc nhiên vì sao một anh bộ đội cụ Hồ như hắn, coi việc theo lệnh cụ Hồ đi BỘ
vào Nam , ĐỘI của ra bắc là lý tưởng, mục tiêu vĩ đại của cuộc đời mình, sao lại
có mặt ở nơi “giãy chết” này, lại cố tình giấu kín lý lịch “ quang vinh, muôn
năm”, ba đời ông bà, cha mẹ , bản thân là đảng viên trong thiên đường
Xã hội chủ nghĩa.
“Trăm cái khôn
không bằng đường chôn số phận”, chính hắn cũng không lý giải nổi tại sao đã đến được thiên đường hạ
giới này lại đường đột gõ cửa Diêm Vương nhanh thế? Không lẽ như lời ông nội
nói: “Nếu sinh năm 1958, chó kiếm ăn giữa chợ, cứ tà tà kiếm sống thì không
sao. Có gặp trở ngại gì, chỉ việc dựng ngược lông, ngẩng cao cổ ,
ngoạc miệng, nhe răng ra “gừ gừ” chống trả, hoặc với kẻ yếu thế hơn, cứ đợp cổ
cho đến khi đối tượng phải rùng mình, bỏ chạy là xong , đằng này lại cố tình chui
ra khỏi bụng mẹ sớm hơn cả tháng – tuổi đinh nên bị số phận đè bẹp, đợp ngang,
khiến cuộc đời hắn xoay chuyển 180 độ.
Trong óc hắn bây
giờ chỉ còn lại những cuộc đối thoại rời rạc, âm thầm đầy ân hận. Hắn không phủ
nhận sự phản bội với người vợ đầu đời của mình, chỉ vì cuộc dấn thân bất đắc dĩ
do nghèo túng mà hắn không cưỡng lại được cơn mê hoặc từ người vợ thứ hai. Nàng
vốn là con của một nhà tư sản, sau “cuộc trưng thu” vĩ đại của cộng sản (đứng đầu
là tên hoạn lợn Đỗ Mười) gia đình nàng tan tác, bấn loạn. Cũng may cha mẹ nàng-
vốn hiểu cộng sản từ lúc còn là Việt Minh nên âm thầm giấu được vài chục
cây vàng. Vì thế kinh tế gia đình sau thảm họa 1975 dù sa sút, nhưng bốn chị em
nàng chưa một ngày phải nhá bo bo, sắn sượng, khoai hà.
Thoạt đầu mối quan
hệ giữa nàng và hắn chỉ là quen biết, xã giao, do một người đồng hương của hắn
– vốn vào Nam từ 1954 giới thiệu, không ngờ nàng – tuy cứng tuổi, mặt hơi thô-
lại có khả năng mê hoặc,đồng hóa hắn, thậm chí đánh lạc cả ý thức tư tưởng,
quan điểm lập trường, thái độ chính trị của hắn, hòa tan hắn vào nền giáo dục
thời Việt Nam cộng hòa của nàng và cả cha mẹ nàng, biến hắn thành người khác hẳn.
Hắn quyết định bằng mọi giá phải lấy nàng để trụ lại thành phố này và ngày một
ngày hai sẽ theo nàng và gia đình vượt biển bằng số vàng mà mẹ nàng còn giấu được.
Là con cả, muộn
đường chồng con, lại thấy hắn tuy là trai Bắc nhưng chững chạc, rắn rỏi,
đẹp mã ( Tất nhiên hắn phải bỏ ngay những thói quen xã hội chủ nghĩa – đặc biệt
là câu chửi, lời thề roi rói trên miệng )để hội nhập với gia đình nàng trong những
bữa cơm thân mật vui vẻ, để trở thành chồng sắp cưới của nàng.
Theo gợi ý của hắn,
để đảm bảo an toàn cho chuyến đi, cả nhà nàng phải lặn lội ra Bắc, hắn chủ động
đề nghị mẹ nàng mua lại một chiếc tàu đánh cá của hợp tác xã để dễ dàng qua mặt
đám công an, cảnh sát biển, tuy không có kinh nghiệm đi biển, nhưng hắn cùng một
người bạn sẽ đảm nhiệm việc lái tàu từ Hải Phòng ra đến phao
số không ở đảo Hải Vân (Quảng Ninh) sát biên giới Trung Quốc sang Hồng
Công tị nạn… Tất nhiên cha mẹ nàng đồng ý, không những tin tưởng trao cô cả cho
hắn mà còn trao cả tính mạng của 11 người trong gia đình và bạn bè cho hắn nữa.
Ba ngày đầu yên ổn,
sang ngày thứ tư chợt bão nổi, gió cấp 11, 12 hay cấp “cao đẳng”, “đại học” gì
đó hắn cũng không rõ, chỉ biết gần hai chục con người được một phen phát hoảng,
sóng lưỡi búa to bằng gần cả tòa nhà đổ xuống, thuyền hết chúi xuống lại ngóc
lên như mũi tên bắn, đã tưởng phen này chịu không thấu , không
đắm chìm cả thuyền dưới biển làm mồi cho cá mập thì cũng nôn ra mật
xanh mật vàng ngất lịm… làm sao sống? Không ngờ sóng yên , biển lặng, cử
một người lên đất liền mua nước ngọt, lương thực ngay tại đất Trung Hoa rồi
dong buồm đi tiếp.
Ở trại tỵ nạn gần
2 năm thì cả gia đình nàng được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho sang định cư
do có người nhà ở tiểu bang California bảo lãnh.
Hòa nhập với cuộc
sống mới, cả hai vợ chồng chấp nhận làm nail. Bước đầu tuy bỡ ngỡ khó khăn, phải
ở chung nhà với bố mẹ và mấy đứa em nàng, nhưng rồi không chịu cảnh: “Chó nằm gầm
trạn”, hắn kéo nàng ra thuê phòng ở riêng. Cứ hùng hục ngày làm 12 tiếng, từ 9
giờ sáng đến 9 giờ tối, không kể thứ 7, chủ nhật, ngày lễ ngày tết. Ham tiền đến
mức dù nàng mang thai, sợ mùi hóa chất, hắn vẫn bắt nàng làm việc. Lúc này chất
gia trưởng trong hắn lại nổi lên, nàng muốn được nghỉ làm, đi học college, lượng
thu nhập sẽ hao hụt, nhưng đỡ mệt, lại có điều kiện dưỡng thai, nhưng hắn kiên
quyết không đồng ý. Mục tiêu của hắn là trong 5 năm phải có tiền mua nhà , rồi
chuyển từ địa vị làm thuê lên thành chủ tiệm. Mọi đồng lương, đồng thưởng của vợ,
hắn cai quản hết, quyết không để “lêu lổng”, dù chỉ 1 cent.
Hai đứa con lần
lượt ra đời, mọi việc từ chăm cháu, giặt giũ cơm nước, hắn khoán trắng cho cha
mẹ vợ, không một lời cảm ơn, cũng không nghĩ đến chuyện sản xẻ, bồi dưỡng. Dù
sau này con lớn, cần người đưa đón đi học hàng ngày, hắn cũng kệ, coi như ông
bà ngoại phải có trách nhiệm, còn vợ chồng hắn biến thành hai cái máy kiếm tiền…
Tuổi Mùi tưởng
nhàn hạ sung sướng, may mắn hanh thông trong sự nghiệp, nhưng làm vợ của hắn,
nàng đã sớm úa tàn. Do cơ thể quá mẫn cảm với hóa chất, luôn dị ứng mẩn đỏ khắp
mặt, khắp người, hắn cho phép vợ chuyển sang làm tóc mà không ngờ những vụn tóc
nhỏ li ti của đủ mọi loại người, mọi sắc tộc từ Ấn Độ, American, Korea,
Vietnam, China… từ da trắng, da đen, da đỏ, da vàng…mỗi ngày lại chui sâu
vào phổi của vợ hắn. Mới đầu chỉ là ho khan, sau thấy tức ngực, hắn đồng ý cho
vợ nghỉ làm đi gặp bác sĩ mới phát hiện ra là ung thư phổi giai đoạn cuối.
Sáu tháng xạ trị,
vợ hắn đã không còn sức sống, các tế bào ung thư bị hóa chất tiêu diệt triệt để
, nhưng các tế bào lành lặn cũng bị hủy hoại theo. Vợ hắn mất đúng vào ngày
sinh nhật của tuổi 46, khi đó hắn cũng chớm bước vào tuổi 44.
Lúc này hắn đã có
một căn nhà riêng 5 phòng ngủ và hai cửa hàng để sau này cho hai cô con
gái đứng tên. Phần hắn vẫn dốc sức vào công việc. Mang tiếng là chủ tiệm mà hắn
đi sớm, về khuya, vất vả hơn cả thợ.
Thấy hắn chăm chỉ,
lại góa vợ, nhiều cô quá lứa, nhỡ thì cũng có ý gần gụi, mơn trớn, nhưng hắn
kiên quyết từ chối. Dù có là “Tân một cú” nhưng hắn xác định ở vậy, thà
buồn hơn là bực.
Nhiều người tò
mò:
-Hôn nhân là sự cộng
gộp, sung sướng gấp đôi và đau khổ cũng gấp đôi , sao lại có chuyện buồn,
bực ở đây?
Hắn cáu kỉnh
đáp:
-Buồn vì ở một
mình, còn bực vì phải chịu cảnh “Nâng khăn, sửa ví” chứ sao. Bây giờ hắn đã có
của ăn của để, lấy mấy cô vãn hôn, tay không money về để lại phải chia đôi nhà
cửa, xe cộ à ?
Đời hắn may mắn
có hai cô con gái, giống bố và bà nội như đúc, nên xinh và nhỏ nhắn hơn mẹ, lại
được thừa hưởng trọn vẹn cách giáo dục từ ông bà ngoại nên rất ngoan ngoãn, hiếu
thảo. Chính hai đứa, sau biến cố gia đình, đề nghị bố đưa con gái và vợ cũ sang
Mỹ để có người bầu bạn, chăm sóc, cũng là nhận chị, nhận em…
Hắn chưa kịp thực
hiện giấc mơ đoàn tụ thì đã lại phát bệnh. Căn bệnh ung thư phổi 5 năm trước
tàn phá cơ thể vợ hắn đến lúc này lại hành hạ hắn. Bác sĩ kinh ngạc vì cường độ
làm việc quá sức của hắn, trong vòng 20 năm mua nhà, mua thêm bất động sản rồi
lại bị phá sản, chơi stock, tưởng ăn của thiên hạ ai ngờ ném tiền qua mạng ảo,
phải gây dựng lại từ đầu…Bon chen, cay cú, nghĩ ngợi, cộng thêm mỗi ngày quần
quật mười mấy tiếng, không thư giãn, không nghỉ ngơi, ăn uống lại đại khái, qua
loa đến mức lao lực… Khi bị thổ huyết, ho ra máu mới chịu đến bệnh viện,
bác sĩ bắt uống thuốc, nghỉ làm trong sáu tháng mà chỉ sau 1 tháng, hết
ra máu, hắn đã ôm ngực ra tiệm, vì ở nhà vừa tiếc tiền, lại tiếc thời
gian..Hắn nhớ những ngày chăn trâu , cắt cỏ , cày bừa cho hợp tác xã, từ 6 giờ
sáng đến 6 giờ tối, cứ lấy đít trâu làm đích, nhằm thẳng mông trâu mà tiến, 12
tiếng đồng hồ quần quật chỉ được bình 8 công điểm, tính ra khoảng 3 lạng thóc,
nấu cháo cũng không đủ..rồi vượt Trường Sơn vào Nam “đánh Mỹ “ mỗi ngày đi vài
chục cây số, chân mỏi, mắt hoa, đói lả mà chỉ được phát một nắm cơm ăn với muối,
kèm chút rau rừng cải thiện.. Còn ở nước Tư Bản “bóc lột” này, mỗi tiếng của hắn
ít nhất cũng vài chục đô la, quy đổi ra tiền Việt bằng cả tháng cha mẹ hắn bới
đất, lật cỏ ở quê nhà…Mải làm đến mức quên cả uống thuốc rồi từ ho lao chuyển
thành ung thư lúc nào không biết, đến khi chuyển sang giai đoạn 4, hắn mới quay
lại phòng khám. Chiếu, chụp đủ kiểu, chỉ hiện lên hai lá phổi trắng bệch, co
rúm lại, chỉ bằng một phần ba so với trước. Bác sĩ lắc đầu bảo:
-Mày ham chết, sợ
sống nên chỉ còn vài tháng nữa thôi, nếu rút ống thở ra mày sẽ chết nhanh hơn…
Căn nhà 5 phòng
ngủ vốn đã rộng rênh, hoang vắng, sau đám tang của hắn càng trở nên hoang vắng
hơn. Trước đó, khi bác sĩ hỏi hắn dự định chết ở đâu, tại nhà dưỡng lão
hay bệnh viện, hắn xin được chết ở nhà.
Hai con gái và
hai chàng rể tương lai quanh quẩn bên giường hắn. Vài người bạn đến chơi, nhìn
hắn ứa nước mắt:
-Ôi cái thằng
“Tân một cú”, sao mày ham công tiếc việc, vội vàng bỏ chúng tao mà đi sớm thế hả
mày?
Hai cô con
gái khóc ròng, thầm thương cho cuộc đời ngắn ngủi của hắn nơi dương thế.
Làm việc quần quật, không ngơi tay, không ngừng nghỉ, coi việc ngồi trước màn
hình ti vi là thói xấu xa sỉ, cần loại bỏ. Tụ tập uống một ly cà phê hay cốc
bia với bạn bè là một cuộc giải trí vô bổ, tội nghiệp , thậm chí là hố
chôn thời gian v.v Mặc bố mẹ vợ, hai đứa con gàn quải thế nào cũng không lại…kết
quả cuối cùng là hố chôn…bản thân… hu hư…bố ơi…
Hai chàng rể
tương lai người Mỹ chính hiệu, không sõi tiếng Việt, đưa mắt nhìn vợ,
nhìn nhau rồi nhìn khắp lượt mọi người, thì thầm: Cố…ố quá là quá…á
cố…ố…bố bố… ố ố…
Hà Nội Việt Nam
cuối 2005
Cali cuối tháng 4
-2023.
Trần Khải
Thanh Thủy
(viết lại )
—————–
*Tục ngữ dân
gian:
L. bà Nữ
Oa bằng ba mẫu ruộng
C. ông Đùng bắc
cầu qua sông